Đặt vấn đề: Rối loạn chức năng nút xoang sau phẫu thuật sửa chữa hồi lưu bất thường tĩnh mạch phổi bán
phần là một trong những biến chứng quan trọng trong giai đoạn hậu phẫu. Chúng tôi đã tiến hành hồi cứu mô
tả nhằm khảo sát tỉ lệ biến chứng này tại Viện Tim thành phố Hồ Chí Minh
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tại Viện Tim thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2000 đến 2009, có
77 bệnh nhân (từ 6 tháng tuổi đến 53 tuổi, tuổi trung bình là 15,5 tuổi) được chẩn đoán là hồi lưu bất thường
tĩnh mạch phổi bán phần (có kèm thông liên nhĩ) đã được phẫu thuật. tất cả các bệnh nhân này trước mổ đều
nhịp xoang. Phương pháp phẫu thuật là dùng mảnh vá màng ngoài tim tự thân của bệnh nhân để đóng lỗ thông
liên nhĩ, đồng thời hướng tĩnh mạch phổi về nhĩ trái.
Kết quả: Về hình thái học bất thường 57 trường hợp tĩnh mạch phổi hồi lưu bất thường đổ về nhĩ phải,
14 trường hợp đổ về tĩnh mạch chủ trên, 4 trường hợp đổ về tĩnh mạch chủ dưới, còn lại 2 trường hợp đổ
về nhĩ phải và tĩnh mạch chủ trên. Kết quả phẫu thuật cho thấy không có trường hợp nào có biểu hiện hẹp
tĩnh mạch chủ trên hay tĩnh mạch phổi. Ngay sau mổ có 4 trường hợp (5,2%) có biểu hiện rối loạn nhịp,
đến thời điểm xuất viện thì chỉ còn 1 trường hợp (1,3%). Trong lần tái khám gần nhất của bệnh nhân thì
tất cả đều về nhịp xoang bình thường.
Kết luận: Với kết quả phẫu thuật như trên thì theo chúng tôi phương pháp dùng mảnh vá tự thân để đóng
lỗ thông liên nhĩ và hướng tĩnh mạch phổi về nhĩ trái cho kết quả tốt với tỷ lệ biến chứng thấp, duy trì được nhịp
xoang sau mổ, về lâu dài thì bệnh nhân hồi phục tốt.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 265 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến chứng rối loạn chức năng nút xoang sau phẫu thuật sửa chữa hồi lưu tĩnh mạch phổi bất thường bán phần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 2 * 2011
88
18. Takii Y, Shirai Y, Kanehara H (1994). Obstructive jaundice
caused by a cholesterol polyp of gallbladder: Report a case. Jpn J
Surg 24, pp: 1104-1106
19. Trivedi V, Gumaste VV, Liu S, Baum J (2008). Gallbladder
cancer: Adenoma- carcinoma or dysplasia-carcinoma sequence.
Gastroenterol Hepatol 4,10, pp: 735-741
20. Nguyễn Sào Trung (2003). Bệnh gan và đường mật, Bệnh học
tạng và hệ thống. Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.tr:
150-162.
21. Yalcin S (2004). Carcinoma of gallbladder. Orphanet : pp: 1-5.
BIẾN CHỨNG RỐI LOẠN CHỨC NĂNG NÚT XOANG
SAU PHẪU THUẬT SỬA CHỮA HỒI LƯU TĨNH MẠCH PHỔI
BẤT THƯỜNG BÁN PHẦN
Tiêu Chí Đức*, Nguyễn Văn Phan**, Nguyễn Hoài Nam***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rối loạn chức năng nút xoang sau phẫu thuật sửa chữa hồi lưu bất thường tĩnh mạch phổi bán
phần là một trong những biến chứng quan trọng trong giai đoạn hậu phẫu. Chúng tôi đã tiến hành hồi cứu mô
tả nhằm khảo sát tỉ lệ biến chứng này tại Viện Tim thành phố Hồ Chí Minh
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tại Viện Tim thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2000 đến 2009, có
77 bệnh nhân (từ 6 tháng tuổi đến 53 tuổi, tuổi trung bình là 15,5 tuổi) được chẩn đoán là hồi lưu bất thường
tĩnh mạch phổi bán phần (có kèm thông liên nhĩ) đã được phẫu thuật. tất cả các bệnh nhân này trước mổ đều
nhịp xoang. Phương pháp phẫu thuật là dùng mảnh vá màng ngoài tim tự thân của bệnh nhân để đóng lỗ thông
liên nhĩ, đồng thời hướng tĩnh mạch phổi về nhĩ trái.
Kết quả: Về hình thái học bất thường 57 trường hợp tĩnh mạch phổi hồi lưu bất thường đổ về nhĩ phải,
14 trường hợp đổ về tĩnh mạch chủ trên, 4 trường hợp đổ về tĩnh mạch chủ dưới, còn lại 2 trường hợp đổ
về nhĩ phải và tĩnh mạch chủ trên. Kết quả phẫu thuật cho thấy không có trường hợp nào có biểu hiện hẹp
tĩnh mạch chủ trên hay tĩnh mạch phổi. Ngay sau mổ có 4 trường hợp (5,2%) có biểu hiện rối loạn nhịp,
đến thời điểm xuất viện thì chỉ còn 1 trường hợp (1,3%). Trong lần tái khám gần nhất của bệnh nhân thì
tất cả đều về nhịp xoang bình thường.
Kết luận: Với kết quả phẫu thuật như trên thì theo chúng tôi phương pháp dùng mảnh vá tự thân để đóng
lỗ thông liên nhĩ và hướng tĩnh mạch phổi về nhĩ trái cho kết quả tốt với tỷ lệ biến chứng thấp, duy trì được nhịp
xoang sau mổ, về lâu dài thì bệnh nhân hồi phục tốt.
Từ khóa: hồi lưu tĩnh mạch
ABSTRACT
SINUS NODE DYSFUNCTION AFTER REPAIR OF PARTIAL ANOMALOUS PULMONARY
VENOUS CONNECTION
Tieu Chi Duc, Nguyen Van Phan, Nguyen Hoai Nam
* Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 – No. 1 – 2011: 88 - 93
Background and objective: Sinus node dysfunction is known as a major complication after repair of partial
anomalous pulmonary venous connection. We retrospectively described the results of patch repair or direct
suturing in the intra- atrial tunnel technique.
* Khoa phẫu thuật Lồng ngực mạch máu BV Gia Định ** Viện Tim TP HCM
*** Bộ môn Phẫu thuật Lồng ngực và Tim mạch – ĐHYD TP HCM
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Hoài Nam ĐT: Email: h-nam@hcm.vnn.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
89
Methods: Between 2000 and 2009, 77 patients (mean age, 15.5 years; range, 6 months- 53 years) with
partial anomalous pulmonary venous connection underwent surgical intervention. All patients had normal sinus
rhythm preoperatively. The right anomalous venous pulmonary venous drained to either the right atrium or
superior vena cava in 57 and 14 patients, respectively. The right anomalous venous pulmonary venous drained to
both of the right atrium and superior vena cava in 2 patients.The others drained to inferior vena cava. All patients
had repair with a patch in the intra- atrium technique.
Results and discussion: No patients had signs of superior vena cava or pulmonary venous obstruction
within a mean follow- up of 2.7 years. In the early posoperative period, sinus node dysfunction developed in 5.2%
(4 patients) and was prolonged until dicherge in 1.3% (1 patient). At the most recent clinical visit, all patients
had normal sinus rhythm.
Conclusions: The intra- atrial technique with a patch or direct suture maintains normal sinus node
function posoperatively.
Key word: venous connection
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lý hồi lưu tĩnh mạch phổi bất thường
bán phần thì được Winlows mô tả đầu tiên vào
1739. Phương pháp điều trị hồi lưu tĩnh mạch
phổi bất thường bán phần bằng cách cắt thùy
phổi được báo cáo đầu tiên 1950.
Năm 1953, Neptune và cộng sự đã báo cáo
về 17 trường hợp bệnh nhân có hồi lưu tĩnh
mạch phổi bất thường bán phần có kèm với
thông liên nhĩ đã được phẫu thuật. Trường hợp
mổ sửa chữa hồi lưu tĩnh mạch phổi bất thường
bán phần đổ về tĩnh mạch phổi dưới được thực
hiện bởi Kirlin và cộng sự tại Mayo Clinic năm
1960 và cũng đã được báo cáo bởi Zubiate và
Kay năm 1962, bởi nhóm UAB vào năm 1971(5).
Về mặt phẫu thuật thì có rất nhiều phương
pháp sửa chữa hoàn toàn bệnh lý hồi lưu bất
thường tĩnh mạch phổi bán phần, nguyên tắc cơ
của phẫu thuật trong bệnh này là đóng lỗ thông
liên nhĩ và chuyển tĩnh mạch phổi bất thường về
nhĩ trái mà không gây các biến chứng như hẹp
tắc tĩnh mạch chủ trên hay tĩnh mạch phổi, hoặc
gây tổn thương nút xoang hay nguồn cung cấp
máu cho nút xoang.
Theo y văn thì tỉ lệ rối loạn chức năng nút
xoang sau mổ dao động từ 0 - 33%(7). Chúng tôi
đã tiến hành nghiên cứu với phương pháp hồi
cứu mô tả kết quả phẫu thuật tại Viện Tim thành
phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ 2000 đến
2009 với phương pháp mổ là dùng mảnh vá
bằng màng ngoài tim tự thân của bệnh nhân để
đóng lỗ thông liên nhĩ, đồng thời hướng tĩnh
mạch phổi bất thường về nhĩ trái (intra - atrial
tunnel technique).
Với mục đích xác định những nguyên nhân
của biến chứng rối loạn nút xoang sau phẫu
thuật. Để từ đó tìm ra phương pháp phòng
ngừa trong phẫu thuật để tránh biến chứng này
xảy ra
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tại Viện Tim thành phố Hồ Chí Minh có hồ
sơ của 77 bệnh nhân đã được phẫu thuật từ
tháng 1/2000 đến 1/2009 để đưa vào nhóm
nghiên cứu. Bao gồm những bệnh nhân được
chẩn đoán sau mổ là hồi lưu bất thường tĩnh
mạch phổi bán phần có kèm thông liên nhĩ và
các bệnh nhân sau khi xuất viện đã trở lại tái
khám và được theo dõi ít nhất là 12 tháng.
Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu mô tả
Số liệu được xử lý bằng phương pháp thống
kê, có sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 13.0. Kết
quả nghiên cứu trình bày bằng Microsoft Word.
Phương pháp phẫu thuật
Phẫu thuật sửa chữa hồi lưu tĩnh mạch phổi
bất thường bán phần có kèm thông liên nhĩ
thường được thực hiện qua đường mở xương ức
với sự hỗ trợ của máy tuần hoàn ngoài cơ thể có
ngưng tim. Màng ngoài tim sẽ được lấy rộng và
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 2 * 2011
90
cố định bằng dung dịch Glutaraldehyde 0,6% để
dùng đóng lỗ thông liên nhĩ.
Tĩnh mạch chủ trên sẽ phải được bộc lộ rộng
rãi, cao về phía đầu để thấy rõ tĩnh mạch phổi
bất thường, tĩnh mạch đơn và tĩnh mạch thân
tay đầu. Kiểm tra xem có tĩnh mạch chủ trên bên
phải không, vì đôi khi phải đặt cannula trên tĩnh
mạch chủ trên trái để thiết lập tuần hoàn ngoài
cơ thể.
Đặt cannula tĩnh mạch chủ trên ở đây là
một động tác tương đối quan trọng để ta có
thể thao tác trong lúc mổ, cannula phải được
đặt đủ cao, đôi khi có thể phải đặt trên tĩnh
mạch thân tay đầu.
Thiết lập xong tuần hoàn ngoài cơ thể, tiến
hành ngưng tim, bơm dung dịch liệt tim sau khi
kẹp động mạch chủ, thân nhiệt thường duy trì ở
25 - 32oC. Nhĩ phải sẽ được mở từ tiểu nhĩ
hướng về phía tĩnh mạch chủ dưới nhằm tránh
làm tổn thương nút xoang và động mạch nút
xoang. Trong trường hợp có hẹp chỗ tiếp nối
giữa tĩnh mạch chủ trên- nhĩ phải, thì ta sẽ thực
hiện mở rộng chỗ hẹp bằng phương pháp V-Y(5).
Việc chuyển tĩnh mạch phổi bất thường về
nhĩ trái được thực hiện đồng thời khi ta đóng
thông liên nhĩ, mảnh màng tim sẽ được dùng để
đóng lỗ thông và đồng thời như một tấm vách
(baffle) để hướng tĩnh mạch phổi bất thường về
bên trái(6,8).
Kỹ thuật mổ
Đối với đường mở vào khoang nhĩ phải sẽ
tùy thuộc vào vị trí của tĩnh mạch phổi trên, nếu
tĩnh mạch phổi trên đổ vào ngay chỗ nối giữa
tĩnh mạch chủ trên và nhĩ phải, hoặc ngay phía
trên thì ta chọn đường (a), còn nếu tĩnh mạch
phổi trên đổ vào tĩnh mạch chủ trên ở phía trên
cao thì ta chọn đường (b) (hình 1), khi thực hiện
đường mổ này thì ta phải cẩn thận vì có nhiều
khả năng sẽ làm tổn thương nút xoang(8).
Khi đã vào khoang nhĩ phải, ta sẽ dùng
màng ngoài tim vừa để đóng lỗ thông liên nhĩ,
vừa để hướng dòng máu từ tĩnh mạch phổi trên
về nhĩ trái. Nếu như lỗ thông liên nhĩ nhỏ thì
phải mở rộng nó ra nhằm tránh gây hẹp sau đó.
Hình 1: Các đường vào nhĩ phải(8) (Nguồn : Surgery
For Congenital Heart Defect - J. Stark and V. T.
Tsang)
Lúc đóng nhĩ phải người ta cũng thường
dùng thêm mảnh màng ngoài tim để hạn chế
nguy cơ gây hẹp tắc tĩnh mạch chủ trên (hình 1).
Theo dõi sau mổ
Các bệnh nhân sau mổ được theo dõi với
thời gian trung bình là 2,7 ± 1,6 năm (ngắn nhất
là 1 năm và dài nhất là 8,5 năm).
Bệnh nhân sẽ được ghi nhân kết quả điện
tâm đồ tại các thời điểm: ngay sau mổ, thời
điểm xuất viện, và thời điểm tái khám gần nhất.
Chẩn đoán hội chứng rối loạn chức năng nút
xoang sau mổ
Được biết đến như một biến chứng lớn sau
khi phẫu thuật sửa chữa hồi lưu tĩnh mạch phổi
bất thường bán phần. nguyên nhân có thể là do
tổn thương nút xoang hoặc tổn thương mạch
máu cung cấp cho nút xoang(9).
Biểu hiện của rối loạn chức năng nút xoang
thì đa dạng, có thể ở những dạng sau(10).
Nhịp chậm xoang
Ở người trưởng thành, nhịp chậm xoang
được định nghĩa là khi nhịp tim chậm hơn 60
nhịp/ phút và là nhịp xoang.
Còn ở trẻ em thì định nghĩa nhịp chậm
xoang là khi nhịp xoang chậm hơn 2 lần so với
độ lệch chuẩn của nhịp tim cho phép tính theo
tuổi.
Chú ý nhịp chậm xoang có thể thấy ở những
người tập luyện thể thao nhiều.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
91
Khi ngủ thì nhịp thường sẽ chậm đi khoảng
35 - 40 nhịp/ phút.
Nhịp chậm xoang còn có thể thấy ở một số
bệnh lý khác như chứng chán ăn do thần kinh,
hạ thân nhiệt, giảm áp lực nội sọ
Nút xoang ngưng phát nhịp tạm thời (Sinus
pause)
Sẽ có những khoảng P-P không bằng với các
khoảng P-P khác, thường thì khoảng 3 giây trở
lên là bệnh lý.
Khi hiện tượng đó xảy ra trong vài nhát bóp,
thì chỗ đó có một khoảng ngừng tim.
Khi hiện tượng đó xảy ra liên tục, thường
xuyên thì ta có dạng bất thường khác đó là nhịp
bộ nối.
Nhịp bộ nối chiếm ưu thế
Xảy ra khi nút xoang phát xung động quá
chậm hoặc không phát xung được.
Có thể là nhịp bộ nối hoàn toàn, hay chỉ là
phân ly nhĩ- thất hoặc nhịp thoát bộ nối.
Các biểu hiện rối loạn chức năng nút xoang
sau phẫu thuật sẽ có thể hồi phục sau đó, có
một số bệnh nhân bị rối loạn nặng hoặc lâu dài
cần phải đặt máy kích nhịp vĩnh viễn.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tỉ lệ Nữ: Nam = 2.1 :1
Tuổi trung bình 15,5 ± 13,7 tuổi
Cân nặng trung bình: 26,1 ± 16,5 Kg
Bảng 1: Hình thái bất thường của tĩnh mạch phổi
Thương tổn bất thường
Số bệnh nhân
(N =77)
Tỉ lệ %
Tĩnh mạch phổi phải 72 93,5
Tĩnh mạch phổi trái 3 3,9
Tĩnh mạch phổi hai bên 2 2,6
Bảng 2: Hướng hồi lưu của tĩnh mạch phổi
Thương tổn bất thường Số BN (N =77) Tỉ lệ %
TMP bất thường đổ về nhĩ phải 57 74
TMP bất thường đổ về TMC trên 14 18,2
TMP bất thường đổ về TMC dưới 4 5,2
TMP bất thường đổ về TMC trên và
nhĩ phải 2 2,6
Thời gian chạy máy tim phổi nhân tạo
(phút): Trung bình: 45,7 ± 14.
Thời gian kẹp ĐM chủ (phút): Trung bình:
29 ± 9,9.
Thời gian điều trị tại hồi sức tích cực: Trung
bình : 2,1 ± 0,6 ngày.
Thời gian thở máy: Trung bình: 6±3,9 giờ.
Biến chứng loạn nhịp
Ngay sau mổ có 4 bệnh nhân (5,2%) không
có nhịp xoang với 1 ca rung nhĩ, còn 3 ca còn lại
thì nhịp bộ nối.
Tại thời điểm xuất viện trong 4 bệnh nhân
mất nhịp xoang sau mổ thì chỉ còn 1 bệnh nhân
chưa trở về nhịp xoang, bệnh nhân này vẫn còn
nhịp bộ nối
Tại thời điểm tái khám gần nhất thì tất cả
bệnh nhân đều về nhịp xoang
Bảng 3: biểu hiện trên điện tâm đồ
Rối loạn nhịp
Nhịp xoang bình thường
Rối loạn
chức năng
nút xoang
Rối loạn do
nguyên nhân
khác
Trước mổ 77 (100%) - -
Ngay sau mổ 73 (94,8%) 3 (4%) 1 (1,2%)
Xuất viện 76 (98,7%) - 1 (1,3%)
Tái khám gần
nhất 77 (100%) - -
BÀN LUẬN
Nguyên nhân chủ yếu là do đường xẻ trên
nhĩ phải và đường xẻ trên tĩnh mạch chủ trên
gây tổn thương nút xoang hoặc động mạch nuôi
nút xoang. Nút xoang nằm trước bên tại vị trí
tiếp nối giữa tĩnh mạch chủ trên và tiểu nhĩ
phải, kích thước khoảng 15x5x1,5 mm (Hình 2),
còn động mạch nút xoang là nhánh xuất phát từ
động mạch vành phải (55%) hoặc từ nhánh Cx
của động mạch vành trái (65%)(4) (hình 3). Tuy
nhiên đôi khi nút xoang và động mạch nút
xoang không bị thương tổn, nhưng do trong quá
trình phẫu thuật các bác sĩ phẫu thuật thao tác
đụng chạm, giằng kéo, bộc lộ khu vực nút
xoang quá nhiều, quá mạnh gây phù nề nút
xoang, thì cũng gây loạn nhịp xoang sau mổ.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 2 * 2011
92
Những biểu hiện rối loạn nhịp xoang có thể
là nhịp nhanh xoang, nhịp chậm xoang, nút
xoang ngừng phát nhịp tạm thời, nhịp bộ nối
trong đó ta cần phân biệt khi nhịp nhanh
xoang thì thường không phải là do tổn thương
nút xoang, mà thường là do đường xẻ trên nhĩ
phải gây ra, còn tổn thương nút xoang thường
gây rối loạn chức năng nút xoang biểu hiện nhịp
chậm xoang, nhịp bộ nối(3)
Hình 2 Vị trí giải phẫu nút xoang(2) (Nguồn:
Sabiston and Spencer - Surgery of the Chest - 7th
Edition).
Hình 3 Đường đi của động mạch nút xoang(8)
(Nguồn: Surgery For Congenital Heart Defect - J.
Stark and V. T. Tsang)
Những biến chứng này thường không ảnh
hưởng đến tính mạng của bệnh nhân, nhưng nó
gây ra những khó khăn trong giai đoạn hậu
phẫu và về lâu dài, ảnh hưởng đến kết quả phẫu
thuật của chúng ta. Nếu nguyên nhân là do phù
nề, thì tình trạng này có thể hồi phục sau vài
tuần, điều trị nội khoa, ta có thể cho kháng viêm
chống phù nề giúp bệnh nhân hồi phục nhanh
hơn, có thể dùng một số thuốc chống loạn nhịp,
nhưng nếu nút xoang bị tổn thương thực thể thì
tình trạng sẽ khó hồi phục, theo dõi bệnh nhân
sau ba tuần nếu tình trạng rối loạn nhịp không
cải thiện và chiều hướng nặng nề hơn, gây ảnh
hưởng huyết động thì cần xem xét chỉ định đặt
máy tạo nhịp vĩnh viễn.
Trong những bệnh nhân nghiên cứu của
chúng tôi, do tỉ lệ tĩnh mạch hồi lưu về nhĩ phải
chiếm đa số, cho nên trong cuộc mổ số trường
hợp phải xẻ cao lên tĩnh mạch chủ trên cũng ít,
chính vì vậy đã hạn chế được biến chứng gây
tổn thương nút xoang.
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi có
bốn bệnh nhân sau mổ có vấn đề rối loạn nhịp
trong đó có ba bệnh nhân xuất hiện nhịp bộ
nối ngay sau khi mổ (3,9%), không ảnh hưởng
huyết động, chỉ dùng máy tạo nhịp tạm thời ở
chế độ dự phòng như thường lệ và cả ba khi
xuất viện đều trở về nhịp xoang. Điểm lưu ý ở
đây là cả ba bệnh nhân này có những điểm
tương đồng liên quan đến phẫu thuật là: tĩnh
mạch phổi bất thường đổ về tĩnh mạch chủ
trên, thông liên nhĩ thể lỗ thứ phát, trong quá
trình phẫu thuật đều có xẻ lên thân tĩnh mạch
chủ trên. Còn bệnh nhân còn lại trong nhóm
này có tĩnh mạch phổi đổ về nhĩ phải, thông
liên nhĩ thể xoang tĩnh mạch chủ trên, sau mổ
bệnh nhân có nhịp xoang, diễn tiến đến ngày
hậu phẫu thứ năm thì xuất hiện cơn rung nhĩ,
ảnh hưởng huyết động nên bệnh nhân đã
được chuyển nhịp bằng Cordarone, sau ba
ngày thì về nhịp bộ nối. Khi bệnh nhân xuất
viện vẫn còn nhịp bộ nối, sau một tháng bệnh
nhân đến tái khám thì đã về nhịp xoang. Như
vậy, có khả năng là chỉ có ba trường hợp đầu,
rối loạn nhịp mới là do phẫu thuật, ở đây có
khả năng chỉ là do đụng chạm trong lúc mổ
gây phù nề nút xoang, nên sau vài ngày hậu
phẫu thì nút xoang được hồi phục. Trường
hợp bệnh nhân còn lại, rối loạn nhịp có thể
không phải là do phẫu thuật mà là do nguyên
nhân khác, chẳng hạn như rối loạn điện giải
hoặc một nguyên nhân nội khoa nào khác.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
93
Tham khảo kết quả nghiên cứu của một tác
giả ở Thổ Nhĩ Kỳ(1), nghiên cứu của ông gồm 27
bệnh nhân từ 1991 đến 12/ 2001, tất cả đều là hồi
lưu bất thường tĩnh mạch phổi bán phần thể
xoang tĩnh mạch, kết quả phẫu thuật có 4 bệnh
nhân (14,8%) bị rối loạn chức năng nút xoang
sau mổ, 4 ca (14,8%) bị rung nhĩ sau mổ. Xem ra
thì tỉ lệ biến chứng rối loạn nhịp trong nhóm
nghiên cứu của tác giả này là khá cao, theo báo
cáo của Shahriari và cộng sự thì tỉ lệ biến chứng
này dao động khoảng từ 0 - 33% tùy thuộc vào
phương pháp mổ của từng trung tâm. Như vậy
tỉ lệ rối loạn nhịp sau mổ trong lô nghiên cứu
của chúng tôi khá thấp.
KẾT LUẬN
Về khía cạnh phẫu thuật bệnh lý hồi lưu bất
thường tĩnh mạch phổi bán phần có kèm thông
liên nhĩ phức tạp hơn nhiều so với trong bệnh lý
thông liên nhĩ đơn thuần, nếu thái độ xử lý
phẫu thuật không khéo léo, đúng mực, thì có
thể sẽ ảnh hưởng đến tính mạng bệnh nhân
hoặc làm cho bệnh nhân phải chịu nhiều cuộc
phẫu thuật.
Do đó đối với bệnh lý này cần được xử lý
bởi một bác sĩ phẫu thuật có kinh nghiệm và
một đội ngũ các y bác sĩ gây mê hồi sức để có
thể phát hiện và xử lý kịp thời những biến
chứng ngay tại phòng mổ, tránh để tình trạng
xử lý chậm khi các biến chứng xảy ra đã gây ảnh
hưởng tới huyết động học, khi đó tỉ lệ tử vong
sẽ tăng lên và dù nếu có thể giải quyết được thì
bệnh nhân cũng phải chịu nhiều hậu quả như
thời gian hậu phẫu sẽ kéo dài ảnh hưởng đến
sức khỏe và tăng chi phí điều trị.
Với phương pháp mổ là sử dụng mảnh
màng ngoài tim tự thân để đóng lỗ thông liên
nhĩ đồng thời hướng tĩnh mạch phổi về nhĩ trái
(Intra - Atrial tunnel technique). Phương pháp
phẫu thuật này cho kết quả tốt với tỷ lệ biến
chứng thấp, duy trì nhịp xoang sau mổ, bệnh
nhân hồi phục sức khỏe trở về cuộc sống bình
thường. Đây là ưu điểm của phương pháp điều
trị nếu đem so sánh với kết quả điều trị của các
tác giả khác trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bingol H, Cingoz F, et al. (2003). "The relationship between
rhythm disturbances and incisions in adult sinus venosus atrial
septal defect". Anadulo kardiyol derg,Vol 3, pp 309 -12.
2. Caldarone CA (2005). "Surgical Considerations In Pulmonary
Vein Anomalies". Sabiston & Spencer Surgery of the Chest, Vol 2,
pp 1945-57.
3. Geva T and Van Praagh S (2008). "Anomalies of the Pulmonary
Veins". Moss and Adams' Heart Disease in Infants, Children, and
Adolescents: Including the Fetus and Young Adults, Lippincott
Williams & Wilkins, Vol 1, pp 763.
4. Kouchoukos NT, Blackstone EH, et al. (2003). "Anatomy,
Dimensions, Terminology". Kirklin/Barratt-Boyes- Cardiac
Surgery, Churchill Livingstone, USA, Vol 1, pp 17,27.
5. Kouchoukos NT, Blackstone EH, et al. (2003). "Atrial Septal
Defect And Partial Anomalous Pulmonary Venous Connection".
Kirklin/Barratt-Boyes- Cardiac Surgery, Churchill Livingstone,
USA, Vol 1, pp 715 - 52.
6. Mackenzie JW, Sloan H, et al. (1962). "Techniques for Correction
of Partial Anomalous Pulmonary". Annals of Surgery, Vol 156, pp
9-11.
7. Shahriari A, Rodefeld MD, et al. (2006). "Caval Division
Technique for Sinus Venosus Atrial Septal Defect with Partial
Anomalous Pulmonary Venous Connection". Ann Thorac Surg,
Vol 81, pp 224- 30.
8. Stark J. and Tsang VT. (2006). "Secundum Atrial Septal Defect
and Partial Anomalous Pulmonary Venous Return". Surgery for
Congenital Defect, John Wiley & Sons Ltd, The Atrium,
Southern Gate, Chichester, West Sussex PO198SQ, England, pp
343- 54.
9. Takahashi H, Oshima Y, et al. (2008). "Sinus Node Dysfunction
After Repair Of Partial Anomalous P