Đô thị hóa khiến cho thành phố Đà Nẵng đang đối mặt với
vấn nạn kẹt xe, ô nhiểm khói bụi do các phương tiện lưu thông trong
thành phố gây nên. Để giải quyết vấn đề này, các nhà chức trách ưu
tiên phát triển hệ thống vận chuyển công cộng như: Bus nhanh
(BRT), đường sắt trên cao (Train) .v.v. Tuy nhiên, tất cả dường như
chưa có hiệu quả. Để khắc phục được những tình trạng đó, bài viết
này sẽ giới thiệu một phương thức vận chuyển công cộng hoàn toàn
mới: đó là Cabin-ways, hệ thống này vận chuyển hành khách bằng
những cabin nhỏ gọn với sức chứa 6 người/ 1 cabin, di chuyển tốc
độ cao, êm ái bằng ray treo ngược phía trên không trung. Ưu điểm
của công nghệ này là lưu hành thuận tiện, sử dụng năng lượng tái
tạo, không ô nhiễm môi trường và giảm hẳn chi phí đầu tư so với các
phương thức tàu điện truyền thống
6 trang |
Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 508 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cabin-Ways: Phương tiện vận chuyển công cộng mới cho đô thị Đà Nẵng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 11(132).2018, QUYỂN 1 73
CABIN-WAYS: PHƯƠNG TIỆN VẬN CHUYỂN CÔNG CỘNG MỚI
CHO ĐÔ THỊ ĐÀ NẴNG
CABIN-WAYS: A NEW MEANS OF PUBLIC TRANSPORT FOR DA NANG CITY
Lê Minh Sơn, Lương Lan Phương, Trương Nguyễn Song Hạ
Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; lmson@dut.udn.vn
Tóm tắt - Đô thị hóa khiến cho thành phố Đà Nẵng đang đối mặt với
vấn nạn kẹt xe, ô nhiểm khói bụi do các phương tiện lưu thông trong
thành phố gây nên. Để giải quyết vấn đề này, các nhà chức trách ưu
tiên phát triển hệ thống vận chuyển công cộng như: Bus nhanh
(BRT), đường sắt trên cao (Train) .v.v. Tuy nhiên, tất cả dường như
chưa có hiệu quả. Để khắc phục được những tình trạng đó, bài viết
này sẽ giới thiệu một phương thức vận chuyển công cộng hoàn toàn
mới: đó là Cabin-ways, hệ thống này vận chuyển hành khách bằng
những cabin nhỏ gọn với sức chứa 6 người/ 1 cabin, di chuyển tốc
độ cao, êm ái bằng ray treo ngược phía trên không trung. Ưu điểm
của công nghệ này là lưu hành thuận tiện, sử dụng năng lượng tái
tạo, không ô nhiễm môi trường và giảm hẳn chi phí đầu tư so với các
phương thức tàu điện truyền thống.
Abstract - Urbanization has caused problems to Da Nang: traffic
congestion, air pollution brought about by vehicle emissions in the
city. To solve this problem, the local authorities have placed a
premium on the development of public transport systems such as
bus rapid transit (BRT), aerial railway, etc. However, all these seem
to have yielded little effect. To overcome these problems, this article
introduces a completely new public transport namely cabin-ways,
which transport passengers in compact cabins accommodating up to
6 people per cabin, moving smoothly at high speed by means of a
railway hanging upside down. This technology has an advantage of
creating movement convenience, using renewable energy without
causing environmental pollution but resulting in considerable
reduction in investment costs compared to conventional trams.
Từ khóa - Cabin-ways; Sky-train; ray trên cao; vận chuyển công
cộng; giao thông đà nẵng.
Key words - Cabin-ways; Sky-train; aerial rail; public transport;
traffic in Danang.
1. Đặt vấn đề
Ngày 8/8 được công bố là "Ngày Trái Đất cạn kiệt"
nguồn tài nguyên thiên nhiên của năm 2016, theo Tổ chức
phi chính phủ Global Footprint Network (Mạng lưới Dấu
chân Toàn cầu) của Mỹ. Đây là thời điểm chúng ta đang
đứng trước thách thức lớn nhất của thế kỷ 21. Hiện nay,
việc sửa đổi các mô hình tăng trưởng vô hạn đã không còn
có ý nghĩa. Do đó việc lựa chọn để thực hiện các nghiên
cứu mới trên cơ sở tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi
trường là một hướng đi thực sự cần thiết.
Đà Nẵng cũng như những thành phố lớn khác dường
như đang phải đối mặt và chấp nhận vòng luẩn quẩn của
quá trình đô thị hóa, rõ nhất đó chính là sự ô nhiễm môi
trường và tắc nghẽn của hệ thống giao thông đô thị.
Để chống lại tình trạng tắc nghẽn tiếp tục xấu đi trong
bối cảnh tăng trưởng đô thị, các thành phố lớn tại Việt Nam
thường tiến hành khắc phục theo cách: tổ chức các hệ thống
dịch vụ vận chuyển riêng biệt (Tàu điện, xe bus, dịch vụ
bus cao cấp, xe chạy điện, thiết bị ngoại vi .v.v.), bên cạnh
đó tăng phí cầu đường để hạn chế sự hiện diện của các
phương tiện lưu thông cá nhân. Tuy nhiên, do chất lượng
dịch vụ và mức độ dịch vụ vận tải công cộng đô thị truyền
thống hiện nay vẫn không đáp ứng được mong đợi. Do đó,
sự tắc nghẽn và ô nhiễm tiếp tục gia tăng.
Bằng cách tiếp cận của phương pháp nghiên cứu định
tính, bài viết sẽ giới thiệu phương thức vận chuyển công
cộng mới có tên là Cabin-Ways (cũng là tên gọi của đề tài
mà nhóm đang triển khai nghiên cứu). Đây là hệ thống hoạt
động không người lái, di chuyển phía trên không trung cách
mặt đất 8-10m, với những cabin nhỏ có sức chứa 6 người,
được treo ngược trên một thanh ray độc lập, chuyển động
nhờ vào nguồn năng lượng mặt trời tích hợp từ những tấm
quang điện gắn cố định phía trên hệ ray.
Các mục tiêu chính mà bài viết muốn đạt được: thứ nhất,
giới thiệu cơ cấu hoạt động của hệ thống Cabin-ways; thứ
hai, trình bày được những ưu điểm nổi bật của Cabin-ways
so với các phương tiện vận chuyển truyền thống; thứ ba,
nhận định những triển vọng và khả năng áp dụng phương
tiện vận chuyển công cộng này tại thành phố Đà Nẵng - Việt
Nam và cuối cùng là đề xuất thiết kế mô hình kiến trúc trạm
dừng mẫu (nhà Ga) cho thể loại phương tiện này.
Hình 1. Cabin-ways, phương tiện vận chuyển của ngày mai:
An toàn-sạch sẽ-hiệu quả và sinh lợi
(Nguồn:
2. Hiện trạng về các thể loại phương tiện vận chuyển
công cộng bằng ray trên cao
Hệ thống phương tiện vận chuyển hành khách bằng ray
trên cao đã xuất hiện khá phổ biến trên thế giới. Ví dụ: Hệ
thống “SkyTrain” ở thành phố Vancouve Canada, hoạt
động năm 1985 [1]; Hệ thống “Bangkok Mass Transit
System” ở thủ đô Bangkok Thái Lan, hoạt động năm 1999
[2]. Gần đây nhất tại Việt Nam đang triển khai xây dựng
hệ thống tuyến đường sắt trên cao: Bến Thành - Suối Tiên
74 Lê Minh Sơn, Lương Lan Phương, Trương Nguyễn Song Hạ
ở thành phố Hồ Chí Minh và Cát Linh - Hà Đông ở thủ đô
Hà Nội.v.v. Ưu điểm của hệ thống đường sắt trên cao là an
toàn và có thể vận chuyển một lượng lớn hành khách đi lại
trong một giờ, giảm tải cho các phương tiện giao thông
công cộng khác. Tuy nhiên giá thành đầu tư xây dựng cao,
không sử dụng năng lượng tái tạo, đáng chú ý là hệ thống
cơ sở hạ tầng mặc dầu được xây dựng ở không gian trên
cao nhưng vẫn chiếm một khối tích khá lớn.
Hình 2. Hệ thống tuyến đường sắt trên cao tuyến Cát Linh
Hà Tây: đoạn kết nối vào nhà Ga hành khách
(Nguồn: tư liệu của tác giả)
Để khắc phục được những nhược điểm đó, trên thế giới
hiện nay đã có những nghiên cứu ứng dụng nhằm đưa ra
các phương thức vận chuyển công cộng mới, đáp ứng được
những yêu cầu tất yếu của tương lai. Nổi bật nhất trong số
đó là hệ thống vận chuyển bằng ray treo ngược nhỏ gọn
Supraways của nhóm các kỹ sư người Pháp được tiến hành
từ tháng 3 năm 2015 [3]. Dự án này đang trong quá trình
nghiên cứu và tìm kiếm các nguồn tài trợ cũng như chủ đầu
tư, bởi vì theo giám đốc điều hành Claude Escala thì
Supraways sẽ cần đến 1.5 tỷ euro để có thể chính thức đưa
vào thử nghiệm tính khả thi của nó. Nghiên cứu này của
nhóm tác giả kế thừa và phát triển dựa trên nền tảng của
Supraways.
3. Cấu trúc và cơ cấu hoạt động của Cabin-ways
Đối tượng nghiên cứu Cabin-Ways mà nhóm tác giả
triển khai không đơn giản chỉ là tạo ra tuyến đường vận
chuyển công cộng trên không trung với một điểm khởi đầu,
một điểm kết thúc và các trạm dừng trung gian, mà đây là
hệ thống hoạt động đồng nhất với một cấu trúc mạng liên
kết, trên đó những cabin (có sức chứa tối đa 6 chổ ngồi)
được điều hướng và di chuyển hoàn toàn chủ động. Cụ thể,
hành khách có thể đặt chỗ trong một cabin thông qua ứng
dụng trên điện thoại di động để di chuyển từ điểm A đến
điểm B của mạng lưới, hệ thống chỉ dừng tại các trạm nơi
mà người sử dụng yêu cầu lên hoặc xuống cho cùng một
chuyến đi (hay không dừng khi cabin đã đầy người).
3.1. Sử dụng trí tuệ nhân tạo để quản lý và lưu thông
phương tiện
Cơ chế vận hành của Cabin-ways đòi hỏi áp dụng kỹ
thuật và công nghệ mới nhất trên nền tảng nguồn trí tuệ
nhân tạo, điều này nhằm mục đích giúp cho phương tiện
đạt được sự chủ động hoàn toàn trong suốt chu kỳ hoạt
động, không có hiện tượng chậm – trễ hay kẹt các cabin
trong toàn tuyến. Để hiện thực hóa điều đó, thách thức đầu
tiên cho hệ thống này chính là khả năng xử lý độ trễ giữa 2
cabin kế tiếp nhau là 3 giây. Với độ trễ tối thiểu này, giúp
gia tăng mật độ lưu thông của các cabin, từ đó làm tăng số
lượng hành khách được vận chuyển và xóa bỏ hoàn toàn
cảm giác “đợi chuyến kế tiếp” cho người sử dụng. Các hệ
thống hoạt động dựa trên một cơ sở hạ tầng phía trên không
gian, được thiết kế bằng các vòng lượn khép kín giữa các
cabin với nhau, trên mỗi Cabin được trang thiết bị tự động
định hướng nhanh, giúp các Cabin vượt qua mà không bị
gián đoạn vận chuyển tại những điểm giao nhau của mạng
lưới này đến một mạng lưới khác.
Thách thức kế tiếp đó là việc quản lý phương hướng của
các cabin để làm sao không gây sự ùn tắc cục bộ. Trong thực
tế rất khó để dự đoán một số lượng nhu cầu các hành khách
lên và xuống từ các trạm khác nhau trên một tuyến đường.
Một vấn đề nữa là do các cabin có khối lượng nhẹ và lại di
chuyển nhanh ở phía trên không trung, do đó ở mỗi cabin
đều phải sử dụng một động cơ điện công nghệ cao, để quản
lý sự cân bằng cần thiết cho các hành khách ngồi bên trong,
đặc biệt là khi cabin đi qua những chỗ ngoặt.
Hình 3. Ví dụ hành khách muốn đi từ điểm khởi đầu A đến điểm
kết L, với Bus truyền thống (đường nét liền) phải đi theo 1 lộ
trình cố định từ điểm A đến L (A-B-C-D-E-F-G-H-I-K-L).
Cabin-Ways (đường nét đứt) có thể đi từ điểm A đến điểm L chỉ
thông qua một nút giao cắt H (Nguồn: tư liệu của tác giả)
3.2. Sử dụng nguồn năng lượng tái tạo
Hình 4. Hệ thống hấp thụ nguồn năng lượng quang điện mặt
trời được gắn phía trên, dọc theo các tuyến ray, cung cấp nguồn
năng lượng tái tạo để duy trì hoạt động của Cabin-Ways
(Nguồn: tư liệu của tác giả)
Lĩnh vực giao thông đường bộ trên toàn thế giới thải ra
gần 40% tổng lượng khí thải CO2 mỗi năm. Do đó việc đưa
vào sử dụng các thể loại phương tiện không (hoặc giảm
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 11(132).2018, QUYỂN 1 75
thiểu) ô nhiểm môi trường là vấn đề sống còn của nhân loại.
Hệ thống Cabin-Ways hoạt động nhờ vào nguồn năng
lượng tái tạo tích hợp, đó là thiết bị nguồn pin lưu điện
được gắn trong các khoang xe, nguồn này được cung cấp
năng lượng nhờ vào các tấm pin quang điện hấp thụ ánh
sáng mặt trời đặt phía trên cùng, dọc theo các tuyến ray
nhằm đạt được sự chủ động trong suốt chu kỳ vận hành.
3.3. Vận tốc từ 50 – 130 km/h
Với khả năng vận chuyển khoảng 7200 hành khách
mỗi giờ ở khu vực trung tâm (xe Bus truyền thống là 1700
hành khách/1h), Cabin-Ways sẽ vượt qua tất cả những
phương tiện vận chuyển công cộng hiện có tại Việt Nam.
Với thời gian cách nhau 3 giây giữa 2 Cabin kế tiếp,
phương tiện này không gây hiện tượng “kẹt xe”, loại bỏ
hoàn toàn nguy cơ va chạm giao thông. Cabin-Ways có thể
đạt tốc độ tối đa 80 km/h trong thành phố và 130 km/h trên
một đường thẳng hay ngoài đô thị. Như vậy, lấy ví dụ muốn
di chuyển từ Thành Phố Đà Nẵng đến Phố cổ Hội An với
khoảng cách 25km thì Cabin-Ways chỉ tiêu tốn một khoảng
thời gian là 12 phút.
3.4. Khoảng cách 35m bố trí một cột trụ đỡ ray
Với sức chứa tối đa 6 người, khối lượng bản thân cấu
thành mỗi Caban nhẹ, do đó với khoảng cách 35 mét sẽ được
bố trí một trụ đỡ. Trụ đỡ có thể được làm bằng bê tông cốt
thép, hoặc hoàn toàn bằng thép. Tùy theo bối cảnh của từng
đô thị sử dụng mà các trụ này có thể được sơn với các màu
sắc và họa tiết phù hợp. Những thanh dầm (ray) để treo các
Cabin sẽ nằm ở vị trí cao 8 – 10 mét so với mặt đất, như vậy
khi mà khoảng không gian ở mặt đất ngày càng bị thu hẹp,
với cách thức bố trí hệ thống Cabin-ways chạy ở trên không
trung thì thành phố sẽ có thêm được nhiều diện tích đất trống
để phục vụ các mục đích công cộng khác.
3.5. Chi phí đầu tư rẻ hơn 3 lần so với tàu điện truyền
thống và 12 lần so với tàu điện ngầm
Điều đáng quan tâm trên hết chính là mức chi phí đầu
tư hợp lý hệ thống Cabin-ways phù hợp với khả năng tài
chính và tình hình phát triển kinh tế xã hội của các thành
phố tại Việt Nam.
Tổng chi phí đầu tư xây dựng cấu trúc hệ thống và cơ
cấu vận hành của Cabin-Ways là 9,2 triệu usd / 1 km, thấp
hơn so với các phương tiện giao thông công cộng khác: Tàu
điện (Tram) là 28,75 triệu usd /1 km , Tàu điện ngầm
(metro) là 104 triệu usd / 1 km, xe Bus tiêu chuẩn là 9 –
13,8 triệu usd / 1 km (Tuyến đường sắt trên cao Cát Linh
– Hà Đông Hà Nội là 59,2 triệu usd / 1 km; Tuyến Metro
kết hợp Bến Thành – Suối Tiên là 51,15 triệu usd / 1 km).
Đối với các khu vực đô thị nơi những phương tiện vận
chuyển công cộng đã được thiết kế chủ yếu theo dạng ngôi
sao (từ ngoại vi đến trung tâm), với Cabin-ways hoạt động
trên một mạng lưới đa chiều trên không và thời gian hoạt
động là 24/24, phương tiện này không chỉ giới hạn ở việc
vận chuyển hành khách mà còn vận chuyển hàng hóa dịch
vụ trong các thời gian rảnh của mỗi ngày (ví dụ những
cabin chuyên biệt hoạt động vào ban đêm), đem lại nguồn
kinh phí bổ trợ cho hoạt động của hệ thống.
4. Những ưu điểm nỗi bật của Cabin-ways
Với khuôn khổ giới hạn của bài viết, Nhóm nghiên
cứu tóm lược và lập bảng so sánh để đưa ra một số ưu
điểm nổi trội của hệ thống Cabin-ways so với các phương
tiện giao thông truyền thống đã và đang được đầu tư xây
dựng ở Việt Nam.
Bảng 1. So sánh ưu điểm giữa Cabin-ways và phương tiện
truyền thống
STT CABIN-WAYS PHƯƠNG TIỆN KHÁC
1
Vận chuyển 7000 người /
giờ
Bus tiêu chuẩn: vận chuyển
1700 người/ giờ
2
6 chỗ ngồi tiện nghi, thoải
mái, không tiếng ồn, truy
cập PMR.
Nhiều hơn 24 chỗ, bao gồm
chổ ngồi và đứng.
3
Có thể tư nhân hóa một
cabin để đảm bảo sự riêng
tư, tuy nhiên phải trả giá cao
hơn và không dùng trong giờ
cao điểm.
Bus, tàu điện, Metro: không
thể tư nhân hóa.
4
Chi phí đầu tư thấp nhất 9,2
triệu usd/1 km
Tàu điện: 28,75 triệu usd / 1
km
5
Với khoảng cách giữa các
trụ đỡ ray là 35m, diện tích
chiếm đất công tối thiểu.
Bus, tàu điện: diện tích chiếm
đất công lớn
6
Hệ thống chống gian lận
không người kiểm soát
Bus, tàu điện: Kiểm soát thủ
công
7 Tốc độ 50-130 km/h Bus: 20-80km/h
8
Phục phụ theo nhu cầu, tự
chủ, hoạt động 24/24
Bus, tàu diện: chạy theo lịch
trình cố định.
9
Sử dụng nguồn năng lượng
tái tạo, không gây ô nhiễm
Bus: năng lượng đốt trong
gây ô nhiễm, Tàu điện: sử
dụng nguồn điện năng của
thành phố cung cấp.
10 An toàn gần như tuyệt đối
Bus, tàu điện: nguy cơ tai nạn
giao thông.
11 Không tắc nghẽn giao thông
Bus, tàu điện: tắc nghẽn cục
bộ
12
Hoạt động trên nền tảng
công nghệ 4.0
Con người kiểm soát thủ
công
5. Những thách thức và khả năng áp dụng phương thức
vận chuyển công cộng Cabin-ways
5.1. Những thách thức
Đối với Cabin-ways, các vấn đề về xây dựng cơ sở hạ
tầng, hệ đường ray trên không, trạm dừng, hay sản xuất mỗi
cabin .v.v đều không gặp bất cứ trở ngại nào đáng kể.
Thách thức lớn nhất của việc triển khai dự án này đó là
thời gian tối ưu mà hệ thống phải tính toán đảm bảo độ an
toàn giữa 2 cabin kế tiếp nhau chỉ 3 giây (có tính đến việc
các cabin khác có thể đến từ các nhánh khác nhau của mạng
lưới) bởi vì trong thực tế rất khó dự đoán sự di chuyển của
hàng loạt các cabin trên toàn tuyến.
Một khó khăn nữa đó chính là việc sắp đặt mạng lưới
Cabin-ways trong các khu vực siêu trung tâm đô thị, đặc
biệt là các khu đô thị đã hình thành từ lâu đời, có hệ thống
đường giao thông chật hẹp và các công trình lịch sử.
76 Lê Minh Sơn, Lương Lan Phương, Trương Nguyễn Song Hạ
Thách thức cuối cùng đó chính là vấn đề tâm lý và thói
quen của người sử dụng. Rõ ràng chúng ta đã thấy trước
mắt các hệ lụy xấu của việc phát triển các phương tiện giao
thông công cộng truyền thống (Bus, ôtô cá nhân, xe máy),
2 thành phố lớn tại Việt Nam là Hà Nội và Hồ Chí Minh
muốn cải thiện vấn đề đó, tuy nhiên vẫn lựa chọn bằng cách
triển khai hệ thống tàu điện trên cao (Tram) kết hợp tàu
điện ngầm (Metro). Đây cũng đã là những hệ thống giao
thông lạc hậu về công nghệ, tốn kém chi phí đầu tư, chi phí
vận hành. Với một dự án hoàn toàn mới của Cabin-ways
đang trong quá trình vận hành thử nghiệm thì việc đưa vào
áp dụng cho một thành phố lớn, như là Đà Nẵng chắc chắn
sẽ gặp phải không ít khó khăn về tâm lý sử dụng và sự e dè
trong quyết định đầu tư.
5.2. Triển vọng và khả năng áp dụng
Theo số liệu điều tra hơn 50% sự di chuyển bằng ôtô cá
nhân dưới cự ly 3km, các xe ôtô lưu thông với tốc độ 15
km/h tại thời giờ cao điểm. Trong năm 2016: với 104 giờ / 1
người phải trải qua tình trạng kẹt xe ở Los Angeles, 65 giờ/
1 người phải trải qua tình trạng kẹt xe tại Paris [4]. Hà Nội
và Hồ Chí Minh (chưa có thông số thống kê chính xác), số
giờ kẹt xe mà mỗi người phải trải qua lớn hơn nhiều so với
Paris bởi cơ sở hạ tầng giao thông chưa hoàn thiện, trình độ
quản lý của cơ quan điều hành và ý thức của người tham gia
giao thông chưa tốt.
5 tháng đầu năm 2018, Đà Nẵng đã đón tiếp 3,2 triệu
khách du lịch (1,3 triệu khách quốc tế) [5]. Thành phố này
có một đường bờ biển tuyệt đẹp kéo dài nối 3 điểm tham
quan quan trọng đó là: Trung tâm thành phố - Danh thắng
Ngũ Hành Sơn - Phố cổ Hội An. Mặt khác là một thành
phố trẻ nên Đà Nẵng sẽ phát triển trên cơ sở tránh những
khuyết điểm về giao thông mà Hà Nội và Hồ Chí Minh đã
và đang gặp phải. Tuy nhiên cho đến thời điểm này Thành
phố Đà Nẵng đã bắt đầu đối mặt với tình hình kẹt xe khá
nghiêm trọng, ảnh hưởng nhiều đến đời sống của người
dân và khách du lịch. Xe Bus là phương tiện giao thông
công cộng duy nhất cho đến nay mà thành phố đang đưa
vào khai thác, Do đó theo nhận định của chúng tôi việc
thí điểm áp dụng hệ thống Cabin-ways cho Đà Nẵng là
khả thi bởi: sự linh hoạt, tính kinh tế, khả năng vận
chuyển, không ô nhiễm môi trường và chi phí đầu tư thấp.
6. Đề xuất thiết kế kiến trúc trạm dừng cho Cabin-ways
6.1. Đề xuất tuyến đường triển khai hệ thống giao thông
công cộng Cabin-ways
Với Đà Nẵng, qua khảo sát và nghiên cứu thực trạng giao
thông công cộng trên địa bàn thành phố này, nhóm nghiên cứu
nhận thấy tuyến đường ven biển Võ Nguyên Giáp có thể thí
điểm áp dụng triển khai hệ thống Cabin-ways. Bởi vì: Đây là
tuyến đường dài, thoải, không gấp khúc, có rất nhiều bãi tắm,
điểm tham quan và khu Resort. Theo quan sát của nhóm
nghiên cứu thì hầu hết các giờ trong ngày ở cung đường này,
lượng khách du lịch và các phương tiện giao thông lưu thông
qua đây với mật độ dày đặc.
Nhóm nghiên cứu còn đề xuất triển khai hệ thống giao
thông công cộng Cabin-ways trên tuyến đường du lịch
biển, đoạn từ chùa Linh Ứng đến địa điểm danh thắng
Ngũ Hành Sơn.
Hình 5. đề xuất lưu tuyến và các điểm bố trí trạm dừng
Cabin- ways (Nguồn: tư liệu của tác giả)
6.2. Các tiêu chí lựu chọn vị trí trạm dừng Cabin-ways
Nhu cầu đi lại: Đây là nhóm tiêu chí quan trọng nhất
trong việc lựa chọn vị trí đặt trạm dừng, quyết định sự hoạt
động hiệu quả và duy trì lâu dài của tuyến Cabin-ways (khu
khách sạn, khu nhà hàng, khu mua sắm, điểm tham quan,
khu bãi tắm .v.v).
Tích hợp giao thông công cộng: Đây là loại phương tiện
vận chuyển hành khách với số lượng lớn/ lượt, gồm trạm
xe buýt thường, trạm xe điện, trạm giao thông thủy.
Tích hợp giao thông đường bộ: Đây là các vị trí có khả
năng tập trung nhiều hành khách chuyển tiếp, gồm các nút
giao với cầu vượt, nút giao cầu đi bộ, nút giao thông
thường, bãi đỗ xe.
Đảm bảo khoảng cách gần nhất giữa 2 trạm dừng không
nhỏ hơn 2km cho trường hợp ngoài đô thị.
6.3. Thiết kế kiến trúc trạm dừng Cabin-ways
Nguyên tắc thiết kế: Phải là kiểu kiến trúc kết hợp; hình
thức phỏng theo bối cảnh của khu vực địa phương; dễ dàng
tiếp cận cho mọi đối tượng.
Hình 6. Phương án thiết kế mặt bằng tầng 1
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 11(132).2018, QUYỂN 1 77
Hình 7. Phương án thiết kế mặt bằng tầng 2
Hình 8. Phương án thiết kế mặt bằng tầng 3
Hình 9. mặt cắt 1-1
Hình 10. mặt cắt 2-2
Hình 11. Phương án kiến trúc mặt đứng bên
78 Lê Minh Sơn, Lương Lan Phương, Trương Nguyễn Song Hạ
Hình 12. Phương án kiến trúc mặt đứng chính
Hình 13. Phương án phối cảnh hoàn chỉnh trạm dừng
Cabin-ways
7. Kết luận
Tại thời điểm khi mà sự phát triển của những phương
tiện di chuyển công cộng đang tăng trưởng mạnh mẽ để
đáp ứng