Trong các năm qua, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực tham gia vào các
hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương và song phương với
mục đích gia tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam, đồng thời
tạo cơ hội đưa sản phẩm nước nhà đến nhiều thị trường ngoài nước
hơn nữa. Tuy nhiên, thực tế cho thấy mức độ tối ưu hóa lợi ích thuế
quan từ các FTA của các doanh nghiệp Việt lại chưa tương xứng
với kỳ vọng được đặt ra. Bài viết nghiên cứu thực trạng tận dụng ưu
đãi thuế quan từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) của doanh
nghiệp Việt Nam, hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp các nguyên nhân
khiến doanh nghiệp chưa thể tận dụng các ưu đãi thuế từ các FTA để
từ đó đưa ra các gợi ý giúp nâng cao cơ hội sử dụng các Hiệp định
thương mại tự do để tiếp cận thị trường thế giới và làm gia tăng sức
cạnh tranh của hàng hóa Việt. Các gợi ý bao gồm (i) doanh nghiệp,
hiệp hội ngành và các cơ quan chức năng cần thiết lập sự hợp tác
chặt chẽ hơn nhằm phổ biến, hỗ trợ, hướng dẫn doanh nghiệp các
quy định trong FTA và những vấn đề liên quan đến tối ưu hóa lợi
ích thuế quan từ FTA; (ii) doanh nghiệp cần tích cực, chủ động hơn
trong việc tìm kiếm, cập nhật thông tin, kiến thức về FTA cũng như
các ưu đãi được hưởng để sử dụng hiệu quả hơn; (iii) doanh nghiệp
nên áp dụng những chiến lược kinh doanh phù hợp hơn để nâng cao
khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn về quy tắc xuất xứ của từng FTA;
(iv) cần có kế hoạch dài hạn phát triển các khu vực sản xuất nguyên
phụ liệu trong nước nhằm đảm bảo khả năng được hưởng ưu đãi thuế
quan từ các FTA trong tương lai của DN Việt Nam (đặc biệt là DN
phụ thuộc nhiều vào nguyên phụ liệu nhập khẩu).
9 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 576 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các hiệp định thương mại tự do và vấn đề tận dụng ưu đãi thuế quan của doanh nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 193- Tháng 6. 2018
Các hiệp định thương mại tự do và
vấn đề tận dụng ưu đãi thuế quan của
doanh nghiệp Việt Nam
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
Nguyễn Hồng Hạnh
Ngày nhận: 12/03/2018 Ngày nhận bản sửa: 07/04/2018 Ngày duyệt đăng: 18/06/2018
Trong các năm qua, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực tham gia vào các
hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương và song phương với
mục đích gia tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam, đồng thời
tạo cơ hội đưa sản phẩm nước nhà đến nhiều thị trường ngoài nước
hơn nữa. Tuy nhiên, thực tế cho thấy mức độ tối ưu hóa lợi ích thuế
quan từ các FTA của các doanh nghiệp Việt lại chưa tương xứng
với kỳ vọng được đặt ra. Bài viết nghiên cứu thực trạng tận dụng ưu
đãi thuế quan từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) của doanh
nghiệp Việt Nam, hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp các nguyên nhân
khiến doanh nghiệp chưa thể tận dụng các ưu đãi thuế từ các FTA để
từ đó đưa ra các gợi ý giúp nâng cao cơ hội sử dụng các Hiệp định
thương mại tự do để tiếp cận thị trường thế giới và làm gia tăng sức
cạnh tranh của hàng hóa Việt. Các gợi ý bao gồm (i) doanh nghiệp,
hiệp hội ngành và các cơ quan chức năng cần thiết lập sự hợp tác
chặt chẽ hơn nhằm phổ biến, hỗ trợ, hướng dẫn doanh nghiệp các
quy định trong FTA và những vấn đề liên quan đến tối ưu hóa lợi
ích thuế quan từ FTA; (ii) doanh nghiệp cần tích cực, chủ động hơn
trong việc tìm kiếm, cập nhật thông tin, kiến thức về FTA cũng như
các ưu đãi được hưởng để sử dụng hiệu quả hơn; (iii) doanh nghiệp
nên áp dụng những chiến lược kinh doanh phù hợp hơn để nâng cao
khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn về quy tắc xuất xứ của từng FTA;
(iv) cần có kế hoạch dài hạn phát triển các khu vực sản xuất nguyên
phụ liệu trong nước nhằm đảm bảo khả năng được hưởng ưu đãi thuế
quan từ các FTA trong tương lai của DN Việt Nam (đặc biệt là DN
phụ thuộc nhiều vào nguyên phụ liệu nhập khẩu).
Từ khóa: FTA, quy tắc xuất xứ, tận dụng ưu đãi thuế quan
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 193- Tháng 6. 2018
1. Đặt vấn đề
rong những
năm gần đây, đã
có nhiều FTA
song phương
và đa phương
được Chính phủ Việt Nam
đàm phán và ký kết với kỳ
vọng tạo điều kiện và cơ hội
mới cho doanh nghiệp (DN)
Việt tiếp cận và mở rộng thị
trường quốc tế. Ví dụ như
FTA Việt Nam- Hàn Quốc
với việc Chính phủ Hàn Quốc
cam kết tự do hóa đến 97,2%
giá trị nhập khẩu, chiếm
95,4% số dòng thuế, đặc biệt
trong đó có nhiều nhóm hàng
nông, thủy sản là chủ lực
xuất khẩu của Việt Nam như
tôm, cua, cá, hoa quả nhiệt
đới, và hàng công nghiệp như
dệt may, đồ gỗ, sản phẩm cơ
khí Hay FTA giữa Việt
Nam và Liên minh kinh tế
Á- Âu (VN- EAEU FTA)
gồm Nga, Armenia, Belarus,
Kazakhstan và Kyrgyzstan
cũng đã tạo thêm nhiều cơ hội
xuất khẩu quan trọng đối với
các nhóm hàng mà DN Việt
Nam có thế mạnh như nông
sản và hàng công nghiệp. Về
tổng thể, khoảng 90% số dòng
thuế đã được hai bên cam kết
cắt giảm, tương đương vào
khoảng trên 90% kim ngạch
thương mại song phương.
Ngoài ra, FTA Việt Nam- EU
(EVFTA) đã tuyên bố kết
thúc hoàn toàn đàm phán và
các bên dự kiến sẽ sớm hoàn
thành việc ký kết trong thời
gian tới. Ngay khi hiệp định
này có hiệu lực, 27 quốc gia
thành viên EU sẽ mở cửa thị
trường đối với hàng hóa Việt
Nam bằng việc xóa bỏ thuế
nhập khẩu đối với khoảng
85,6% số dòng thuế, tương
đương 70,3% kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang EU
đối với các mặt hàng như dệt
may, giày dép, chế biến thực
phẩm Một số chuyên gia
kinh tế đã đưa ra nhận định
rằng EVFTA sau khi được ký
kết sẽ giúp tăng xuất khẩu của
Việt Nam sang EU từ 30-40%.
Nếu việc đàm phán và ký kết
thành công FTA giống như
mở ra những cánh cửa, bước
vào năm 2018, Chính phủ và
DN Việt Nam đã mở được
cánh cửa giao thương với trên
50 thị trường đối tác, đem lại
vô số cơ hội cho các DN khai
thác và tận dụng.
Tuy nhiên, trên thực tế, thật
đáng tiếc khi nhiều DN Việt
chưa tận dụng mức ưu đãi
thuế quan lý tưởng của các
FTA, thậm chí bỏ qua, trong
quá trình tiếp cận thị trường
mới và mở rộng thị trường
đang có. Cụ thể, hàng hóa
xuất nhập khẩu muốn hưởng
mức thuế suất ưu đãi (thường
trong khoảng 0-5%) của FTA
nào thì bắt buộc phải đáp ứng
quy tắc xuất xứ được thiết kế
riêng cho FTA đó. Chỉ khi
áp dụng đúng, chính xác quy
tắc xuất xứ, nhà sản xuất,
xuất khẩu mới có được giấy
chứng nhận xuất xứ (C/O) ưu
đãi để được hưởng thuế quan
ưu đãi khi xuất khẩu tới các
nước thành viên FTA. Nói
cách khác, tận dụng ưu đãi
thuế quan đối với DN chính là
làm sao chứng minh hàng hóa
xuất khẩu đã đáp ứng được bộ
quy tắc xuất xứ để lấy được
C/O ưu đãi giúp cho lô hàng
hưởng mức thuế suất có lợi
khi nhập khẩu vào thị trường
đối tác; từ đó, tạo lợi thế cạnh
tranh cho hàng hóa Việt. C/O
ưu đãi có thể được ví như
“cuốn hộ chiếu” của hàng
hóa xuất nhập khẩu, là căn cứ
pháp lý quan trọng nhất trong
quá trình xem xét cho hưởng
ưu đãi thuế quan FTA của cơ
quan hải quan nước thành viên
nhập khẩu. Thế nhưng, số liệu
của Bộ Công thương về tỷ lệ
tận dụng các ưu đãi thuế quan
theo các hiệp định FTA đối
với hàng xuất khẩu đã chỉ ra
rằng, sau nhiều năm, tỷ lệ tận
dụng này dừng ở mức thấp,
trung bình khoảng 35%. Điều
này có nghĩa số hàng hóa còn
lại mặc dù có xuất xứ từ Việt
Nam nhưng khi được xuất
sang thị trường đối tác có ký
kết FTA song phương hoặc
đa phương với Việt Nam vẫn
phải chịu mức thuế suất thông
thường hoặc mức thuế đãi ngộ
tối huệ quốc (MFN) cao hơn
nhiều so với mức thuế FTA,
và vì vậy, gặp phải bất lợi khi
cạnh tranh với những hàng
hóa nội địa hoặc có xuất xứ từ
các quốc gia khác. Ví dụ, một
chiếc áo khoác có mũ sẽ chịu
thuế suất nhập khẩu thông
thường là 45% nhưng thuế
suất nhập khẩu WTO (thuế
suất MFN) là 30%; nếu chiếc
áo này có thể đáp ứng các yêu
cầu để hưởng ưu đãi FTA thì
FTA ASEAN- New Zealand
thuế suất chỉ ở mức 10%, ở thị
trường Liên minh kinh tế Á-
Âu thuế suất mặt hàng này là
0% (Thùy Dương, 2017).
Như vậy, vấn đề tối ưu hóa
lợi ích có được từ ưu đãi thuế
quan trong các FTA đối với
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
3Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018
các DN Việt vẫn luôn là chủ
đề cần được thảo luận và
tìm ra giải pháp để những nỗ
lực đàm phán của Chính phủ
nhằm tạo điều kiện thuận lợi
hóa thương mại cho DN Việt
thực sự mang lại lợi ích cho
đối tượng được hướng đến.
2. Thực trạng tận dụng ưu
đãi thuế quan từ các FTA
của doanh nghiệp Việt Nam
Tính đến những tháng cuối
năm 2017, Việt Nam đã “có
được” số FTA đáng kể lên tới
16 hiệp định. Nhưng đằng sau
con số ấn tượng này, thực tế
DN Việt đã tối ưu hóa lợi ích
thuế quan tới đâu sau khi các
FTA này được ký kết và có
hiệu lực? Có thể điểm qua tỷ
lệ tận dụng ưu đãi thuế quan
từ một số FTA như sau.
Trong các FTA mà Việt Nam
đang thực hiện, hàng hóa xuất
khẩu hưởng ưu đãi thuế quan
từ FTA giữa Việt Nam và Chi
Lê (VCFTA) có tỷ lệ tận dụng
ưu đãi cao nhất năm 2016,
đạt mức 64%. Tuy nhiên, đây
là con số đáng mơ ước của
nhiều FTA mà Việt Nam là
thành viên hoặc là đối tác. Ví
dụ như, tỷ lệ hàng hóa XNK
được hưởng ưu đãi thuế quan
từ FTA ASEAN- Trung Quốc
(ACFTA) chỉ đạt 31% và là
một trong những FTA có tỷ lệ
tận dụng lợi ích thấp (Trung
tâm WTO, 2017).
Đối với Hiệp định Đối tác
kinh tế Việt Nam- Nhật Bản
(VJEPA), các DN Việt cũng
chưa thể tận dụng nhiều ưu
đãi. Cụ thể, chỉ khoảng 1/6
trong số 29,3 tỷ USD tổng
kim ngạch xuất khẩu tới Nhật
Bản, tương đương 5,1 tỷ USD
năm 2016 được cấp C/O mẫu
VJ (Hải Minh, 2017). Trong
công bố của Cục Xuất nhập
khẩu (Bộ Công thương) năm
2016, tỷ lệ tận dụng ưu đãi
từ VJEPA và Hiệp định Đối
tác kinh tế toàn diện ASEAN-
Nhật Bản (AJCEP) của DN
Việt Nam mới đạt khoảng
35% (Phan Trang, 2017).
Từ khi có hiệu lực vào tháng
10/2016, bên cạnh những
dấu hiệu tăng trưởng tích cực
trong kim ngạch xuất khẩu
sang khu vực liên minh kinh
tế Á- Âu, tỷ lệ tận dụng C/O
để được hưởng ưu đãi của
FTA Việt Nam- EAEU tính
đến cuối tháng 7/2017 mới
chỉ đạt khoảng 20%. Các
mặt hàng có tỷ lệ tận dụng
C/O mẫu EAV cao để xuất
khẩu sang EAEU bao gồm:
giày dép (54,3%), rau quả
(59,2%), thủy sản (69,1%),
gạo (69,3%), hạt tiêu (75,5%)
và dệt may (76,1%) (Lê Thúy,
2017). So với mức tận dụng
ưu đãi từ các FTA khác mà
Việt Nam đang thực hiện, tỷ
lệ này có thể nói là khá khiêm
tốn.
Hiệp định AANZFTA có vai
trò rất quan trọng trong việc
thúc đẩy quan hệ kinh tế,
thương mại và đầu tư giữa
ASEAN và Australia, New
ZeaLand. Hai quốc gia thuộc
châu Đại Dương này đều là
thị trường xuất khẩu tiềm
năng cho nhiều mặt hàng thế
mạnh của DN Việt Nam như
nông sản, thủy sản, cà phê, hạt
điều, máy vi tính, điện thoại,
sản phẩm điện tử, dệt may,
giày dép... Quan trọng hơn,
thuế quan phần lớn những mặt
hàng này đều được cắt giảm
về 0%. Từ năm 2014-2016,
tỉ trọng hàng xuất khẩu của
Việt Nam vào Australia trung
bình đạt khoảng 18% tổng
kim ngạch xuất khẩu từ các
nước trong khối ASEAN. Tuy
nhiên, chỉ 21,4% lượng hàng
hóa nhập khẩu vào Australia
từ Việt Nam có thể tận dụng
được ưu đãi thuế quan từ Hiệp
định AANZFTA (Lê Anh,
2017).
FTA Việt Nam- Hàn Quốc
(VKFTA) và FTA ASEAN-
Hàn Quốc (AKFTA) là những
hiệp định có mức cắt, giảm
sâu về thuế quan đối với nhiều
nhóm hàng DN Việt có thế
mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên,
cho đến nay, DN Việt Nam
vẫn chưa sử dụng được hết
những ưu đãi từ những FTA
này. Theo Anh Hoa (2017),
tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam
xuất khẩu sang Hàn Quốc sử
dụng C/O để hưởng ưu đãi từ
VKFTA chỉ ở mức 15% và từ
AKFTA là 40% .
Đối với hàng hóa xuất sang
các nước thành viên ASEAN,
để được hưởng ưu đãi thuế
quan, DN Việt Nam phải
có giấy chứng nhận xuất xứ
ASEAN mẫu D (C/O mẫu D).
Hiện tỷ lệ sử dụng C/O mẫu
D dao động trong khoảng từ
30-50%, tùy từng nước và
từng mặt hàng. Ví dụ, khi xuất
sang thị trường Thái Lan, tỷ
lệ tận dụng là rất cao, đạt trên
90% đối với các mặt hàng như
cà phê, giày dép, hạt điều, gỗ
và sản phẩm gỗ. Trong khi đó,
máy móc thiết bị, dụng cụ chỉ
đạt tỷ lệ tận dụng dưới 30%.
Còn với sản phẩm dệt may, tỷ
lệ này là dưới 40% (Lê Anh,
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 193- Tháng 6. 2018
2017).
Đối với FTA Việt Nam-
Lào và FTA Việt Nam-
Campuchia, tỷ lệ tận dụng
là rất thấp, lần lượt là 10%
và 0,03% (Trung tâm WTO,
2017).
3. Nguyên nhân của hạn chế
trong tỷ lệ tận dụng ưu đãi
thuế quan của DN Việt Nam
3.1. Thiếu thông tin và sự hỗ
trợ cần thiết
Một trong những nguyên nhân
dẫn đến việc DN Việt tận
dụng chưa hiệu quả ưu đãi
thuế quan trong các FTA là
việc DN chưa được cung cấp
đầy đủ thông tin và những hỗ
trợ cần thiết trong quá trình
tìm hiểu cũng như thực hiện
các nội dung trong các Hiệp
định.
Trước hết, không thể phủ
nhận những nỗ lực của các
cơ quan chức năng, tổ chức
chính phủ và phi chính phủ
trong việc cung cấp thông tin
và hỗ trợ DN tận dụng các ưu
đãi từ FTA trong thời gian
qua. Tuy nhiên, theo Tiến sỹ
Đậu Anh Tuấn (2016), những
thông tin về các FTA và hội
nhập mà DN cần biết vẫn
thiếu bởi các nguyên nhân
như: (i) Toàn văn các cam
kết FTA giữa Việt Nam và
các đối tác hay FTA mà Việt
Nam là thành viên dù đã được
đăng tải trên website của các
cơ quan bộ, ngành nhưng
nội dung quá phức tạp, quá
hàn lâm với các DN; (ii) Tuy
hàng trăm các hội thảo, đào
tạo được tổ chức cùng nhiều
bài báo, chương trình truyền
hình, ấn phẩm phát hành rộng
rãi trên khắp cả nước nhằm
tuyên truyền, phổ biến tới DN
những cam kết trong các FTA
nhưng thông tin cung cấp tại
các khóa đào tạo, hội thảo,
các phương tiện thông tin đại
chúng còn giản đơn, sơ sài,
chưa cụ thể vào từng lĩnh vực,
khía cạnh mà DN quan tâm.
Hiện nay, các DN cũng gần
như không thể tìm được một
đội ngũ luật sư tư vấn chuyên
nghiệp về nội dung các FTA,
nên họ thường không biết phải
xử lý các vấn đề kỹ thuật phức
tạp như quy tắc xuất xứ như
thế nào và trong nhiều trường
hợp phải bỏ qua những ưu
đãi thuế quan đáng lẽ được
hưởng. Ngoài ra, nếu ở nhiều
Hình 1. Tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi theo các Hiệp định thương mại của Việt Nam qua các năm
*Chưa có số liệu giai đoạn 2012- 2014
Nguồn: Trung tâm WTO và Hội nhập
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
5Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 193- Tháng 6. 2018
nước, các hiệp hội ngành sẽ
là những yếu tố quan trọng
và then chốt giúp phổ biến
và diễn giải các thông tin
dạng này cho DN thì ở Việt
Nam chức năng này đang
được những chuyên gia của
Bộ Công thương đảm nhiệm.
Tuy nhiên, nguồn lực của Bộ
Công thương là có hạn, nên
số lượng DN thực sự được
phổ biến, được hiểu đúng và
chính xác về các quy tắc kỹ
thuật phức tạp, và vận dụng
phù hợp cho sản phẩm của
mình nhằm đạt được mục đích
hưởng ưu đãi thuế quan từ các
FTA là không nhiều.
3.2. Thiếu kiến thức, kinh
nghiệm và chiến lược kinh
doanh hợp lý
Để được hưởng ưu đãi thuế
quan, DN cần chứng minh
hàng hóa của mình đáp ứng
các quy tắc xuất xứ trong
FTA mà DN đang xin hưởng.
Tuy nhiên, phần lớn các DN
chưa hiểu rõ và chưa có khả
năng vận dụng linh hoạt các
quy tắc xuất xứ. Ví dụ, theo
quy tắc xuất xứ Hiệp định
thương mại hàng hóa ASEAN
(ATIGA), hàng hóa áp dụng
tiêu chí xuất xứ chuyển đổi
mã số HS (CTC) nhưng không
đạt được sự chuyển đổi mã
số HS thì vẫn được coi là có
xuất xứ nếu giá trị của tất cả
các nguyên vật liệu không có
xuất xứ dùng để sản xuất ra
sản phẩm đó không vượt quá
10% của tổng giá trị hàng hoá
đó tính theo giá FOB. Ngưỡng
10% được gọi là ngưỡng De
minimis. Như vậy, nếu hàng
hóa xuất khẩu của DN không
thể áp dụng tiêu chí CTC thì
DN có thể xem xét có thỏa
mãn ngưỡng De minimis hay
không khi xin C/O ưu đãi. Thế
nhưng, theo chia sẻ từ chuyên
gia của Bộ Công thương trong
nhiều hội thảo, một lượng lớn
DN Việt Nam vì không hiểu
nên không áp dụng được quy
tắc De minimis và bỏ qua ưu
đãi thuế quan một cách đáng
tiếc.
Ngoài ra, trong khi làm
thủ tục xin C/O ưu đãi, DN
do thiếu kiến thức và kinh
nghiệm nên trong nhiều
trường hợp không được cơ
quan hải quan xét hưởng thuế
suất ưu đãi. Đó là câu chuyện
một DN làm C/O cho sản
phẩm “vôi sống” với mã HS
là 25, nhưng DN này ghi tiếng
Việt của hàng hóa lại không
bỏ dấu nên C/O được cấp cho
sản phẩm “voi sống” theo mã
HS 01 là động vật sống. Kết
quả là, hàng “vôi sống” xuất
sang Malaysia bị từ chối ưu
đãi thuế quan. Nhìn chung,
khi làm thủ tục xin hưởng ưu
đãi, DN thường gặp vấn đề
với mã HS, ngôn ngữ khai
báo, mẫu chữ ký và con dấu
Trong một hồ sơ C/O mà màu
mực con dấu khác nhau cũng
có khả năng bị cơ quan hải
quan nước khác từ chối. Đặc
biệt, hải quan một số quốc gia
luôn tìm mọi cách để bác C/O
ưu đãi, áp thuế suất cao hơn
cho hàng hóa nhập khẩu vào
đất nước họ. Thư đề nghị xác
minh lại xuất xứ của hải quan
những nước này được viết với
văn phong của một bức thư từ
chối. Vì thế, thông thường DN
Việt Nam không tỉnh táo, bản
lĩnh và có kinh nghiệm đấu
tranh thì sẽ dễ dàng từ bỏ các
ưu đãi thuế quan.
Chiến lược kinh doanh thiếu
bài bản và không phù hợp
cũng là lý do khiến DN không
thể chủ động trong việc xin
C/O ưu đãi. Chẳng hạn, DN
Việt Nam nhập khẩu hàng
hóa, nguyên phụ liệu từ một
nước thành viên ASEAN sẽ
có C/O mẫu D. Tại thời điểm
nhập DN chưa tìm được đầu
ra, chưa biết xuất đi đâu. Sau
đó khi DN tìm được đối tác và
muốn xuất hàng sang Trung
Quốc thì không thể được
hưởng ưu đãi vì khi đó phải
xuất trình C/O mẫu E.
3.3. Sự phức tạp và ngặt
nghèo của các quy tắc xuất
xứ
Bên cạnh nguyên nhân đã nêu
ở trên, thì một nguyên nhân
nữa là sự ngần ngại của DN
trước tính phức tạp và chặt
chẽ của một số lượng lớn các
quy tắc trong các FTA mà họ
phải tuân thủ.
Đơn cử như đối với ngành dệt
may, sản phẩm sẽ được coi có
xuất xứ và được hưởng thuế
quan ưu đãi khi xuất khẩu
sang phần lớn đối tác FTA của
Việt Nam (ASEAN, Trung
Quốc, Hàn Quốc, Chi-lê)
khi chứng minh được công
đoạn cắt, may, khâu thành
sản phẩm diễn ra tại Việt
Nam dù nguyên liệu đầu vào
có thể nhập khẩu từ bất cứ
đâu. Trong khi đó, tiêu chuẩn
quy tắc xuất xứ chặt chẽ hơn
đối với AANZFTA và FTA
ASEAN- Ấn Độ (AIFTA),
khi yêu cầu ngoài công đoạn
gia công cuối cùng diễn ra
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
6 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 193- Tháng 6. 2018
tại Việt Nam, DN phải chứng
minh sản phẩm có ít nhất 35-
40% hàm lượng được tạo ra
trong phạm vi FTA. Nói cách
khác, Hiệp định cho phép DN
được sử dụng một lượng nhất
định nguyên phụ liệu có xuất
xứ ngoài khối (trong đó có vải
may), và chỉ cần chứng minh
có 35- 40% trị giá thành phẩm
được tạo ra tại một trong các
nước thành viên của Hiệp định
thì hàng hóa sẽ được hưởng
thuế quan ưu đãi FTA. Với
AJCEP, VJEPA hay EVFTA
sắp được ký kết, quy tắc xuất
xứ còn chặt chẽ hơn. Không
chỉ cắt may- khâu tạo ra thành
phẩm, các Hiệp định này còn
yêu cầu nguyên liệu vải bắt
buộc phải có xuất xứ nội khối.
Điều này có nghĩa, DN Việt
Nam không thể nhập khẩu vải
từ một nước khác không là
thành viên để sản xuất rồi sau
đó xuất khẩu hàng may mặc
sang Nhật Bản và hưởng mức
thuế suất ưu đãi được.
Mức độ chặt chẽ trong quy
tắc xuất xứ đối với nguyên
phụ liệu (ví dụ như vải) có thể
giải thích phần nào mức độ
tận dụng ưu đãi chưa cao của
DN Việt đối với một số FTA.
Quay lại với ngành dệt may,
ở Việt Nam có một sự bất
tương xứng giữa số lượng và
quy mô của DN may (chiếm
70% số DN trong ngành) và
DN dệt (17%), DN kéo sợi
(6%), DN nhuộm (4%) và các
DN phụ trợ (3%). Điều này
cho thấy một thực tế là DN
Việt Nam đang mạnh ở khâu
cuối “cắt- may” nhưng yếu ở
các khâu kéo sợi, dệt, nhuộm
khiến nguồn cung cấp nguyên
phụ liệu cho các DN may
luôn không đủ. Cụ thể, trong
một năm ngành dệt may trong
nước cần khoảng gần 10 tỷ
mét vải nhưng Việt Nam chỉ
sản xuất được khoảng hơn 3 tỷ
mét vải/năm do hạn chế trong
năng lực và công nghệ (Thanh
Hoa, 2016). Kết quả là, đa
phần vải sử dụng trong ngành
dệt may được các DN Việt
nhập khẩu từ một số nước như
Trung Quốc, Đài Loan. Tuy
nhiên, những quốc gia này
không là thành viên của một
số Hiệp định như AJCEP và
VJEPA, hay EVFTA sắp được
ký kết và có hiệu lực thì rõ
ràng sản phẩm của DN Việt
sẽ không thể đáp ứng quy tắc
xuất xứ “từ vải trở đi” và vì
thế không thể được hưởng ưu
đãi thuế quan từ phía Nhật
Bản hay từ các nước thành
viên của Liên minh Châu Âu
trong khi đây là những thị
trường xuất khẩu lớn đối với
Việt Nam.
Ngoài ra phải kể đến ACFTA
được coi là hiệp định có
những quy tắc xuất xứ cứng
nhắc gây nhiều khó khăn đối
với DN. Thông thường, đối
với hàng hóa không được sản
xuất toàn bộ tại nước xuất
khẩu, quy tắc xuất xứ sẽ liên
quan tới các quy định như:
(i) Tiêu chí hàm lượng giá
trị khu vực (RVC); (ii) Tiêu
chí chuyển đổi mã hàng hóa
(CTC)- DN chứng minh đã
chuyển đổi mã HS của một số
nguyên liệu, phụ tùng không
có xuất xứ sau quá trình sản
xuất, chế biến để nhận ưu đãi
thuế suất; (iii) Tiêu chí mặt
hàng cụ thể (PSRs)- tức là
từng FTA sẽ quy định về quy
tắc xuất xứ cụ thể cho một
số mặt hàng nhất định, nếu
tra trong danh mục PSRs mà
không thấy mặt hàng của DN
thì mặc định quay lại để áp
dụng quy tắc xuất xứ chung.
Ngoài ra, còn có những quy
tắc khác để xác định sự phù
hợp xuất xứ của hàng hóa
theo quy định của FTA. Đối
với ACFTA, hiện nay chỉ
đang áp dụng quy tắc RVC
40% và quy tắc m