Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng
của các nhân tố đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp chế
biến thực phẩm niêm yết trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt
Nam. Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính (BCTC) đã được
kiểm toán của 31 công ty chế biến thực phẩm niêm yết trong khoảng
thời gian từ 2012 đến 2016.
Nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất
(OLS) và các kiểm định để xác định mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp trong mẫu.
Kết quả chỉ ra rằng quy mô doanh nghiệp, tỷ suất sinh lời trên tài
sản (ROA), tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS), thời kỳ hoạt động
(AGE) và cấu trúc tài sản (AS) có tác động cùng chiều với tỷ suất
thanh toán. Ngược lại, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất
nợ có tác động ngược chiều. Dựa trên kết quả nghiên cứu, một số
khuyến nghị được đưa ra nhằm tăng khả năng thanh toán của các
doanh nghiệp trong tương lai.
11 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 757 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của các công ty chế biến thực phẩm niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
46
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 196- Tháng 9. 2018
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng
thanh toán của các công ty chế biến thực
phẩm niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
Trần Mạnh Dũng
Nguyễn Nam Tài
Ngày nhận: 15/06/2018 Ngày nhận bản sửa: 25/07/2018 Ngày duyệt đăng: 24/08/2018
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng
của các nhân tố đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp chế
biến thực phẩm niêm yết trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt
Nam. Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính (BCTC) đã được
kiểm toán của 31 công ty chế biến thực phẩm niêm yết trong khoảng
thời gian từ 2012 đến 2016.
Nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất
(OLS) và các kiểm định để xác định mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp trong mẫu.
Kết quả chỉ ra rằng quy mô doanh nghiệp, tỷ suất sinh lời trên tài
sản (ROA), tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS), thời kỳ hoạt động
(AGE) và cấu trúc tài sản (AS) có tác động cùng chiều với tỷ suất
thanh toán. Ngược lại, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất
nợ có tác động ngược chiều. Dựa trên kết quả nghiên cứu, một số
khuyến nghị được đưa ra nhằm tăng khả năng thanh toán của các
doanh nghiệp trong tương lai.
Từ khóa: Nhân tố ảnh hưởng, khả năng thanh toán, chế biến thực
phẩm
1. Giới thiệu
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là năng
lực về tài chính mà doanh nghiệp có được để
đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ cho
các cá nhân, tổ chức có quan hệ cho vay hoặc
nợ đối với doanh nghiệp. Vấn đề làm cho các
chủ doanh nghiệp lo ngại trong quá trình hoạt
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
47Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 196- Tháng 9. 2018
động kinh doanh đó là các khoản nợ phải thu
không có khả năng thu hồi và các khoản phải
trả không có khả năng thanh toán. Do đó, doanh
nghiệp cần duy trì một mức vốn luân chuyển
hợp lý để đáp ứng kịp thời các khoản nợ ngắn
hạn, duy trì số lượng và các loại hàng tồn kho
để đảm bảo quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh diễn ra một cách thuận lợi. Ở các nước
trên thế giới theo cơ chế thị trường, doanh
nghiệp có thể bị tuyên bố phá sản theo yêu
cầu của các chủ nợ khi doanh nghiệp không
có khả năng thanh toán các khoản nợ phải trả.
Luật Doanh nghiệp Việt Nam cũng quy định
về những nội dung liên quan đến phá sản. Do
vậy các doanh nghiệp luôn luôn quan tâm đến
các khoản nợ đến hạn phải trả và chuẩn bị sẵn
sàng nguồn lực để thanh toán. Điều đó có thể
dễ dàng nhận ra việc đảm bảo được khả năng
thanh toán góp phần giúp cho doanh nghiệp
duy trì, giữ vững được bộ máy hoạt động của
mình để tiếp tục đầu tư và phát triển đem lại lợi
nhuận trong tương lai.
Các nghiên cứu về khả năng thanh toán của
các công ty niêm yết cổ phiếu trên TTCK Việt
Nam vẫn chưa được đề cập nhiều và còn hạn
chế trong phương pháp nghiên cứu. Khi hiểu
rõ về tình hình khả năng thanh toán, nhà quản
lý sẽ có định hướng chính xác hơn trong việc
đầu tư nguồn vốn của mình, hạn chế những rủi
ro đáng tiếc. Do đó, việc thực hiện nghiên cứu
về các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thanh
toán được cho là thực sự cần thiết, trong đó có
các công ty chế biến thực phẩm niêm yết trên
TTCK Việt Nam.
2. Tổng quan nghiên cứu
Trong nước và trên thế giới, các công trình
nghiên cứu cả về mặt lý thuyết và thực nghiệm
về khả năng thanh toán đã được đưa ra thảo
luận. Nội dung đánh giá tác động của từng nhân
tố riêng lẻ và tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng
đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
2.1. Nghiên cứu quốc tế
Opler và cộng sự (1999) đã tiến hành nghiên
cứu các yếu tố tác động đến thanh khoản của
1.048 công ty của Hoa Kỳ trong giai đoạn
1971- 1994. Các tác giả đã sử dụng mô hình hồi
quy OLS để kiểm định các khuyết tật, sự phù
hợp của mô hình. Biến phụ thuộc là hệ số thanh
khoản, biến độc lập bao gồm 8 biến: quy mô,
vốn lưu động, đòn bẩy, chi trả cổ tức, tỷ lệ dòng
tiền/tài sản, tỷ lệ chi tiêu vốn/tổng tài sản, rủi
ro ngành, và tỷ lệ chi phí nghiên cứu phát triển/
doanh thu. Kết quả nghiên cứu cho thấy quy
mô, vốn lưu động, đòn bẩy tài chính, chi trả cổ
tức có tương quan âm đến tính thanh khoản.
Mặt khác, tỷ lệ dòng tiền/tài sản, rủi ro ngành,
tỷ lệ chi tiêu vốn/tổng tài sản và tỷ lệ chi phí
nghiên cứu phát triển/doanh thu có tương quan
dương với tính thanh khoản.
Bruinshoofd và Kool (2004) đã tiến hành thực
nghiệm về khả năng thanh khoản ngắn hạn của
các công ty Hà Lan. Nghiên cứu sử dụng dữ
liệu 453 doanh nghiệp giai đoạn 1986- 1997.
Các mô hình được xây dựng và kiểm định trong
nghiên cứu gồm (i) sai số nhỏ nhất (OLS); (ii)
tác động cố định; (iii) tác động ngẫu nhiên. Kết
quả nghiên cứu cho thấy vốn lưu động, đầu tư
và lợi nhuận trên tài sản lại có quan hệ tương
quan âm đến khả năng thanh khoản của công ty,
còn lại các nhân tố khác có tương quan dương
tới khả năng thanh toán: quy mô, tài sản, doanh
thu, tổng nợ, nợ ngắn hạn, thu nhập khác và lãi
suất bình quân.
Isshaq và Bokpin (2009) nghiên cứu các yếu tố
quyết định tính thanh khoản tại Ghana với dữ
liệu cho giai đoạn 1991-2007 của các công ty
niêm yết để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố gồm quy mô, vốn lưu động, tỷ lệ đầu
tư và lợi nhuận trên tài sản đối với tính thanh
khoản. Nghiên cứu sử dụng mô hình bảng điều
khiển động, trong đó một biến đáng tin cậy bị
trễ được đưa vào dưới dạng biến giải thích.
Biến độc lập đưa vào mô hình bao gồm quy mô,
lợi nhuận trên tài sản và vốn lưu động và tỷ lệ
đầu tư. Kết quả của nghiên cứu cho thấy quy
mô, lợi nhuận trên tài sản và vốn lưu động và
tỷ lệ đầu tư đều có quan hệ thuận chiều với khả
năng thanh khoản của công ty.
Chen và Mahajan (2010) nghiên cứu các công
ty từ 45 quốc gia giai đoạn 1994- 2005 với mục
tiêu là đánh giá khả năng thanh khoản của công
ty. Kết quả cho thấy các biến kinh tế vĩ mô như
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
48 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 196- Tháng 9. 2018
tăng trưởng GDP, lạm phát, lãi suất ngắn hạn
thực, thâm hụt ngân sách, tín dụng, tín dụng tư
nhân, và thuế suất ảnh hưởng trực tiếp về số
dư tiền mặt của công ty, đồng nghĩa với việc
ảnh hưởng đến khả năng thanh toán ngắn hạn
của công ty. Nghiên cứu này đã mở rộng ra các
nhân tố vĩ mô từ đó thiết lập vai trò của nhà
nước, cũng như đưa ra các biện pháp ổn định
kinh tế vĩ mô để nâng cao khả năng thanh toán
ngắn hạn cho các công ty.
Gill và Mathur (2011) với mẫu nghiên cứu
164 công ty giai đoạn 2008- 2010 trên TTCK
Toronto, Canada. Nghiên cứu sử dụng ANOVA
Test để kiểm định sự tương quan Pearson, đa
cộng tuyến, sự phù hợp của mô hình nhằm tìm
ra các yếu tố tác động đến thanh khoản của
công ty. Kết quả cho thấy các biến gồm quy
mô, vốn lưu động ròng, nợ ngắn hạn, tỷ lệ đầu
tư và yếu tố ngành có tương quan dương đến
thanh khoản của công ty. Các biến có tác động
tương quan âm đến thanh khoản là tỷ lệ nợ, vốn
lưu động ròng và tỷ lệ đầu tư.
Như vậy có thể thấy đã nhiều nghiên cứu trên
thế giới về các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng
thanh toán cả bên trong và bên ngoài doanh
nghiệp, chủ yếu là khả năng thanh toán ngắn
hạn. Các nhà nghiên cứu sử dụng các dữ liệu
trong các ngữ cảnh khác nhau với các phương
pháp nghiên cứu sử dụng đa dạng, có sự kế thừa
bổ sung các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng
thanh toán. Hầu hết các nghiên cứu về nhân tố
ảnh hưởng xuất phát từ nội bộ doanh nghiệp,
đặc biệt nhà nghiên cứu Chen và Mahajan
(2010) đưa ra các biến kinh tế vĩ mô như tăng
trưởng GDP, lạm phát, lãi suất ngắn hạn thực,
thâm hụt ngân sách, tín dụng, tín dụng tư nhân
và thuế suất. Các nhân tố này cũng ảnh hưởng
đến khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty.
2.2. Nghiên cứu trong nước
Có nhiều nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng
tới khả năng thanh toán tại doanh nghiệp các
ngành khác nhau với thời gian nghiên cứu cũng
khác nhau, tiêu biểu có thể kể đến:
Nguyễn Đình Thiên và cộng sự (2014) với đề
tài “Các yếu tố tác động đến khả năng thanh
khoản của doanh nghiệp niêm yết tại Việt
Nam”. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp từ
các BCTC đã được kiểm toán của các Công ty
đang niêm yết trên TTCK HNX. Dữ liệu được
thu thập từ BCTC ở giai đoạn 2007- 2013 với
620 công ty niêm yết. Phương pháp nghiên cứu
bằng phương pháp Forward Stepwise. Bên cạnh
đó, kiểm định đa cộng tuyến nhằm kiểm tra
mức độ tương quan giữa các biến. Các mô hình
được xây dựng và kiểm định trong nghiên cứu
để tìm ra mô hình phù hợp nhất với dữ liệu và
các biến được chọn lựa là: (i) sai số nhỏ nhất;
(ii) tác động cố định; (iii) tác động ngẫu nhiên;
(4) sai số bình phương có trọng số. Điều này
cho phép chọn lựa được các biến độc lập phù
hợp nhất, giải thích được nhiều nhất cho biến
cần nghiên cứu. Biến phụ thuộc trong nghiên
cứu này là khả năng thanh toán và đại diện là
khả năng thanh toán Ngắn hạn; biến độc lập
là tỷ số P/B, tỷ số P/E, ROA, tỷ số nợ, tỷ lệ
lưu chuyển thuần, tỷ lệ vốn lưu động. Kết quả
nghiên cứu đã cho thấy: tỷ lệ vốn lưu động
thuần và tỷ số P/B tác động mạnh nhất đến khả
năng thanh khoản của các doanh nghiệp niêm
yết. Các yếu tố trên cũng có tương quan dương
với khả năng thanh khoản bên cạnh tỷ số P/E và
tỷ lệ lưu chuyển tiền thuần. Trong khi đó, tỷ lệ
nợ và tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản có tương
quan âm đến khả năng thanh khoản. Như vậy,
nghiên cứu này đã mở cho tác giả hướng nghiên
cứu tới doanh nghiệp các ngành riêng biệt nhau
niêm yết. Mỗi ngành lại có những đặc thù riêng,
đối với doanh nghiệp chế biến thực phẩm thì
yêu cầu khả năng thu hồi vốn nhanh nên các
doanh nghiệp trong ngành khi quản lý tốt lượng
vốn, khả năng thanh toán cũng như các chỉ tiêu
tài chính khác sẽ góp phần tích cực và toàn diện
đến nền kinh tế.
Vũ Thị Hồng (2015) với đề tài nghiên cứu “Các
yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân
hàng thương mại Việt Nam”. Nghiên cứu sử
dụng dữ liệu được thu thập từ các BCTC hợp
nhất hàng năm của 37 ngân hàng thương mại
(NHTM) Việt Nam trong khoảng thời gian từ
năm 2006- 2011. Dữ liệu được lấy trên trang
web của các công ty chứng khoán cũng như của
chính các ngân hàng đó. Mẫu nghiên cứu bao
gồm 37 ngân hàng với tổng cộng 185 quan sát
cho dữ liệu bảng không cân xứng. Các BCTC
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
49Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 196- Tháng 9. 2018
hợp nhất là cơ sở để xem xét hoạt động của các
ngân hàng hiện đại. Phương pháp nghiên cứu
sử dụng là phương pháp định lượng, sử dụng
kỹ thuật hồi quy bảng. Đồng thời, nghiên cứu
chỉ sử dụng 1 mô hình hồi quy, mỗi mô hình
chạy 2 hiệu ứng (FEM và REM) với OLS. Kết
quả nghiên cứu cho thấy “Tỷ lệ vốn chủ sở
hữu”, “Tỷ lệ nợ xấu” và “Tỷ lệ lợi nhuận” có
tác động cùng chiều đối với khả năng thanh
khoản của NHTM; ngược lại, “Tỷ lệ cho vay
trên huy động” có tác động ngược chiều với
khả năng thanh khoản của các NHTM Việt
Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu này không tìm
thấy ảnh hưởng của “Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín
dụng”, “Quy mô ngân hàng” đối với khả năng
thanh khoản của các NHTM Việt Nam. Như
vậy, nghiên cứu này đã hướng tới lĩnh vực ngân
hàng, cụ thể là các NHTM. Một trong những
nhiệm vụ quan trọng mà các nhà quản lý ngân
hàng cần thực hiện là đảm bảo khả năng thanh
khoản hợp lý cho ngân hàng. Ngân hàng có khả
năng thanh khoản tốt, hay nói cách khác là ngân
hàng không gặp rủi ro thanh khoản khi luôn có
được nguồn vốn khả dụng với chi phí hợp lý
vào đúng thời điểm mà ngân hàng cần. Điều
này có nghĩa nếu ngân hàng không có đủ nguồn
vốn cần thiết để đáp ứng mọi nhu cầu của thị
trường sẽ có thể mất khả năng thanh toán, mất
uy tín và dẫn đến sự đổ vỡ của toàn hệ thống.
Thái Văn Đại và Trần Việt Thanh Trúc (2018)
với bài viết “Đánh giá các nhân tố tác động đến
tỷ lệ thanh khoản của các ngân hàng thương
mại Việt Nam”, sử dụng dữ liệu được thu thập
từ 24 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 10 năm
(2006- 2015). Với phương pháp thu thập, xử
lý và phân tích dữ liệu, đồng thời phân tích hồi
quy với thiết kế nghiên cứu định lượng mối
quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng tới khả
năng thanh khoản tại NHTM bởi mô hình tác
động cố định- FEM. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, các biến quy mô ngân hàng (SIZE), rủi ro
tín dụng (LLP), tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng
nguồn vốn (CAP), tỷ lệ cho vay trên tổng tài
sản (TLA) và tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) là những nhân tố có mối tương
quan âm và có ý nghĩa thống kê đến tỷ lệ thanh
khoản. Duy nhất biến khả năng sinh lợi (ROE)
có mối tương quan dương đến tỷ lệ thanh khoản
của các NHTM. So với nghiên cứu của Vũ Thị
Hồng (2015) thì nghiên cứu này đã có sự khác
biệt, đó là tỷ lệ rủi ro tín dụng và quy mô của
ngân hàng đều ảnh hưởng tới khả năng thanh
khoản, đặc biệt tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm
quốc nội của GDP cũng có mối tương quan
âm tới khả năng thanh khoản của NHTM Việt
Nam. Khả năng sinh lời ROE được tác giả bổ
sung biến độc lập mới. Sự khác biệt so với
nghiên cứu trước là do quy mô mẫu nhỏ, thời
kỳ nghiên cứu không dài và cả sự tác động sâu
rộng của hội nhập kinh tế quốc tế chưa nhiều và
sâu sắc như hiện nay.
Như vậy, các nghiên cứu về khả năng thanh
toán ở trong và ngoài nước trước đây đã chứng
tỏ rằng khả năng thanh toán chịu sự tác động
bởi các nhân tố khác nhau và có sự khác biệt
giữa những nhóm doanh nghiệp thuộc các
ngành nghề kinh doanh khác nhau cũng như tại
thời gian hay không gian nghiên cứu khác nhau.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng của các
nghiên cứu thực nghiệm chủ yếu là phân tích
tương quan và phân tích hồi quy tuyến tính
nhiều biến với dữ liệu được thu thập, kết hợp
với những kiểm định thích hợp. BCTC là nguồn
tài liệu chủ yếu để tính toán ra các chỉ tiêu tài
chính mà xuất hiện trong mô hình nghiên cứu
của các nghiên cứu thực nghiệm trước đây. Nối
tiếp các nghiên cứu thực nghiệm trước đây,
nghiên cứu này cũng tập trung vào đối tượng
khảo sát là các Công ty chế biến thực phẩm
niêm yết nhưng với quy mô mẫu lớn hơn, thời
gian nghiên cứu gần đây và đặc biệt là các nhân
tố được đưa vào mô hình nghiên cứu đa dạng và
toàn diện hơn.
3. Thu thập dữ liệu và phương pháp nghiên
cứu
3.1. Mô hình nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm lượng hóa ảnh hưởng
của các nhân tố là khả năng sinh lời, quy mô
doanh nghiệp, thời gian hoạt động của doanh
nghiệp, tỷ số nợ, tăng trưởng GDP và lạm phát
để chọn lọc đưa vào mô hình hồi quy nhằm
kiểm nghiệm tác động của chúng, dựa theo
nghiên cứu của Nguyễn Đình Thiên và cộng sự
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
50 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 196- Tháng 9. 2018
(2014), đối với thực tiễn khả năng thanh toán
của các công ty chế biến thực phẩm niêm yết
trên TTCK, nhóm tác giả xây dựng mô hình hồi
quy dựa trên lượng hóa các nhân tố được đưa
vào mô hình. Biến khả năng thanh toán ngắn
hạn được đại diện cho khả năng thanh toán. Mô
hình được mô tả như sau:
CR
i
= α
0
+ α1SIZEi + α2AGEi + α3ASi + α4ROAi
+ α
5
ROS
i
+ α
6
ROE
i
+ α7Ii + α8GDPi + α9DRi +
E
i
(1)
QR
i
= β
0
+ β1SIZEi + β2AGEi + β3ASi + β4ROAi
+ β
5
ROS
i
+ β
6
ROE
i
+ β7Ii + β8GDPi + β9DRi +
U
i
(2)
MR
i
= µ
0
+ µ1SIZEi + µ2AGEi + µ3ASi +
µ
4
ROA
i
+ µ
5
ROS
i
+ µ
6
ROE
i
+ µ7Ii + µ8GDPi +
µ9DRi + Vi (3)
Trong đó:
CR: khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
QR: khả năng thanh toán nhanh
MR: khả năng thanh toán tức thời
ROA: khả năng sinh lời của tài sản
ROE: khả năng sinh lời của VCSH
ROS: khả năng sinh lời của Doanh thu thuần
SIZE: quy mô công ty
AGE: thời gian hoạt động của doanh nghiệp
AS: cấu trúc tài sản
GDP: tăng trưởng GDP
I: lạm phát
DR: tỷ số nợ
Ei, Ui , Vi: các sai số ngẫu nhiên
3.2. Thu thập dữ liệu
Trong nghiên cứu này, nguồn dữ liệu thu thập
được chủ yếu là nguồn dữ liệu thứ cấp, được
thu thập từ các BCTC hàng năm đã được kiểm
Bảng 1. Doanh thu của công ty qua các năm
DT
(triệu đồng)
2012 2013 2014 2015 2016
Số
lượng
Tỷ trọng
(%)
Số
lượng
Tỷ trọng
(%)
Số
lượng
Tỷ trọng
(%)
Số
lượng
Tỷ trọng
(%)
Số
lượng
Tỷ trọng
(%)
DT>851.138 11 35,48 12 38,71 11 35,48 12 38,71 13 41,93
DT<851.138 20 64,52 19 61,29 20 64,52 19 61,29 18 58,07
Tổng 31 100 31 100 31 100 31 100 31 100
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của nhóm tác giả
Bảng 2. Thống kê mô tả mẫu nghiên cứu
Mean Median Max Min Std. Dev. Probability Quan sát
CR 2,014021 1,643529 6,736433 0,612693 1,154655 - 155
QR 1,329972 1,095476 5,169308 0,25829 0,936843 - 155
MR 0,584048 0,382605 4,666839 0,002877 0,709546 - 155
ROA 0,102311 0,094527 0,486947 0,00086 0,067211 - 155
ROE 0,17615 0,162309 0,698003 0,00357 0,102654 - 155
ROS 0,058858 0,044101 0,3035 0,000146 0,044297 - 155
DR 0,416685 0,385419 0,932023 0,09738 0,165303 0,199986 155
SIZE 5,930191 5,824148 7,485277 4,372366 0,509288 0,000003 155
AGE 11,32258 11 24 2 4,143428 0,000211 155
AS 0,650201 0,675795 0,999441 0,182239 0,170392 0,009112 155
LP 4,462 4,74 6,81 0,63 2,147175 0,000075 155
GDP 5,864 5,98 6,68 5,03 0,583559 0,004356 155
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của nhóm tác giả bằng phần mềm EVIEWS 8
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
51Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 196- Tháng 9. 2018
toán đầy đủ của các công ty cổ phần ngành chế
biến thực phẩm niêm yết trên TTCK Việt Nam
trong khoảng thời gian 2012- 2016. Mẫu nghiên
cứu là 31 niêm yết trên TTCK, tương ứng với
155 quan sát, tác giả sử dụng phần mềm Excel,
xây dựng các bảng biểu, công thức để tính toán
các biến sử dụng trong mô hình.
Dữ liệu trong Bảng 1 cho thấy giai đoạn 2012-
2016 có khoảng 38% các công ty chế biến thực
phẩm có quy mô nhỏ hơn quy mô trung bình
ngành như ANT, CAP, HAD... Nguyên nhân
chủ yếu là do các công ty chịu ảnh hưởng lớn
nền kinh tế suy thoái, tình hình sản xuất kinh
doanh của các công ty gặp nhiều khó khăn,
hàng hóa kém lưu thông nên hàng tồn kho lớn,
dẫn đến tăng trưởng doanh thu (GR) đạt được
không cao. Bên cạnh đó vẫn có những công ty
có quy mô lớn hơn trung bình ngành, dẫn đầu
toàn ngành như SAB, TAC, LSS... Nguyên
nhân chủ yếu do các công ty này có thời gian
hoạt động kinh doanh (AGE) lâu năm, có nhiều
kinh nghiệm và nắm bắt được nhu cầu của các
đối tác, các khách hàng nên các công ty này đã
thu hút được nhiều khách hàng, nhiều hợp đồng
trong và ngoài nước nên có được nguồn doanh
thu lớn, tăng trưởng doanh thu (GR) cao... Khi
có được doanh thu lớn, hiệu quả tài chính ổn
định thì công ty có thể duy trì cấu trúc tài sản
(AS) hợp lý, tỷ số nợ (DR) vừa phải, không phụ
thuộc quá nhiều vào các khoản nợ.
Qua bảng thống kê mô tả những giá trị đã tính
toán dựa trên phần mềm EVIEWS, ta có được
các giá trị sau: giá trị nhỏ nhất (Min); giá trị
cao nhất (Max); giá trị trung bình (Mean) và độ
lệch chuẩn (STD) của 31 công ty trong mẫu từ
năm 2012 đến năm 2016. Các thước đo để đo
lường khả năng thanh toán gồm: khả năng thanh
toán nhanh (QR); khả năng thanh toán Nợ ngắn
hạn (CR) và khả năng thanh toán tức thời (MR).
Cùng với đó là 9 nhân tố tác động tới khả năng
thanh toán đến khả năng thanh toán của các
công ty trong mẫu.
3.3. Xử lý dữ liệu
Sau khi thu thập được xử lý các dữ liệu thứ cấp
bằng các phương pháp xử lý dữ liệu bao gồm
phân loại và sắp xếp dữ liệu một cách khoa học,
sử dụng sơ đồ, bảng biểu để biểu thị, sau đó
phân tích, so sánh rồi tổng hợp. Như vậy, các
dữ liệu sẽ được lưu trong file dữ liệu tạo ra sự
thuận tiện và dễ kiểm soát khi nhập dữ liệu vào
phần mềm và chạy mô hình. Nhóm tác giả sử
dụng phần mềm Eviews 8.
Khi nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng phương
pháp phân tích hồi quy kết hợp với các phương
pháp kiểm định khuyết tật khác nhau của các
mô hình để đưa ra kết luận cho các giả thuyết
về mối quan hệ giữa các biến độc lập với biến