Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro phá sản của các doanh nghiệp niêm yết ngành Xây dựng tại Việt Nam

Bài viết nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro phá sản của các doanh nghiệp niêm yết ngành Xây dựng tại Việt Nam. Các nhân tố được nghiên cứu bao gồm tổng nợ phải trả trên tổng tài sản; Vốn lưu động trên tổng tài sản; Khả năng thanh toán ngắn hạn; Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản và tốc độ tăng trưởng thu nhập ròng. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho biết chỉ có tổng nợ phải trả trên tổng tài sản và tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản có ảnh hưởng đến rủi ro phá sản của doanh nghiệp niêm yết ngành Xây dựng tại Việt Nam. Trong đó tổng nợ phải trả trên tổng tài sản có ảnh hưởng cùng chiều và tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản có ảnh hưởng ngược chiều. Kết quả nghiên cứu là bằng chứng quan trọng cho các nhà quản trị trong hoạt động quản lý điều hành doanh nghiệp.

pdf11 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 620 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro phá sản của các doanh nghiệp niêm yết ngành Xây dựng tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
31 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 205- Tháng 6. 2019 Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro phá sản của các doanh nghiệp niêm yết ngành Xây dựng tại Việt Nam QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP Nguyễn Thị Tuyết Lan Ngày nhận: 21/04/2019 Ngày nhận bản sửa: 13/05/2019 Ngày duyệt đăng: 17/05/2019 Bài viết nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro phá sản của các doanh nghiệp niêm yết ngành Xây dựng tại Việt Nam. Các nhân tố được nghiên cứu bao gồm tổng nợ phải trả trên tổng tài sản; Vốn lưu động trên tổng tài sản; Khả năng thanh toán ngắn hạn; Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản và tốc độ tăng trưởng thu nhập ròng. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho biết chỉ có tổng nợ phải trả trên tổng tài sản và tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản có ảnh hưởng đến rủi ro phá sản của doanh nghiệp niêm yết ngành Xây dựng tại Việt Nam. Trong đó tổng nợ phải trả trên tổng tài sản có ảnh hưởng cùng chiều và tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản có ảnh hưởng ngược chiều. Kết quả nghiên cứu là bằng chứng quan trọng cho các nhà quản trị trong hoạt động quản lý điều hành doanh nghiệp. Từ Khóa: Rủi ro phá sản, Doanh nghiệp niêm yết, Ngành Xây dựng 1. Giới thiệu rong giai đoạn 2005- 2009, tốc độ tăng trưởng của ngành Xây dựng bình quân đạt 9,6%/năm và giai đoạn 2010- 2015 đạt 4,6%/năm. Dự tính từ nay đến năm 2020, Việt Nam cần thu hút khoảng 202 nghìn tỷ đồng mỗi năm để phát triển hạ tầng giao thông và khoảng 125 nghìn tỷ đồng mỗi năm cho các dự án hạ tầng điện... Đây sẽ là thị trường tiềm năng vô cùng to lớn cho ngành Xây dựng để phát triển trong tương lai. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội phát triển, doanh nghiệp ngành Xây dựng tại Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều khó khăn. Từ tác động của các cuộc khủng hoảng kinh tế, biến động liên tục của lãi suất và lạm phát cũng như các chính sách quản lý của Nhà nước đã ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp ngành Xây dựng. Những vấn đề này khiến các doanh nghiệp ngành Xây dựng Việt Nam ngày càng quan tâm đến bài toán quản trị tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là thiết lập một nguồn lực tài chính mạnh và dự báo rủi ro phá sản của doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp các doanh QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 32 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 205- Tháng 6. 2019 nghiệp ngành Xây dựng tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, hạn chế rủi ro tài chính và là nền tảng vững chắc giúp doanh nghiệp đương đầu với những biến động từ bên ngoài, giúp giảm nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. Mặt khác, đối với các doanh nghiệp niêm yết ngành Xây dựng có tỷ lệ nợ vay/vốn chủ sở hữu rất cao, chi phí tài chính là một gánh nặng đối với doanh nghiệp và sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến con số lợi nhuận của họ đồng thời làm rủi ro phá sản tăng cao. Bài báo này nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro phá sản của các doanh nghiệp niêm yết ngành Xây dựng tại Việt Nam bằng phương pháp nghiên cứu định lượng và mô hình Logit, từ đó đề xuất giải pháp giảm rủi ro phá sản của các doanh nghiệp này. Bài viết trả lời các câu hỏi: (i) Nhân tố nào ảnh hưởng tới rủi ro phá sản của các doanh nghiệp niêm yết ngành Xây dựng tại Việt Nam; (ii) Đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới rủi ro phá sản của các doanh nghiệp niêm yết ngành Xây dựng tại Việt Nam. 2. Tổng quan nghiên cứu Liên quan đến rủi ro phá sản của doanh nghiệp, trên thế giới có khá nhiều các nghiên cứu liên quan. Đầu tiên phải kể đến nghiên cứu của Edward I. A. (1968) về chỉ số tài chính, phân tích mô hình đa thức nhằm dự báo khả năng phá sản doanh nghiệp. Nghiên cứu có mẫu khảo sát ban đầu gồm 66 doanh nghiệp được chia thành hai nhóm với mỗi nhóm là 33 doanh nghiệp. Nhóm thứ nhất là nhóm các doanh nghiệp phá sản theo Chương X của Luật Phá sản Hoa Kỳ trong giai đoạn 1946- 1965 và nhóm thứ hai là nhóm các doanh nghiệp không phá sản trong cùng thời kỳ và vẫn tồn tại trong năm 1966. Trong đó, tác giả xem xét 22 biến tỷ số tài chính tiềm năng để phân tích, các biến tỷ số này được phân loại thành 5 nhóm biến tỷ số chuẩn bao gồm: tỷ số về tính thanh khoản, tỷ số về lợi nhuận, tỷ số về đòn bẩy tài chính, tỷ số về khả năng thanh toán nợ, và tỷ số về hoạt động. Các nhóm biến tỷ số này được chọn dựa vào các cơ sở sau: (1) các nghiên cứu đã công bố trước đó, (2) sự phù hợp tiềm năng với bài nghiên cứu và (3) vài biến tỷ số mới được tạo ra trong bài nghiên cứu. Từ danh sách 22 biến tỷ số tài chính ban đầu, nghiên cứu chọn ra năm biến tỷ số để đưa vào mô hình thực hiện dự báo khả năng phá sản doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, tất cả các doanh nghiệp có điểm số Z Score lớn hơn 2,99 thuộc nhóm các doanh nghiệp không phá sản, nghĩa là rơi vào vùng không phá sản, trong khi các doanh nghiệp có điểm số Z Score thấp hơn 1,81 thuộc các nhóm các doanh nghiệp phá sản, chúng nằm trong vùng phá sản, các doanh nghiệp có điểm số Z Score từ 2,99 đến 1,81 thuộc vùng chưa xác định vì tính nhạy cảm của sai sót trong cách phân loại doanh nghiệp. Mô hình phân tích đa thức các tỷ số cực kỳ chính xác trong việc dự báo phá sản doanh nghiệp, nó dự báo đúng 94% mẫu khảo sát ban đầu và với 95% tất cả các doanh nghiệp nằm trong nhóm phá sản và không phá sản. Tuy nhiên, giới hạn của bài nghiên cứu là chỉ khảo sát các doanh nghiệp sản xuất lớn (dựa vào quy mô tài sản) và có sai sót trong việc phân loại doanh nghiệp thuộc nhóm phá sản và không phá sản. Trong khi đó, James A.O (1980) nghiên cứu về chỉ số tài chính và khả năng dự báo phá sản. Bài nghiên cứu trình bày các kết quả nghiên cứu định lượng dự báo sự thất bại của doanh nghiệp như là bằng chứng cho các sự kiện phá sản. Những phát hiện chính của bài nghiên cứu có thể được tóm tắt một cách ngắn gọn như sau: đầu tiên, khả năng nhận diện bốn nhóm nhân tố quan trọng được thống kê có tác động đến xác suất thất bại của doanh nghiệp (trong vòng một năm), đó là: (1) quy mô doanh nghiệp, (2) cấu trúc tài chính, (3) tính hiệu quả, và (4) tính thanh khoản. Thứ hai, những nghiên cứu trước đó đã phóng đại sức mạnh của các mô hình dự báo phá sản và các kiểm định của nó. Một vấn đề nữa là các nhân tố dự báo (các chỉ số tài chính) lấy từ các báo cáo tài chính được công bố sau ngày phá sản, sau đó bằng chứng chỉ ra rằng các nhân tố này sẽ dự báo phá sản. Ngoài ra, khi nghiên cứu về phá sản, Evridiki Neophytou, Andreas Charitou và Chris Charalambous (2000) trong nghiên cứu của mình về dự báo thất bại doanh nghiệp đã phát triển mô hình phân loại các doanh nghiệp công nghiệp thất bại cho Vương quốc Anh, bằng QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 33Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 205- Tháng 6. 2019 cách sử dụng kỹ thuật phân tích logit. Bộ dữ liệu bao gồm 51 cặp các doanh nghiệp công nghiệp thất bại và không thất bại ở Anh trong giai đoạn 1988 - 1997. Mô hình dự báo được phát triển cho đến ba năm trước khi sự kiện thất bại xảy ra. Kết quả cho thấy một mô hình bao gồm ba biến tài chính là khả năng sinh lời, dòng tiền hoạt động và biến đòn bẩy tài chính có thể giải thích chính xác tổng thể 83% khả năng thất bại doanh nghiệp trước một năm. Mô hình của tác giả có thể hỗ trợ các nhà quản lý, các cổ đông, các tổ chức tài chính, kiểm toán viên tại Anh dự báo khủng hoảng tài chính. Bên cạnh đó, Pranee Leksrisakul và Michael Evans (2005) trong nghiên cứu về mô hình phá sản doanh nghiệp ở Thái Lan đã cung cấp bằng chứng mới về việc sử dụng phương pháp phân tích biệt thức đa biến (MDA) có thể được chọn như là một công cụ để dự đoán sự thất bại của doanh nghiệp niêm yết ở Thái Lan. Nguồn dữ liệu được sử dụng là các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán (TTCK) Thái Lan (SET) trong khoảng thời gian 1997- 2002. Các biến tài chính lấy từ mô hình dự báo phá sản của Altman (1968). Kết quả nghiên cứu cho thấy, các biến số về lợi nhuận, đòn bẩy tài chính, chất lượng tài sản và tính thanh khoản có tác động đến khả năng dự báo phá sản doanh nghiệp và tất cả chúng đều có ý nghĩa thống kê. Bên cạnh đó, các kết quả kiểm định cho thấy rằng các chỉ tiêu tài chính của các doanh nghiệp phá sản có sự khác biệt có ý nghĩa so với các doanh nghiệp không phá sản, các tỷ số tài chính về lợi nhuận, tính thanh khoản và chất lượng tài sản của các doanh nghiệp phá sản thấp hơn so với các doanh nghiệp không phá sản, nhưng tỷ lệ đòn bẩy có xu hướng ngược lại giữa hai nhóm doanh nghiệp này. Nghiên cứu của Ming Xu và Chu Zhang (2008) về trường hợp của các doanh nghiệp niêm yết Nhật Bản dự báo phá sản của các doanh nghiệp niêm yết ở Nhật Bản giai đoạn 1992- 2005. Nhóm tác giả cho thấy rằng các biện pháp truyền thống như chỉ số Zscore của Altman (1968), Oscore của Ohlson (1980) và định giá quyền chọn trước đây được phát triển cho thị trường Mỹ, cũng rất hữu ích cho thị trường Nhật Bản. Hơn nữa, sức mạnh dự báo mạnh đáng kể khi các biện pháp này được kết hợp. Kết quả cho thấy dự báo phá sản dựa trên phương pháp định giá quyền chọn thành công hơn các phương pháp dựa vào các biến kế toán. Gần đây, nhóm nghiên cứu của Ben Chin-Fook Yap, David Gun-Fie Yong và Wai-Ching Poon (2010) nghiên cứu về tỷ số tài chính và phân tích biểu thức đa biến dự báo sự thất bại của các doanh nghiệp Malaysia. Mục đích của bài nghiên cứu là phát triển một mô hình để cải thiện khả năng tiên đoán sự thất bại cho các doanh nghiệp sau khoảng thời gian cơ cấu lại với điều kiện tài chính, kinh doanh và hoạt động khác nhau trong bối cảnh của Malaysia. Tổng cộng có 64 doanh nghiệp được phân tích với 16 chỉ tiêu tài chính. Một hàm đa thức được xây dựng để phân tích (MDA) với 07 tỷ số tài chính được tìm thấy là có ý nghĩa thống kê trong việc dự báo với tỷ lệ chính xác cao từ 88% đến 94% cho mỗi doanh nghiệp trước khi doanh nghiệp thất bại. Bẩy tỷ số tài chính đó là: Tổng tài sản trên tổng nợ phải trả (FFTL), dòng tiền trên tổng nợ dài hạn (CFTD), tổng nợ dài hạn trên tổng tài sản (TDTA), vốn lưu động trên tổng tài sản (WCTA), thu nhập giữ lại trên tổng tài sản (RETA), thu nhập trước thuế và lãi vay (EBIT) và thu nhập ròng trên doanh thu (NIS). Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng ngay cả với các công cụ thống kê tiên tiến phổ biến hơn được sử dụng gần đây, MDA vẫn còn là một công cụ thống kê mạnh và rất đáng tin cậy. Ở Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu liên quan đến chủ đề này. Điển hình có thể kể đến nghiên cứu của Hay Sinh (2003) về ước tính xác suất phá sản trong thẩm định giá trị doanh nghiệp. Theo tác giả, xác suất phá sản là một tham số tài chính có ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị doanh nghiệp. Tuy nhiên khi thẩm định giá bằng các phương pháp thuộc cách tiếp cận dòng tiền, xác xuất phá sản chưa được ước tính là một tham số độc lập mà thường được thể hiện trong tỉ suất chiết khấu. Trong khi đó, phương pháp giá trị hiện tại có điều chỉnh (APV) đã có cách tiếp cận mới hơn khi tách tác động biên của nợ vay và ước tính xác suất phá sản như một tham số độc lập. Về ý tưởng, APV tỏ ra khá hiệu quả, nhưng tại Việt Nam, phương pháp này vẫn chưa được thẩm định viên quan QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 34 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 205- Tháng 6. 2019 tâm vì vướng phải nhiều khó khăn trong việc ước tính xác suất phá sản. Do đó, bài nghiên cứu của tác giả nhằm mục đích thiết lập các phương pháp ước tính xác suất phá sản của một doanh nghiệp để phương pháp giá trị hiện tại có điều chỉnh (APV) ngày càng được áp dụng rộng rãi, góp phần làm đa dạng hóa các phương pháp trong hoạt động thẩm định giá trị doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay. Tác giả đã đưa ra hai phương pháp ước tính xác suất phá sản của một doanh nghiệp là: (1) Dựa vào chỉ số Z’’ điều chỉnh của Altman (1968); và (2) dựa vào hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ của các ngân hàng thương mại (NHTM) theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) ban hành. Bên cạnh đó là nghiên cứu của Nguyễn Minh Hà, Nguyễn Bá Hướng (2016) phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro phá sản ngân hàng bằng phương pháp Z-Score. Mục tiêu nghiên cứu là xác định các yếu tố hưởng đến rủi ro phá sản ngân hàng Việt Nam bằng phương pháp Z-score, từ đó gợi ý chính sách phù hợp nhằm tăng cường sự ổn định và lành mạnh trong hoạt động của NHTM cổ phần Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu gồm 23 NHTM cổ phần Việt Nam với 115 quan sát từ 2009- 2013. Nghiên cứu tìm thấy các yếu tố có mối quan hệ nghịch chiều với rủi ro phá sản ngân hàng như: Tăng trưởng tín dụng, tỷ lệ dự phòng nợ xấu, tỷ lệ thu nhập lãi thuần, vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, đa dạng hóa thu nhập, sở hữu nhà nước, số năm hoạt động của ngân hàng và ngân hàng đã niêm yết. Các yếu tố có mối quan hệ đồng biến với rủi ro phá sản ngân hàng, gồm: Hiệu quả quản lý chi phí và quy mô. Ngoài ra nghiên cứu về quyết định đầu tư và rủi ro phá sản của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam của Lê Nguyễn Sơn Vũ (2013) đã đưa ra các bằng chứng thực nghiệm về sự tác động của các nhân tố tỷ số tài chính đến quyết định đầu tư và rủi ro phá sản của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam giai đoạn 2003- 2012. Bên cạnh việc nghiên cứu 737 công ty trong toàn bộ mẫu khảo sát, tác giả còn phân loại các công ty trong mẫu khảo sát thành năm ngành để thực hiện nghiên cứu thêm là ngành Chứng khoán, ngành Bất động sản, ngành Xây dựng- Vật liệu xây dựng, ngành Thực phẩm- đồ uống và ngành Hàng tiêu dùng cá nhân- gia đình. Khi xem xét toàn bộ mẫu khảo sát, có mối tương quan thuận giữa ba nhân tố về tính thanh khoản ngắn hạn, thu nhập ròng âm hai năm gần đây và nợ phải trả vượt tổng tài sản với chỉ số dự báo phá sản Oscore; và đồng thời hai nhân tố tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản và tốc độ tăng trưởng thu nhập ròng có mối tương quan nghịch với chỉ số dự báo phá sản Oscore, và tất cả đều có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, bốn nhân tố còn lại là quy mô doanh nghiệp, tổng nợ trên tổng tài sản, vốn lưu động trên tổng tài sản và quỹ được lập từ hoạt động trên tổng nợ phải trả cũng có tác động đến chỉ số dự báo phá sản Oscore nhưng không có ý nghĩa thống kê. Gần đây, nhóm tác giả thuộc nhóm ngành khoa học kinh tế trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh (2013) đã thực hiện nghiên cứu lập mô hình dự báo phá sản các công ty phi tài chính Việt Nam. Nhóm tác giả đã xác định các chỉ số tài chính quan trọng nhất trong dự báo phá sản đối với khu vực phi tài chính của Việt Nam bằng cách sử dụng mẫu của các công ty bị phá sản trong giai đoạn 2008- đầu năm 2013. Bằng cách đó, 24 chỉ tiêu tài chính đo lường các thuộc tính tài chính quan trọng của một công ty (phân thành 4 nhóm: tỷ số đòn bẩy, tỷ số thanh khoản, tỷ số khả năng sinh lợi và tỷ số vòng quay) đã được dùng để kiểm tra sự phá sản trong thời gian ba năm trước khi phá sản. Phân tích biệt số DA đưa ra một mô hình kinh tế của hai biến: EBIT trên tổng tài sản (thuộc nhóm tỷ số khả năng sinh lợi) và Vốn luân chuyển trên doanh thu (thuộc nhóm tỷ số vòng quay). Ước tính của các tác giả cung cấp bằng chứng rằng các công ty có chỉ số Z< 0,08 có nghĩa là đang tiến dần vào vùng “không phá sản”, trong khi các công ty có chỉ số Z> 0,08 tức đang tiến vào vùng “phá sản”. Cuối cùng, công ty có chỉ số Z= -1,434 được xếp vào “Phá sản” và công ty có chỉ số Z= 1,514 được xếp vào “Không phá sản”. Mô hình đạt được độ chính xác dự báo 79,2% khi áp dụng để dự báo phá sản trên mẫu. Ngoài việc đánh giá mô hình dự đoán phá sản đối với Việt Nam, nghiên cứu cho thấy rằng hầu hết các công ty bị phá sản trong giai đoạn QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 35Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 205- Tháng 6. 2019 từ 2008 đến đầu 2013 đã cho thấy dấu hiệu của khủng hoảng tài chính, ví dụ hiệu quả tài chính kém. Hơn nữa, nghiên cứu của các tác giả đã bổ sung các tài liệu hiện có bằng cách tìm hiểu hai biến tài chính quan trọng ở Việt Nam, là tỷ lệ EBIT trên tổng tài sản, tỷ lệ vốn luân chuyển trên doanh thu, có thể được sử dụng để tìm ra những nguy cơ phá sản ở Việt Nam Tóm lại, qua các nghiên cứu thực nghiệm cả ở trong và ngoài nước đều chỉ ra rằng có rất nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến rủi ro phá sản của doanh nghiệp. Các nhân tố có thể có ảnh hưởng đến rủi ro phá sản gồm: quy mô doanh nghiệp, khả năng thanh toán ngắn hạn, tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản, tổng nợ phải trả trên tổng tài sản, vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản Tuy nhiên, với những mẫu dữ liệu khác nhau trong các khoảng thời gian khác nhau, các nghiên cứu đã đưa ra các kết luận có sự khác biệt. Chính vì thế, muốn biết các nhân tố nào thực sự tác động đến rủi ro phá sản của doanh nghiệp thì phải xem xét và phân tích dựa trên những đặc điểm riêng của đối tượng nghiên cứu. Ở Việt Nam đã có rất nhiều nghiên cứu về rủi ro phá sản nói riêng cũng như rủi ro nói chung của các doanh nghiệp tuy nhiên chưa có một nghiên cứu cụ thể nào về các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro phá sản của các doanh nghiệp niêm yết ngành Xây dựng. Do đó, trên cơ sở kế thừa những ưu điểm của các nghiên cứu đi trước, nghiên cứu này sẽ bổ sung thêm vào khoảng trống nghiên cứu về rủi ro phá sản, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro phá sản của các doanh nghiệp niêm yết ngành Xây dựng tại Việt Nam. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Mô hình nghiên cứu Tham khảo các nghiên cứu đi trước (Greene, 2012; James A.Ohlson, 1980; Lê Nguyến Sơn Vũ, 2013), mô hình được sử dụng để nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro phá sản của doanh nghiệp niêm yết ngành Xây dựng tại Việt Nam có dạng như sau: Pr(Oscore) = β 0 + β 1 *TLTA+β 2 *WCTA+β 3 *CL CA+β4*NITA+β5*CHIN + ui Trong đó, Oscore là khả năng phá sản của doanh nghiệp; TLTA - Tổng nợ phải trả trên tổng tài sản; WCTA - Vốn lưu động trên tổng tài sản; CLCA - Khả năng thanh toán ngắn hạn; NITA - Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản; CHIN - Tốc độ tăng trưởng thu nhập ròng. 3.2. Biến số và thước đo Biến phụ thuộc: Rủi ro phá sản doanh nghiệp Chỉ số tổng thể dự báo phá sản doanh nghiệp trong vòng một năm - Oscore. Oscore = 1 nếu doanh nghiệp có khả năng phá sản trong năm tiếp theo và bằng 0 nếu ngược lại (James A.Ohlson, 1980; Ming Xu và Chu Zhang, 2008). Cụ thể, Oscore được đo trên cơ sở ước lượng của mô hình: Z = 0,517 – 0,460X 1 + 9,329X 2 + 0,388X 3 + 1,158X4 Trong đó: X 1 : Tổng nợ phải trả trên tổng tài sản X 2 : Lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản X 3 : Vốn lưu động ròng trên tổng tài sản X4: Lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản Nếu Z 0,5 thì Oscore = 0 Biến độc lập: (i) Tổng nợ phải trả trên tổng tài sản: Theo nghiên cứu của James A.Ohlson (1980), Ming Xu và Chu Zhang (2008) tổng nợ phải trả trên tổng tài sản có tương quan thuận với rủi ro phá sản của một doanh nghiệp. Nếu tổng nợ phải trả trên tổng tài sản càng lớn thì nguy cơ phá sản của doanh nghiệp càng cao, trong khi doanh nghiệp có tỉ lệ này thấp thì sẽ ít phải đối mặt với nguy cơ phá sản hơn. Trong nghiên cứu này, tổng nợ phải trả trên tổng tài sản (TLTA) được tính bằng tỷ số tài chính giữa tổng nợ trong kỳ chia cho tổng tài sản trong kì. (ii) Vốn lưu động trên tổng tài sản: Theo nghiên cứu của Edward I.Altman (1968); James A.Ohlson (1980); Ming Xu và Chu Zhang (2008); Ben Chin-Fook Yap, David Gun-Fie Yong và Wai-Ching Poon (2010), nhân tố tính thanh khoản (đo bằng vốn lưu động trên tổng tài sản) là một trong những nhân tố quan trọng trong việc đánh giá khả năng phá sản doanh QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 36 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 205- Tháng 6. 2019 nghiệp. Tính thanh khoản của doanh nghiệp càng lớn thì nguy cơ phá sản càng thấp và ngược lại. Trong nghiên cứu này, vốn lưu đ