Chuyển giá là hiện tượng thường gặp trong các nền kinh tế hội nhập.
Các doanh nghiệp thực hiện hành vi chuyển giá nhằm thay đổi giá
của hàng hóa và dịch vụ vì các mục đích khác nhau, đặc biệt là mục
đích thuế. Chính vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần có biện
pháp kiểm soát nhằm ngăn chặn và hạn chế các tác động tiêu cực
của chuyển giá. Bài viết này nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến
tính hiệu lực của kiểm soát chuyển giá, thông qua việc tổng quan các
nhân tố ảnh hưởng đến kiểm soát chuyển giá. Kết quả nghiên cứu là
cơ sở cho các nghiên cứu thực nghiệm nhằm đánh giá mức độ ảnh
hưởng của các nhân tố tới hiệu lực của kiểm soát chuyển giá, phân
tích thực trạng, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường tính
hiệu lực của kiểm soát chuyển giá đối với các doanh nghiệp.
14 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 474 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của kiểm soát chuyển giá đối với doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
25
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 196- Tháng 9. 2018
Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của
kiểm soát chuyển giá đối với doanh nghiệp
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
Bùi Thị Minh Hải
Ngày nhận: 31/07/2018 Ngày nhận bản sửa: 20/08/2018 Ngày duyệt đăng: 18/09/2018
Chuyển giá là hiện tượng thường gặp trong các nền kinh tế hội nhập.
Các doanh nghiệp thực hiện hành vi chuyển giá nhằm thay đổi giá
của hàng hóa và dịch vụ vì các mục đích khác nhau, đặc biệt là mục
đích thuế. Chính vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần có biện
pháp kiểm soát nhằm ngăn chặn và hạn chế các tác động tiêu cực
của chuyển giá. Bài viết này nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến
tính hiệu lực của kiểm soát chuyển giá, thông qua việc tổng quan các
nhân tố ảnh hưởng đến kiểm soát chuyển giá. Kết quả nghiên cứu là
cơ sở cho các nghiên cứu thực nghiệm nhằm đánh giá mức độ ảnh
hưởng của các nhân tố tới hiệu lực của kiểm soát chuyển giá, phân
tích thực trạng, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường tính
hiệu lực của kiểm soát chuyển giá đối với các doanh nghiệp.
Từ khóa: chuyển giá, kiểm soát, kiểm soát chuyển giá đối với doanh
nghiệp
1. Đặt vấn đề
ền kinh tế thị
trường trong
thời kỳ hội
nhập kinh tế
quốc tế luôn
tiềm ẩn những khuyết tật do
động cơ kinh doanh của hầu
hết các doanh nghiệp thường
chạy theo lợi ích. Lợi ích
khiến cho một số doanh nghiệp
luôn tính toán nhằm lợi dụng
những lỗ hổng trong hệ thống
pháp lý, sự buông lỏng quản
lý của các cơ quan chức năng
để tư lợi, trong đó có các chiêu
trò chuyển giá. Chính vì vậy,
để khắc phục những khiếm
khuyết này, nhà nước phải làm
tốt vai trò của mình trong quản
lý kinh tế. Các hoạt động kiểm
tra, kiểm soát đối với chuyển
giá cần được các cơ quan có
thẩm quyền của nhà nước thực
hiện một cách phù hợp và hiệu
quả nhằm phát hiện, ngăn chặn
kịp thời các biểu hiện của hoạt
động chuyển giá trái với quy
định của pháp luật, từ đó loại
bỏ hoặc hạn chế các tác động
tiêu cực của hoạt động chuyển
giá đối với nền kinh tế.
Hiệu lực của kiểm soát chuyển
giá phản ánh khả năng hoàn
thành các mục tiêu đã định
và có thể được đo lường và
đánh giá thông qua các chỉ báo
phản ánh các mục tiêu mà các
quốc gia hướng tới. Kiểm soát
chuyển giá phải ngăn ngừa và
phát hiện kịp thời các vi phạm
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 196- Tháng 9. 2018
pháp luật liên quan đến các
hành vi chuyển giá của các
doanh nghiệp, loại bỏ hoặc
hạn chế các tác động tiêu cực
của chuyển giá đến nền kinh
tế. Thông qua đó, kiểm soát
chuyển giá góp phần đảm bảo
và tăng cường nguồn thu cho
Ngân sách Nhà nước, đảm bảo
tính minh bạch của nền kinh
tế, là cơ sở đạt được sự công
bằng và bình đẳng cho các
doanh nghiệp thực hiện các
hoạt động kinh doanh. Về phía
người tiêu dùng, kiểm soát
chuyển giá có thể ngăn chặn
được các hành vi thao túng,
độc quyền trên thị trường, từ
đó đảm bảo lợi ích cho người
tiêu dùng trong dài hạn. Về
phía Nhà nước, kiểm soát
chuyển giá là phương sách
hữu hiệu để đảm bảo tính hiệu
lực của quản lý nhà nước, góp
phần hoàn thiện hệ thống pháp
lý và tổ chức bộ máy của các
cơ quan nhà nước.
Trên cơ sở tổng quan nghiên
cứu, bài viết này phân tích,
tổng hợp để nhận diện các
nhân tố ảnh hưởng đến hiệu
lực của kiểm soát chuyển giá.
Nghiên cứu này là cơ sở cho
các nghiên cứu thực nghiệm
đánh giá mức độ ảnh hưởng,
cũng như thực trạng ảnh
hưởng của các nhân tố đến
hiệu lực của kiểm soát chuyển
giá, qua đó có các giải pháp
nhằm tăng cường hiệu lực
kiểm soát chuyển giá.
2. Nhận diện các nhân tố
ảnh hưởng đến hiệu lực
kiểm soát chuyển giá đối với
doanh nghiệp
Kiểm soát là quá trình mà
trong đó chủ thể kiểm soát
tác động lên khách thể kiểm
soát để thực hiện được các
mục tiêu đã định (Nguyễn Thị
Phương Hoa, 2006). Kiểm
soát cần được áp dụng phù
hợp với mối quan hệ giữa chủ
thể và khách thể kiểm soát
trong các hoàn cảnh và các
điều kiện khác nhau (Nguyễn
Quang Quynh, 2008). Chuyển
giá là hành vi của các chủ thể
kinh doanh trong các giao
dịch liên kết nhằm thay đổi
giá trị trao đổi của hàng hóa
và dịch vụ với mục đích tư
lợi. Kiểm soát chuyển giá là
hoàn toàn cần thiết vì hậu quả
của chuyển giá, về cơ bản, gây
ra nhiều tác động tiêu cực trên
phạm vi rộng, ảnh hưởng đến
lợi ích của nhiều bên và có tác
động xấu đối với nền kinh tế.
Kiểm soát chuyển giá của nhà
nước đối với doanh nghiệp-
dựa trên bản chất cơ bản của
kiểm soát là một quá trình mà
chủ thể kiểm soát là các cơ
quan có thẩm quyền của nhà
nước tác động lên khách thể
kiểm soát là các doanh nghiệp
trong các giao dịch liên kết
nhằm mục đích ngăn chặn và
loại trừ các ảnh hưởng tiêu
cực của chuyển giá đến nền
kinh tế. Là một quá trình nên
kiểm soát chuyển giá bao gồm
tập hợp nhiều hoạt động, từ
việc ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật đối với
chuyển giá cho đến việc thực
hiện giám sát, kiểm tra, thanh
tra, phát hiện các trường hợp
vi phạm pháp luật liên quan
đến chuyển giá đã được ban
hành, từ đó có biện pháp xử lý
phù hợp với các vi phạm trong
chuyển giá. Hiệu lực của kiểm
soát chuyển giá thể hiện ở
việc đạt được các mục tiêu mà
nhà nước mong muốn, trong
đó cơ bản là các mục tiêu như
tạo môi trường kinh doanh
công bằng, bình đẳng, minh
bạch, đảm bảo nguồn thu cho
ngân sách nhà nước và đảm
bảo luật pháp được thực thi
nghiêm minh.
Hiệu lực của kiểm soát chuyển
giá chịu ảnh hưởng bởi các
nhân tố liên quan đến chủ thể
thực hiện kiểm soát, khách
thể chịu sự kiểm soát trong
môi trường kiểm soát nhất
định. Chính vì vậy, các nhân
tố ảnh hưởng đến kiểm soát
chuyển giá bao gồm ba nhóm:
(i) Nhóm nhân tố thuộc về
chủ thể kiểm soát; (ii) nhóm
nhân tố thuộc về khách thể
kiểm soát và (iii) nhóm nhân
tố thuộc về môi trường kiểm
soát.
2.1. Nhóm nhân tố thuộc về
chủ thể kiểm soát
Chủ thể kiểm soát đối với
doanh nghiệp trong nền kinh
tế là các cơ quan có thẩm
quyền của Nhà nước được
phân công và chịu trách nhiệm
thực hiện các chức năng thanh
tra, kiểm tra đối với hoạt
động chuyển giá do các doanh
nghiệp thực hiện. Trong một
quốc gia, thông thường chủ
thể kiểm soát có thể là cơ
quan thuế, hải quan, cơ quan
thanh tra, kiểm toán nhà nước,
kiểm toán độc lập và các cơ
quan khác có liên quan như
các Bộ Khoa học công nghệ,
ngân hàng trung ương, Bộ Kế
hoạch đầu tư được Chính
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
27Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 196- Tháng 9. 2018
phủ phân công chức năng,
nhiệm vụ, trách nhiệm thuộc
về kiểm soát chuyển giá. Hiệu
lực của kiểm soát chuyển giá
phụ thuộc nhiều vào các nhân
tố phản ánh các kỳ vọng, yêu
cầu hoặc vai trò mà Chính phủ
tại từng nước xác lập đối với
chủ thể kiểm soát và năng lực
của chủ thể kiểm soát trong
tổ chức thực hiện kiểm soát
chuyển giá.
Yêu cầu đối với hoạt động
kiểm soát chuyển giá mà
Chính phủ từng quốc gia đặt
ra tạo thành:
(i) Áp lực đối với chủ thể
kiểm soát. Các yêu cầu có thể
khác nhau giữa các quốc gia,
tuy nhiên, một trong những
điểm chung nhất là kiểm soát
chuyển giá cần được thực hiện
do xuất phát từ quan điểm
và nhận thức của các nhà
lãnh đạo về sự cần thiết của
kiểm soát chuyển giá, hoặc từ
những hệ lụy mà hoạt động
chuyển giá gây ra làm thất thu
ngân sách nhà nước (NSNN)
khiến kiểm soát chuyển giá
phải thực hiện để truy thu số
tiền thuế mà doanh nghiệp
chiếm đoạt, hoặc do xu hướng
các doanh nghiệp lợi dụng các
kẽ hở của hệ thống luật pháp
để thực hiện hành vi chuyển
giá ngày càng tăng. Trước,
trong cuộc thanh tra, kiểm tra
hoạt động chuyển giá, chủ thể
kiểm soát chịu áp lực từ nhiều
nhân tố khác nhau. Cụ thể:
Nhân tố thời gian cho một
cuộc thanh, kiểm tra chuyển
giá (đối với cơ quan thuể là
thanh tra/kiểm tra, đối với
kiểm toán là kiểm tra/kiểm
toán): Doanh nghiệp chịu
sự tác động của hoạt động
chuyển giá từ nhiều bên như
cơ quan quản lý nhà nước (cơ
quan thuế) và tổ chức kiểm
tra độc lập (công ty kiểm toán
độc lập). Nguyễn Văn Phượng
(2015) và Nguyễn Đại Thắng
(2016) cho rằng các cơ quan
quản lý Nhà nước thường thực
hiện hoạt động kiểm tra, kiểm
soát chuyển giá trong khoảng
thời gian hạn hẹp. Kiểm soát
chuyển giá là hoạt động phức
tạp, nghiệp vụ chuyển giá
phát sinh không những giữa
các công ty nội bộ chuyển giá
với nhau, hoạt động chuyển
giá diễn ra ở nhiều quốc gia
và nhiều vùng lãnh thổ khác
nhau. Vì vậy, sức ép về thời
gian thanh tra, kiểm tra đối
với hành vi chuyển giá là thử
thách đối với cơ quan thuế và
công ty kiểm toán, khiến cho
chất lượng các cuộc thanh tra,
kiểm tra chuyển giá không
đảm bảo. Các gian lận hoặc
sai sót trong hoạt động chuyển
giá sẽ có cơ hội bị bỏ qua. Các
bằng chứng về chuyển giá do
cơ quan thuế thu thập có thể
không đủ về số lượng và đảm
bảo yêu cầu về tính thích hợp.
Nếu thời gian thanh tra, kiểm
tra chuyển giá được cho phép
dài hơn sẽ tạo điều kiện cho
cơ quan thuế thực hiện cuộc
thanh tra, kiểm tra kỹ hơn,
chất lượng tốt hơn. Nhờ vậy,
kết luận thanh tra, kiểm tra sẽ
đảm bảo tính hợp lý và xác
đáng.
Áp lực của nhà quản lý cấp
trên các cơ quan Nhà nước:
Quan điểm và triết lý điều
hành, tính chính trực và giá
trị đạo đức, sự am hiểu về
luật pháp và tinh thần tuân
thủ pháp luật của lãnh đạo
cấp trên có ảnh hưởng lớn
đến kiểm soát chuyển giá.
Nếu lãnh đạo cấp trên của các
cơ quan nhà nước (ví dụ như
người đứng đầu Chính phủ là
Thủ tướng Chính phủ) nhận
thức rõ những mối nguy và
hệ quả từ kiểm soát chuyển
giá tác động đối với nền kinh
tế, đối với sự cạnh tranh công
bằng của các doanh nghiệp
hoặc lợi ích của người tiêu
dùng, đối với sự thượng tôn
pháp luật và tính hiệu lực
trong quản lý nhà nước thì
các hoạt động chuyển giá sẽ
không có điều kiện thuận lợi
để phát triển. Áp lực của nhà
quản lý cấp trên đối với hoạt
động kiểm soát chuyển giá
được hiểu là việc nhà quản
lý đặt ra những yêu cầu khắt
khe, các mục tiêu nghiêm túc
nhằm ngăn chặn và giảm thiểu
các hành vi chuyển giá do các
doanh nghiệp thực hiện, từ đó
các cơ quan trong bộ máy nhà
nước như cơ quan thuế, cơ
quan hải quan, kiểm toán nhà
nước, thanh tra sẽ phải thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ
và trách nhiệm tương ứng và
nghiêm túc trong kiểm soát
chuyển giá. Chính vì vậy, áp
lực của nhà quản lý cấp trên
của các cơ quan nhà nước
được coi là nhân tố có ảnh
hưởng đến hoạt động kiểm
soát chuyển giá.
Áp lực từ việc giao chỉ tiêu
số tiền truy thu, truy hoàn
thuế từ doanh nghiệp: Thuế
là nguồn thu chủ yếu trong
ngân sách quốc gia. Việc cân
đối nguồn thu nhằm đảm bảo
các khoản chi là điều kiện tiên
quyết để các quốc gia kiểm
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
28 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 196- Tháng 9. 2018
soát tốt rủi ro thanh khoản
do bội chi ngân sách. Thuế là
khoản đóng góp bắt buộc cho
NSNN do luật pháp quy định
đối với các pháp nhân và thể
nhân nhằm đáp ứng nhu cầu
chi tiêu của Nhà nước. Ngân
sách bị thất thu là do Nhà
nước không thu được thuế
theo quy định của luật pháp và
theo các chỉ tiêu pháp lệnh đã
được thiết lập trong năm dự
toán. Bên cạnh những nguyên
nhân khách quan dẫn đến
nguồn thu sụt giảm, thì các
hành vi trốn hoặc tránh thuế
(trong đó có liên quan đến
chuyển giá) của những đơn
vị nộp thuế là nguyên nhân
chủ quan cơ bản dẫn đến thất
thu ngân sách. Nhu cầu tìm
kiếm các nguồn lực tài chính
để cân đối ngân sách quốc gia
được coi là áp lực lên các cơ
quan thuế để họ phải có những
chính sách và hành động thích
hợp nhằm thu được ngân sách
nhiều hơn. Chính vì vậy, việc
Nhà nước giao chỉ tiêu về số
tiền truy thu và truy hoàn thuế
từ các đơn vị nộp thuế cho
các cơ quan thuế có tác động
trực tiếp đến việc thanh, kiểm
tra hoạt động chuyển giá. Chỉ
tiêu truy thu và hoàn thuế
giao cho các cơ quan thuế có
tác động thuận chiều đến số
lượng và tính phức tạp của
các cuộc thanh, kiểm tra thuế.
Trong các cuộc thanh, kiểm
tra thuế liên quan đến các giao
dịch liên kết, việc thanh tra
hoạt động chuyển giá đã dần
được coi là nội dung thanh
tra cơ bản và trọng tâm mà
cơ quan thuế cần thực hiện.
Tại Romania, Cơ quan quản
lý ngân sách quốc gia (2011)
đã xác định tầm quan trọng
của việc thanh tra hoạt động
chuyển giá trong Chiến lược
của ngành thuế từ năm 2010
đến 2013. Theo đó, các cơ
quan thuế cần tập trung vào
ba vấn đề cơ bản: (1) Nhận
diện các đơn vị liên kết với
các doanh nghiệp nước ngoài
tại các địa phương có kết quả
kinh doanh lỗ; (2) rà soát các
tài liệu về chuyển giá do các
đơn vị nộp thuế báo cáo; (3)
xem xét giá giao dịch giữa các
bên liên kết có được xác định
theo nguyên tắc giá giao dịch
độc lập hay không.
Áp lực từ việc giao chỉ tiêu số
lượng doanh nghiệp có dấu
hiệu chuyển giá phải thanh tra
theo kế hoạch: Việc kiểm soát
giá chuyển giao cũng chịu áp
lực từ việc Nhà nước giao chỉ
tiêu số lượng các cuộc thanh,
kiểm tra và số lượng các
doanh nghiệp cần thanh tra
dấu hiệu chuyển giá. Vì vậy,
cán bộ thanh tra, kiểm tra chịu
áp lực từ các bên như lãnh đạo
cấp trên về số cuộc thanh tra
và số lượng doanh nghiệp phải
thanh tra theo kế hoạch được
giao. Chẳng hạn, tại Romania,
theo yêu cầu của Cơ quan
quản lý ngân sách quốc gia
(2011), mỗi cơ quan thuế địa
phương phải thực hiện ít nhất
một cuộc thanh tra chuyển giá
trong tháng. Kết quả là, chỉ
trong năm 2010, tổng số các
cuộc thanh tra chuyển giá cho
các cơ quan thuế tại Romania
thực hiện lên đến 150 cuộc.
Tổng giá trị điều chỉnh từ các
hoạt động chuyển giá bị thanh
tra khoảng 8,5 triệu Bảng,
trong đó, cuộc thanh tra có
giá trị điều chỉnh lớn nhất là 2
triệu Bảng. Chính vì vậy, việc
giao chỉ tiêu số cuộc thanh tra
và số lượng các doanh nghiệp
cần phải thanh tra dấu hiệu
chuyển giá có tác động thuận
chiều tới kiểm soát giá chuyển
giao.
(ii) Trình độ chuyên môn,
thâm niên công tác của
chủ thể kiểm soát: Trình độ
chuyên môn và thâm niên
công tác của chủ thể kiểm
soát là nhân tố quan trọng
tác động hoạt động kiểm soát
chuyển giá. Ngoài những yêu
cầu chung đặt ra với các cán
bộ thực hiện thanh, kiểm tra
(như có bằng tốt nghiệp đại
học phù hợp với chuyên môn
thuộc ngành, lĩnh vực công
tác; có chứng chỉ bồi dường
nghiệp vụ; có chứng chỉ ngoại
ngữ, sử dụng thành thạo
tin học văn phòng; có thâm
niên công tác) thì các cán bộ
thanh, kiểm tra cần có kiến
thức chuyên sâu về chuyển
giá trong các doanh nghiệp.
Sự am hiểu của chủ thể kiểm
soát về các hình thức chuyển
giá, các dấu hiệu chuyển giá
và phương pháp chuyển giá là
nền tảng kiến thức cơ bản hỗ
trợ để giúp các chủ thể kiểm
soát phát hiện hành vi chuyển
giá tại doanh nghiệp. Đội ngũ
chủ thể kiểm soát đòi hỏi phải
được đào tạo đúng chuyên
ngành về kế toán, kiểm toán,
thuế, và chủ động trong cập
nhật thường xuyên về nghiệp
vụ, cập nhật các thông tin thay
đổi trong chính sách thuế, đặc
biệt các hình thức, kỹ thuật,
phương pháp tinh vi chuyển
giá đa dạng và phức tạp giữa
các doanh nghiệp. Hoạt động
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
29Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 196- Tháng 9. 2018
chuyển giá thường được thực
hiện giữa các bên liên kết
thuộc các công ty đa quốc gia,
nên chủ thể kiểm soát cần am
hiểu rõ ràng về cách thức vận
hành và hoạt động của loại
hình công ty này. Hơn nữa,
chủ thể kiểm soát cần nắm
vững đặc điểm và thông lệ
phổ biến của từng ngành kinh
doanh để thực hiện những
kỹ thuật phân tích cần thiết
đối với hoạt động chuyển
giá (Tony Dong và cộng sự,
2017). Kinh nghiệm và thâm
niên công tác của các chủ thể
kiểm soát đóng vai trò quan
trọng trong việc phát hiện và
kiểm soát hành vi chuyển giá
trong doanh nghiệp (Nguyễn
Văn Phượng, 2015, Nguyễn
Đại Thắng, 2016).
Khả năng ứng dụng công
nghệ thông tin hiện đại cũng
là nhân tố quan trọng quyết
định đến tính hiệu quả của
hoạt động kiểm soát chuyển
giá. Công nghệ thông tin
luôn đóng vai trò quan trọng
trong nhiều lĩnh vực hoạt
động, trong đó bao gồm lĩnh
vực kiểm soát chuyển giá của
chủ thể kiểm soát. Mức độ
và thành thạo trong ứng dụng
công nghệ thông tin của chủ
thể kiểm soát trong thu thập
và xử lý dữ liệu của doanh
nghiệp giúp chủ thể kiểm soát,
đặc biệt cơ quan thuế và công
ty kiểm toán phát hiện sai
phạm trong hành vi chuyển
giá nhanh chóng và chính xác,
giảm áp lực công việc thanh
tra và kiểm tra của chủ thể
kiểm soát (Nguyễn Đại Thắng,
2016).
(iii) Phẩm chất đạo đức,
thái độ và tác phong chuyên
nghiệp của các cán bộ thanh,
kiểm tra hoạt động chuyển giá
cũng rất quan trọng, bên cạnh
trình độ chuyên môn và thâm
niên công tác.
Trong mọi lĩnh vực công tác,
đạo đức nghề nghiệp luôn
được đặt lên hàng đầu và
song hành cùng năng lực nghề
nghiệp. Kiểm soát chuyển
giá là lĩnh vực liên quan trực
tiếp tới lợi ích kinh tế của
nhiều doanh nghiệp thực
hiện chuyển giá (Nguyễn Đại
Thắng, 2016). Bên cạnh đó,
cán bộ thuế là cá nhân trực
tiếp và thay mặt Nhà nước
thực hiện kiểm soát hành vi
chuyển giá của doanh nghiệp.
Do đó, các doanh nghiệp có
thể chia sẻ lợi ích vật chất cho
cán bộ thuế hoặc thông đồng,
mua chuộc cán bộ thuế để che
dấu hành vi chuyển giá. Hoặc
đối với công ty kiểm toán,
phí kiểm toán và các lợi ích
vật chất mà công ty kiểm toán
thu được từ khách thể kiểm
toán chi trả là lớn khi che dấu
hành vi chuyển giá bất hợp
pháp của doanh nghiệp. Do
đó, phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp kết hợp với ý thức tuân
thủ luật pháp và tập trung cao
độ vào thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ của chủ thể
kiểm soát cũng là nhân tố cần
xem xét và có vai trò quan
trọng tác động đến kiểm soát
chuyển giá đối với doanh
nghiệp.
Thái độ thận trọng của các
cán bộ thực hiện nhiệm vụ
thanh, kiểm tra hoạt động
chuyển giá có tác động tích
cực đến kiểm soát chuyển
giá và là điều kiện đảm bảo
tính hữu hiệu của hoạt động
kiểm soát chuyển giá. Theo
M. Peppitt (2009), người thực
hiện nhiệm vụ thanh tra cần
thận trọng với các dấu hiệu có
rủi ro chuyển giá ở mức tối
thiểu nhất như: (i) Nhận diện
loại hình giao dịch giữa các
bên liên kết (các khoản thanh
toán nợ vay và lãi vay nội bộ;
các khoản vay của một bên
được bảo lãnh bởi bên thứ ba;
các giao dịch nội bộ; các chi
phí nội bộ liên quan đến phí
quản lý, kỹ thuật, bán hàng và
marketing; và các khoản chi
phí phải trả liên quan đến việc
sử dụng tài sản vô hình hoặc
tài sản trí tuệ như nhãn hiệu,
bản quyền hoặc bí quyết,);
(ii) xác định các chỉ tiêu thể
hiện quy mô của các giao dịch
liên kết trong khoảng thời
gian từ một đến ba năm và bất
cứ dấu hiệu nào liên quan đến
sự thay đổi về quy mô giao
dịch; Việc lập kế hoạch hợp
lý, sắp xếp công việc thanh
tra, kiểm tra khoa học cũng là
yếu tố thể hiện năng lực nghề
nghiệp và tác phong chuyên
nghiệp của cán bộ thanh kiểm
tra, góp phần quan trọng đối
với sự thành công của kiểm
soát chuyển giá.
(iv) Tổ chức bộ máy kiểm
soát Nhà nước- Cơ quan
Thuế- đóng vai trò quan
trọng và then chốt trong việc
thực hiện quyền hạn và trách
nhiệm trong phát hiện hành
vi chuyển giá giữa các doanh
nghiệp. Tổ chức bộ máy của
chủ thể kiểm soát đối với
hoạt động chuyển giá là việc
phân công trách nhiệm và
quyền hạn giữa các bộ phận
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
30 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 196- Tháng 9. 2018
trong từng bước công việc
trong việc xác định hành vi
chuyển giá tại doanh nghiệp,
cũng như sự kết hợp giữa các
bộ phận khác hỗ trợ cho bộ
phận chịu trách nhiệm kiểm