Nghiên cứu dùng mẫu c NHTMCP, NHTMNN, NHLD) với phương pháp nghiên cứu định lượng trong giai đoạn 2006-2011. Qua phân tích thống kê, tương ủa 37 ngân hàng thương mại VN (Gồm
quan và hồi quy dữ liệu bảng không cân xứng với hiệu ứng Fixed Effect,
nghiên cứu đã tìm thấy sự tác động của một số yếu tố đến khả năng thanh
khoản của các ngân hàng thương mại tại VN. Cụ thể là, “Tỷ lệ vốn chủ sở
hữu”, “Tỷ lệ nợ xấu” và “Tỷ lệ lợi nhuận” có mối tương quan thuận; ngược
lại, “Tỷ lệ cho vay trên huy động” có mối tương quan nghịch với khả năng
thanh khoản của các ngân hàng thương mại VN. Tuy nhiên, nghiên cứu này
không tìm thấy ảnh hưởng của “Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng”, “Quy mô
ngân hàng” đối với khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại
VN
18 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 547 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 23 (33) - Tháng 07-08/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
32
1. Sự cần thiết nghiên cứu
Cuộc khủng hoảng từ việc cho
vay dưới chuẩn của Mỹ xảy ra vào
tháng 8 năm 2007 đã nhấn chìm
toàn bộ nền kinh tế Mỹ cũng như
hệ thống tài chính toàn cầu. Ủy
ban Basel về giám sát ngân hàng
(BCBS 2004) chỉ ra rằng một trong
những nguyên nhân gốc rễ của
cuộc khủng hoảng là vấn đề thanh
khoản, đã phần lớn bị bỏ qua trong
quá khứ. Cuộc khủng hoảng chỉ ra
rằng những ngân hàng dựa nhiều
vào thị trường tiền tệ ngắn hạn tài
trợ cho các tài sản hoạt động của họ
có xu hướng bị vấn đề thanh khoản
rất lớn.
Từ cuộc khủng hoảng trên, đa
số các ngân hàng thương mại đã
quan tâm đến vấn đề thanh khoản
vì nó chính là vấn đề sống còn của
các ngân hàng trong thời kỳ hiện
đến sự đổ vỡ của toàn hệ thống.
Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề
thanh khoản trong hệ thống ngân
hàng là vô cùng cần thiết, nếu
các ngân hàng có khả năng thanh
khoản tốt thì không những có thể
giúp cho thị trường tài chính ổn
định mà nền kinh tế đất nước sẽ
vận hành tốt. Đặc biệt, trong điều
kiện của VN hiện nay, những vấn
đề về thanh khoản đang được quan
tâm hàng đầu và thường được đưa
ra từ đầu năm để trong năm đó có
thể quản lý tốt. Xuất phát từ những
lý do trên, tác giả đã chọn đề tài
“Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh
khoản của các ngân hàng thương
mại VN” để nghiên cứu.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Những vấn đề cơ bản về
thanh khoản ngân hàng
a. Thanh khoản và rủi ro thanh
nay. Ở VN, hơn hai thập kỷ qua, kể
từ khi hệ thống ngân hàng VN thực
hiện quá trình cải cách các ngân
hàng thương mại (NHTM) đã có
bước phát triển mới cả về lượng
và chất, nhưng vấn đề rủi ro thanh
khoản dường như chưa được quan
tâm đúng mức. Một trong những
nhiệm vụ quan trọng mà các nhà
quản lý ngân hàng cần thực hiện
là đảm bảo khả năng thanh khoản
hợp lý cho ngân hàng. Ngân hàng
có khả năng thanh khoản tốt, hay
nói cách khác là ngân hàng không
gặp rủi ro thanh khoản khi luôn có
được nguồn vốn khả dụng với chi
phí hợp lý vào đúng thời điểm mà
ngân hàng cần. Điều này có nghĩa
nếu ngân hàng không có đủ nguồn
vốn cần thiết để đáp ứng mọi nhu
cầu của thị trường sẽ có thể mất khả
năng thanh toán, mất uy tín và dẫn
Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản
của các ngân hàng thương mại Việt Nam
VŨ THỊ HỒNG
Trường Cao đẳng nghề GTVT Đường thủy II
Nghiên cứu dùng mẫu của 37 ngân hàng thương mại VN (Gồm NHTMCP, NHTMNN, NHLD) với phương pháp nghiên cứu định lượng trong giai đoạn 2006-2011. Qua phân tích thống kê, tương
quan và hồi quy dữ liệu bảng không cân xứng với hiệu ứng Fixed Effect,
nghiên cứu đã tìm thấy sự tác động của một số yếu tố đến khả năng thanh
khoản của các ngân hàng thương mại tại VN. Cụ thể là, “Tỷ lệ vốn chủ sở
hữu”, “Tỷ lệ nợ xấu” và “Tỷ lệ lợi nhuận” có mối tương quan thuận; ngược
lại, “Tỷ lệ cho vay trên huy động” có mối tương quan nghịch với khả năng
thanh khoản của các ngân hàng thương mại VN. Tuy nhiên, nghiên cứu này
không tìm thấy ảnh hưởng của “Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng”, “Quy mô
ngân hàng” đối với khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại
VN.
Từ khóa: Ngân hàng thương mại VN, khả năng thanh khoản, thanh
khoản, chính sách quản lý.
Số 23 (33) - Tháng 07-08/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP
Nghiên Cứu & Trao Đổi
33
khoản
Ủy ban Basel về giám sát
ngân hàng cho rằng: “Thanh
khoản là một thuật ngữ chuyên
ngành nói về khả năng đáp ứng
các nhu cầu về sử dụng vốn khả
dụng phục vụ cho hoạt động kinh
doanh tại mọi thời điểm như chi
trả tiền gửi, cho vay, thanh toán,
giao dịch vốn...”
Theo Duttweiler (2009), có
hai khía cạnh khác nhau về thanh
khoản cần phải đặc biệt quan
tâm, đó là thanh khoản tự nhiên
và thanh khoản nhân tạo. Trong
đó, thanh khoản tự nhiên nghĩa là
các dòng lưu chuyển xuất phát từ
tài sản hoặc nợ nhưng có thời gian
đáo hạn theo luật định. Trong lĩnh
vực ngân hàng, khi một giao dịch
với khách hàng thường được tái
tục, có thể với cùng số tiền hoặc
với số tiền nhỏ hơn/lớn hơn thì
nhìn chung nhóm khách hàng
này thường hành động gần như
theo cách có thể dự đoán được.
Điều này không chỉ đúng với
các tài sản mà còn đúng với các
khoản nợ. Còn thanh khoản nhân
tạo lại được tạo ra thông qua
khả năng chuyển tài sản thành
tiền mặt trước ngày đáo hạn. Ở
đây có thể thấy hầu như lúc nào
cũng có thể dễ dàng chuyển một
chứng khoán cụ thể thành tiền
mặt, đặc biệt nếu vẫn còn công ty
nào muốn chuyển chứng khoán
thành tiền mặt thì thị trường vẫn
còn khả năng chấp nhận các giao
dịch.
Từ trước đến nay đã có nhiều
khái niệm khác nhau về rủi ro
thanh khoản. Nhưng rủi ro thanh
khoản có thể được hiểu là rủi ro
khi NHTM không có khả năng
thanh toán tại một thời điểm
nào đó, hoặc phải huy động các
nguồn vốn với chi phí cao để đáp
ứng nhu cầu thanh toán; hoặc do
các nguyên nhân chủ quan khác
làm mất khả năng thanh toán
của NHTM, theo đó nó sẽ kéo
theo những hậu quả không mong
muốn. (Duttweiler, 2009)
b. Nguyên nhân gây ra rủi ro
thanh khoản
Nhiều nghiên cứu đã tương
đối thống nhất khi chỉ ra rằng rủi
ro thanh khoản có thể đến từ bên
tài sản nợ hoặc tài sản có, hoặc từ
hoạt động ngoại bảng của bảng cân
đối tài sản của NHTM (Valla và
Escorbiac, 2006).
Bên cạnh đó, theo Nguyễn Văn
Tiến (2010), có ba nguyên nhân
tiền đề khiến cho ngân hàng phải
đối mặt với rủi ro thanh khoản
thường xuyên là:
“Thứ nhất, ngân hàng huy động
và đi vay vốn thời gian ngắn, sau
đó cứ tuần hoàn chúng để cho vay
thời gian dài hơn. Do đó nhiều ngân
hàng phải đối mặt với sự không
trùng khớp về kỳ hạn đến hạn giữa
tài sản có và tài sản nợ.”
“Thứ hai, sự nhạy cảm của tài
sản tài chính với thay đổi lãi suất.
Khi lãi suất tăng, nhiều người
gửi tiền sẽ rút tiền ra tìm kiếm
nơi gửi khác có mức lãi suất cao
hơn. Những người có nhu cầu tín
dụng sẽ hoãn lại, hoặc rút hết số
dư hạn mức tín dụng với lãi suất
thấp đã thỏa thuận. Như vậy, thay
đổi lãi suất ảnh hưởng đồng thời
đến luồng tiền gửi cũng như luồng
tiền vay, và cuối cùng là đến thanh
khoản của ngân hàng.”
“Thứ ba, ngân hàng luôn phải
đáp ứng nhu cầu thanh khoản một
cách hoàn hảo. Những trục trặc về
thanh khoản sẽ làm xói mòn niềm
tin của dân chúng vào ngân hàng.”
c. Đo lường khả năng thanh
khoản
Nghiên cứu về tính thanh khoản
rất quan trọng đối với thị trường tài
chính và các ngân hàng, đặc biệt là
từ sau khủng hoảng kinh tế 2008.
Theo Aspachs (2005) và Nikolau
(2009), tính thanh khoản không
đơn giản phụ thuộc vào các yếu
tố khách quan bên ngoài (chẳng
hạn như thị trường hiệu quả, cơ
sở hạ tầng, chi phí giao dịch thấp,
số lượng lớn người mua và người
bán, đặc tính minh bạch của tài sản
giao dịch) mà điều quan trọng là
nó ảnh hưởng bởi yếu tố bên trong,
đặc biệt là các phản ứng của người
tham gia thị trường khi đối mặt với
sự không chắc chắn và thay đổi giá
trị tài sản. Cho tới nay nghiên cứu
của một số tác giả như Aspachs &
cộng sự (2005), Rychtárik (2009),
Praet và Herzberg (2008) đã tập
trung vào 4 tỷ số thanh khoản như
sau:
L1 = Tài sản thanh khoản/ Tổng
tài sản
Tỷ số này cung cấp một thông
tin chung về khả năng thanh khoản
của ngân hàng. Tức là trong tổng
tài sản của ngân hàng tỷ trọng tài
sản thanh khoản là bao nhiêu. Tỷ
số này cao tức là khả năng thanh
khoản của ngân hàng rất tốt.
L
2
= Tài sản thanh khoản / (Tiền
gửi + Vốn huy động ngắn hạn)
Tỷ số thanh khoản L
2
sử dụng
tài sản thanh khoản để đo lường
khả năng thanh khoản là rất tốt.
Tuy nhiên, tỷ lệ này là tập trung
vào mức độ nhạy cảm của ngân
hàng khi lựa chọn các loại kinh phí
(bao gồm tiền gửi của các hộ gia
đình, doanh nghiệp và các tổ chức
tài chính khác). Tỷ số này cũng
giống L
1
, tức là tỷ số này cao cũng
thể hiện thanh khoản của ngân
hàng là tốt.
L
3
= Khoản cho vay / Tổng tài
sản
Tỷ số này cho biết có bao nhiêu
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 23 (33) - Tháng 07-08/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
34
phần trăm khoản cho vay trên tổng
tài sản ngân hàng. Do đó tỷ lệ này
cao tức là khả năng thanh khoản
của ngân hàng yếu.
L
4
= Khoản cho vay/ (Tiền gửi
+ Nguồn vốn ngắn hạn)
Tỷ số này cũng giống L
3
, tức là
nếu cao thì khả năng thanh khoản
của ngân hàng yếu.
Các tỷ số này tương ứng với
nhiều nghiên cứu khác nhau sẽ sử
dụng làm biến phụ thuộc để xem
xét các yếu tố ảnh hưởng đến khả
năng thanh khoản của các ngân
hàng thương mại.
d. Dự trữ thanh khoản
Theo Duttweiler (2009), để duy
trì khả năng thanh toán, một mặt
ngân hàng thương mại phải đảm
bảo toàn bộ giá trị tài sản có phải
lớn hơn các khoản nợ ở mọi thời
điểm. Nếu trong kinh doanh vốn
cho vay không có khả năng thu
hồi và lỗ trong nghiệp vụ chứng
khoán sẽ làm cho giá trị tài sản có
xuống thấp hơn tài sản nợ và như
vậy sẽ dẫn đến ngân hàng mất khả
năng thanh toán, có thể phải đóng
cửa hoặc phải bán tài sản cho ngân
hàng khác.
Trong các nguồn dự trữ để đảm
bảo khả năng thanh khoản cho các
ngân hàng có hai nguồn quan trọng
mà các nhà quản lý trong ngân
hàng phải đặc biệt quan tâm, đó là:
Nguồn dự trữ sơ cấp và nguồn dự
trữ thứ cấp. (Duttweiler, 2009)
Dự trữ sơ cấp là các khoản
mục về ngân quỹ tiền mặt, tiền gửi
ở Ngân hàng Trung ương, tiền gửi
các ngân hàng khác. Các khoản
dự trữ này được sử dụng để dự
trữ theo quy định của Ngân hàng
Trung ương và đáp ứng nhu cầu bất
thường về tiền mặt cho khách hàng
hoặc để thực hiện các khoản thanh
toán cho ngân hàng khác trong việc
thanh toán giữa các ngân hàng.
Dự trữ thứ cấp bao gồm các loại
chứng khoán có khả năng chuyển
thành tiền dễ dàng như: Trái phiếu
kho bạc, giấy chấp nhận trả tiền
của ngân hàng...Dự trữ thứ cấp
được dùng để hỗ trợ cho dự trữ sơ
cấp về các nhu cầu rút tiền, thanh
toán giữa các ngân hàng và vay
mượn của khách hàng đã được dự
kiến trước.
e. Các lý thuyết về đo lường
thanh khoản và các yếu tố ảnh
hưởng đến thanh khoản của các
NHTM.
Các lý thuyết về đo lường thanh
khoản:
Trước đây, người ta thường
sử dụng các tỷ lệ thanh khoản để
đưa ra các biện pháp quản lý rủi ro
thanh khoản tốt hơn. Tỷ lệ mà các
nghiên cứu trước đây sử dụng bao
gồm tỷ lệ tài sản thanh khoản/tổng
tài sản (ví dụ như Aspachs & cộng
sự (2005), Rychtárik (2009), Praet
và Herzberg (2008); Demirgüç-
Kunt & cộng sự năm 2003), Tỷ
lệ tài sản thanh khoản/tiền gửi
khách hàng (Aspachs & cộng sự
năm 2005; Rychtárik năm 2009;
Praet and Herzberg năm 2008), Tỷ
lệ tài sản thanh khoản/Tổng huy
động ngắn hạn (Indriani, 2004).
Nếu các tỷ lệ thanh khoản này cao
chứng tỏ ngân hàng hoạt động có
hiệu quả và ít rủi ro hơn. Bên cạnh
đó, một số nghiên cứu sử dụng
tỷ lệ vốn vay/tổng tài sản (ví dụ
như Demirgüç-Kunt và Huizinga
năm 1999; Athanasoglou & cộng
sự, 2006.), tỷ lệ cho vay ròng với
khách hàng/tài trợ ngắn hạn (ví dụ
như Pasiouras và Kosmidou, 2007;
Naceur và Kandil, 2009) để đánh
giá rủi ro thanh khoản của ngân
hàng. Nếu các tỷ số này cao có thể
dẫn đến rủi ro thanh khoản của các
ngân hàng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả
năng thanh khoản:
Từ lúc thanh khoản trở thành
vấn đề đáng được quan tâm của
các ngân hàng thương mại thì đã
có rất nhiều lý luận, nhiều tác giả
đề cập đến những yếu tố có thể ảnh
hưởng đến khả năng thanh khoản.
Tuy nhiên, những nghiên cứu cho
kết quả đáng tin cậy nhất đa số
tập trung vào các nghiên cứu về
ngân hàng ở châu Âu và Bắc Mỹ.
Những nghiên cứu trên tập trung
vào hai nhóm yếu tố chính có thể
ảnh hưởng đến khả năng thanh
khoản của các ngân hàng thương
mại:
Nhóm thứ nhất là những yếu tố
nội tại của chính bản thân các ngân
hàng đó như: lợi nhuận, vốn chủ sở
hữu, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ cho vay trên
huy động, quy mô ngân hàng, tỷ lệ
dự phòng rủi ro tín dụng...
Nhóm thứ hai đề cập đến các
yếu tố vĩ mô như: tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm
phát, lãi suất cho vay, lãi suất cơ
bản của NHTW, lãi suất bình quân
liên ngân hàng...
Tuy nhiên, nghiên cứu này
chỉ tập trung vào các yếu tố nội
tại, chưa đi sâu vào phân tích ảnh
hưởng của các yếu tố vĩ mô đến
khả năng thanh khoản của các
ngân hàng.
2.2. Các nguyên tắc của Basel về
quản lý thanh khoản trong ngân
hàng
Ủy ban Basel về giám sát ngân
hàng là một diễn đàn cho sự hợp
tác thường xuyên về các vấn đề
liên quan đến giám sát hoạt động
ngân hàng. Mục tiêu của Ủy ban
là hiểu rõ hơn về các vấn đề mấu
chốt trong việc giám sát hoạt động
ngân hàng và nâng cao chất lượng
giám sát hoạt động ngân hàng trên
toàn cầu.
Trong các công việc về giám
Số 23 (33) - Tháng 07-08/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP
Nghiên Cứu & Trao Đổi
35
sát khả năng thanh khoản, Ủy ban
Basel đã nỗ lực mở rộng cách hiểu
về cách thức một ngân hàng quản
lý khả năng thanh khoản của mình
ở phạm vi toàn cầu trên cơ sở bù trừ
các giao dịch trong nội bộ. Những
tiến bộ gần đây về phương diện tài
chính và công nghệ đã cung cấp
cho các ngân hàng những phương
pháp mới để cấp vốn cho các hoạt
động của mình và quản lý khả năng
thanh khoản.
Vì vậy, Ủy ban Basel đã đưa
ra một số nguyên tắc cơ bản nhằm
đánh giá công tác quản lý thanh
khoản trong ngân hàng như sau:
(Ngân hàng thanh toán quốc tế,
2009)
Nguyên tắc 1: Mỗi ngân hàng
cần thống nhất về một chiến lược
quản lý khả năng thanh khoản hàng
ngày. Chiến lược này cần được
truyền đạt trong toàn ngân hàng.
Nguyên tắc 2: Hội đồng quản trị
của một ngân hàng phải là cơ quan
kiểm duyệt chiến lược và các chính
sách cơ bản liên quan đến quản lý
khả năng thanh khoản của ngân
hàng. Hội đồng quản trị cũng cần
đảm bảo là các cán bộ quản lý cao
cấp của ngân hàng thực hiện những
biện pháp cần thiết để theo dõi và
kiểm soát rủi ro thanh khoản.
Nguyên tắc 3: Mỗi ngân hàng
cần có một cơ cấu quản lý để thực
hiện có hiệu quả chiến lược về khả
năng thanh khoản. Cơ cấu này cần
bao gồm sự tham gia thường xuyên
của các thành viên thuộc nhóm cán
bộ quản lý cao cấp.
Nguyên tắc 4: Một ngân hàng
cần có hệ thống thông tin đầy đủ
cho việc đo lường, theo dõi, kiểm
soát và báo cáo rủi ro thanh khoản.
Các báo cáo cần được cung cấp kịp
thời cho hội đồng quản trị của ngân
hàng, các cán bộ quản lý cao cấp và
các cán bộ có thẩm quyền khác.
Nguyên tắc 5: Mỗi ngân hàng
cần xây dựng một quy trình cho
việc theo dõi và đo lường liên tục
các yêu cầu cấp vốn ròng.
Nguyên tắc 6: Các ngân hàng
cần phân tích khả năng thanh
khoản sử dụng nhiều tình huống
dạng “nếu thì”.
Nguyên tắc 7: Các ngân hàng
cần xem xét một cách thường
xuyên những giả thiết được sử
dụng trong việc quản lý khả năng
thanh khoản để xác định xem giả
thiết đó còn giá trị hay không.
Nguyên tắc 8: Mỗi ngân hàng
cần xem xét định kỳ các nỗ lực của
mình trong việc xây dựng và duy
trì quan hệ với những người nắm
giữ tài sản nợ, để đa dạng hoá các
tài sản nợ và đảm bảo khả năng bán
được các tài sản có của mình.
Nguyên tắc 9: Các ngân hàng
cần có kế hoạch dự phòng bao
gồm chiến lược xử lý các vấn đề về
khả năng thanh khoản và quy trình
xử lý sự suy giảm luồng tiền trong
những tình huống khẩn cấp.
Nguyên tắc 10: Mỗi ngân hàng
cần có một hệ thống đo lường, theo
dõi và kiểm soát khả năng thanh
khoản đối với các ngoại tệ mạnh
mà ngân hàng có hoạt động. Ngoài
việc đánh giá tính thanh khoản
chung cho tất cả các ngoại tệ và
những chênh lệch (mismatch) có
thể chấp nhận được kết hợp với các
cam kết về nội tệ, các ngân hàng
cũng cần phân tích riêng rẽ chiến
lược của mình đối với từng đồng
tiền.
Nguyên tắc 11: Dựa trên những
phân tích được thực hiện theo
nguyên tắc 10, khi cần thiết các
ngân hàng cần xác định và xem xét
thường xuyên trong một khoảng
thời gian nhất định các giới hạn
về quy mô của sự chênh lệch dòng
tiền đối với toàn bộ các ngoại tệ và
với từng ngoại tệ riêng lẻ mà ngân
hàng có hoạt động.
Nguyên tắc 12: Mỗi ngân hàng
cần có một hệ thống kiểm soát nội
bộ phù hợp cho quy trình quản lý
rủi ro về khả năng thanh khoản.
Một thành phần cơ sở của hệ thống
kiểm soát nội bộ là việc đánh giá
và xem xét một cách độc lập tính
hiệu quả của hệ thống và đảm bảo
là việc kiểm soát nội bộ được tăng
cường hoặc chỉnh sửa khi cần thiết.
Kết quả của những đánh giá này
cần được cung cấp cho các cơ quan
giám sát.
Nguyên tắc 13: Mỗi ngân hàng
cần có một cơ chế đảm bảo một
mức độ hợp lý về việc công khai
thông tin về ngân hàng để đảm bảo
uy tín của ngân hàng trong con mắt
công chúng.
Nguyên tắc 14: Các cơ quan
giám sát cần thực hiện việc đánh
giá các chiến lược, chính sách của
ngân hàng có liên quan đến công tác
quản lý khả năng thanh khoản một
cách độc lập. Các cơ quan giám sát
cần yêu cầu các ngân hàng phải có
một hệ thống hiệu quả để đo lường,
theo dõi và kiểm soát rủi ro thanh
khoản. Các cơ quan giám sát cũng
cần được cung cấp các thông tin từ
các ngân hàng một cách đầy đủ và
kịp thời để đánh giá mức độ rủi ro
tín dụng và đảm bảo là ngân hàng
có các kế hoạch dự phòng về khả
năng thanh khoản đầy đủ.
2.3. Một số nghiên cứu trước
đây
Khởi đầu bằng nghiên cứu của
Aspachs & cộng sự (2005). Nghiên
cứu này cung cấp một cái nhìn toàn
diện về những yếu tố quyết định
chính sách thanh khoản của các
ngân hàng ở Anh. Bên cạnh đó, nó
còn đi sâu tìm hiểu về mối quan
hệ giữa những chính sách kinh tế
vĩ mô, đặc biệt là chính sách của
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 23 (33) - Tháng 07-08/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
36
Ngân hàng Trung ương và chu kỳ
kinh tế có tác động như thế nào
đến một mức hỗ trợ thanh khoản
(Liquydity Buffer). Chắc chắn rằng
Ngân hàng Trung ương sẽ đóng vai
trò vô cùng quan trọng để duy trì
khả năng thanh khoản, họ có thể
cung cấp một sự hỗ trợ vốn trong
trường hợp ngân hàng thương mại
bị khủng hoảng thanh khoản với
tư cách người cho vay cuối cùng
(LOLR). Nghiên cứu này sử dụng
dữ liệu từ bảng cân đối kế toán và
báo cáo thu nhập trên cơ sở hàng
quý, trong giai đoạn 1985 - 2003.
Tiếp đó, vào năm 2006, Valla
và Escorbiac cũng đưa ra kết quả
nghiên cứu của họ. Tuy nhiên,
nghiên cứu này về bản chất cũng
tập trung vào một số yếu tố nội tại
và vĩ mô ảnh hưởng đến khả năng
thanh khoản của các ngân hàng ở
Anh như nghiên cứu của các tác
giả Aspachs & cộng sự (2005).
Nghiên cứu này cho rằng các
yếu tố quyết định thanh khoản ngân
hàng cụ thể và yếu tố kinh tế vĩ mô
của tính thanh khoản của các ngân
hàng Anh. Họ giả định rằng tỷ lệ
thanh khoản phụ thuộc vào các yếu
tố sau: Xác suất có được sự hỗ trợ
từ cho vay cuối cùng, tăng trưởng
cho vay, tăng trưởng tổng sản phẩm
quốc nội, lãi suất ngắn hạn; và lợi
nhuận ngân hàng có tương quan âm
với khả năng thanh khoản. Ngược
lại, quy mô ngân hàng có thể tương
quan âm hoặc dương với khả năng
thanh khoản
Trái lại với nghiên cứu của
Aspachs & cộng sự (2005), nghiên
cứu của Lucchetta (2007) lại không
đi sâu vào những hỗ trợ vốn từ
ngân hàng trung ương hay những
chính sách kinh tế vĩ mô mà nó
quan tâm đến mối quan hệ giữa các
ngân hàng với nhau trên thị trường
liên ngân hàng.
Nghiên cứu này đề cập đến
quá trình cho vay liên ngân hàng
để đáp ứng với