Mục tiêu: khảo sát các yếu tố tiên lượng khả năng lấy u sọ hầu qua đường mổ dưới trán hai bên. Phương pháp: nghiên cứu tiền cứu 10 trường hợp u sọ hầu, được phẫu thuật bởi cùng một phẫu thuật viên trong thời gian từ tháng 1/2011 đến tháng 1/2012 tại khoa ngoại thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy. Kết quả: Độ tuổi trung bình là 23,5 ± 5,5 tuổi, nam chiếm 60%, nữ chiếm 40%. Hầu hết bệnh nhân nhập viện vì triệu chứng đau đầu và mờ mắt chiếm đến 80%. Kích thước u trung bình là 2,8 ± 0,65 cm, thay đổi từ 2 đến 4 cm. 100% u có dạng hỗn hợp, có vôi hóa trong u. Mức độ vôi hóa càng nhiều thì khả năng lấy u càng giảm (p<0,05). 100% u trên yên. U trước giao thoa: 40%, sau giao thoa: 60%. Không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa mức độ lấy u và tương quan của u với giao thoa thị (p > 0,05). Kết luận: Mức độ vôi hóa trong u là yếu tố tiên lượng khả năng lấy u. Do hạn chế về mẫu nghiên cứu tương đối nhỏ nên không đủ mạnh để tìm thấy mối tương quan giữa kích thước u cũng như tương quan giữa vị trí u so với giao thoa và khả năng lấy u
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 245 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố tiên lượng lấy u trong phẫu thuật u sọ hầu qua đường mổ dưới trán hai bên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 190
CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG LẤY U TRONG PHẪU THUẬT
U SỌ HẦU QUA ĐƯỜNG MỔ DƯỚI TRÁN HAI BÊN
Nguyễn Minh Anh*, Nguyễn Phong**, Đỗ Hồng Hải***, Mai Hoàng Vũ***
TÓM TẮT
Mục tiêu: khảo sát các yếu tố tiên lượng khả năng lấy u sọ hầu qua đường mổ dưới trán hai bên.
Phương pháp: nghiên cứu tiền cứu 10 trường hợp u sọ hầu, được phẫu thuật bởi cùng một phẫu thuật
viên trong thời gian từ tháng 1/2011 đến tháng 1/2012 tại khoa ngoại thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy.
Kết quả: Độ tuổi trung bình là 23,5 ± 5,5 tuổi, nam chiếm 60%, nữ chiếm 40%. Hầu hết bệnh nhân nhập
viện vì triệu chứng đau đầu và mờ mắt chiếm đến 80%. Kích thước u trung bình là 2,8 ± 0,65 cm, thay đổi từ 2
đến 4 cm. 100% u có dạng hỗn hợp, có vôi hóa trong u. Mức độ vôi hóa càng nhiều thì khả năng lấy u càng giảm
(p<0,05). 100% u trên yên. U trước giao thoa: 40%, sau giao thoa: 60%. Không khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa mức độ lấy u và tương quan của u với giao thoa thị (p > 0,05).
Kết luận: Mức độ vôi hóa trong u là yếu tố tiên lượng khả năng lấy u. Do hạn chế về mẫu nghiên cứu
tương đối nhỏ nên không đủ mạnh để tìm thấy mối tương quan giữa kích thước u cũng như tương quan giữa vị
trí u so với giao thoa và khả năng lấy u
Từ khóa: Đường mổ dưới trán hai bên, u sọ hầu.
ABSTRACT
FACTORS AFFECT THE EXTENT OF TUMOR REMOVAL OF CRANIOPHARYNGIOMA VIA
BILATERL SUBFRONTAL APPROACH
Nguyen Minh Anh, Nguyen Phong, Do Hong Hai, Mai Hoang Vu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 190 - 195
Objectives: to identify some factors affect the extent of tumor removal of craniopharyngioma via bilateral
subfrontal approach.
Methods: prospective of 10 patients with craniopharyngioma from 1/2011 to 1/2012 at neurosurgery
department of Cho Ray hospital. All of them were operated by one surgeon.
Results: average age was 23.5 ± 5.5 years, male was 60%, female was 40%. The most common signs and
symtoms were headache and impairment of visual acuity. Mean diameter of tumor was 2.8 ± 0.65 cm, ranging
from 2 to 4 cm. 100% tumors had solid and cystic component. The extent of calcification affects the extent of
tumor removal (p<0.05). 100% tumors wre suprasellar. Prechiasmatic comprises 40%, post chiasmatic tumor:
60%. We found no different between pre- and postchiasmatic in the extent of tumor removal (p>0.05).
Conclusion: The extent of calcification is the predict factor of the extent of tumor removal. Because of the
small sample, we found no differnt in both size and tumor position and the extent of tumor resection.
Key word: craniopharyngioma, bilateral subfrontal approach.
*Khoa ngoại thần kinh bệnh viện Đại học y dược cơ sở 1, **Khoa ngoại thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy
***Bộ môn ngoại thần kinh trường Đại học y dươc Tp HCM
Tác giả liên lạc: ThS BS Nguyễn Phong Email: drnguyenphong@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 191
MỞ ĐẦU
U sọ hầu là u lành tính, phát triển từ phần
sót lại củ túi Rathke hay ống sọ hầu, chiếm
khoảng 5% các u nội sọ và 5 -10% các u nội sọ ở
trẻ em. U tập trung chủ yếu ở hai đỉnh tuổi,
đỉnh thứ nhất từ 5 - 14 tuổi, đỉnh thứ hai từ 50
đến 74 tuổi. U được phân thành dạng đặc, dạng
nang hay hỗn hợp đặc và nang, tuy nhiên u
dạng nang hay hỗn hợp chiếm đến 90% các
trường hợp. U cũng thường có vôi hóa. Bệnh
nhân thường hay nhập viện vì triệu chứng tăng
áp lực nội sọ (đau đầu, buồn nôn hay nôn),
giảm thị lực hay rối loạn nội tiết (đái tháo nhạt,
vô kinh, chậm dậy thì...)(1)
U sọ hầu là thương tổn lành tính, do đó
phẫu thuật lấy trọn u là lựa chọn hàng đầu
trong điều trị. Mặc dù là thương tổn lành tính
nhưng u sọ hầu có thể dính vào các cấu trúc
thần kinh mạch máu quan trọng như vùng hạ
đồi, cuống tuyến yên, phức hợp giao thoa thị
giác, các mạch máu lớn trong đa giác Willis và
sàn não thất III nên việc lấy trọn u mà không
làm tổn thương các cấu trúc quan trọng nêu trên
là điều hết sức khó khăn. Tỉ lệ sống còn sau 10
năm của u sọ hầu lên đến 85% đến 93% càng
nhấn mạnh việc điều trị loại bệnh lý này phải
bảo đảm an toàn và không làm giảm chất lượng
cuộc sống của bệnh nhân. Ngày nay, tỉ lệ tử
vong và di chứng trong phẫu thuật u sọ hầu đã
được cải thiện đáng kể nhờ phương tiện chẩn
đoán hình ảnh (CT/ MRI), điều trị nội tiết thay
thế sau mổ, tiến bộ của vi phẫu thuật và chăm
sóc hậu phẫu. Tuy nhiên lựa chọn điều trị tối ưu
cho u sọ hầu vẫn còn đang bàn cãi. Tỉ lệ tái phát
u lên đến 10 -30% ngay cả khi lấy hết u về mặt
đại thể, tỉ lệ này còn cao hơn ở những bệnh
nhân chỉ được lấy bán phần u. Cơ hội lấy trọn u
giảm dần, đi đôi với tăng tỉ lệ tử vong và tàn
phế trong những lần phẫu thuật sau. Ứng dụng
của xạ trị giúp điều trị u tái phát ở những bệnh
nhân được phẫu thuật lấy bán phần u. Tuy
nhiên xạ trị có nguy cơ gây suy tuyến yên, tổn
thương thị giác, phát triển khối u tân sinh và
giảm nhận thức. Vùng hạ đồi là nơi điều hòa
hoạt động nội tiết và thường bị tổn thương do u
xâm lấn dẫ đến giảm chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân sau mổ. Vì những lý do nêu trên,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm khảo
sát các yếu tố tiên lượng khả năng lấy u sọ hầu
qua đường mổ dưới trán hai bên.
ĐỐI TƯỢNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Có 10 bệnh nhân u sọ hầu được phẫu
thuật bởi cùng một phẫu thuật viên trong thời
gian từ tháng 1/2011 đến tháng 1/2012, có giải
phẫu bệnh là u sọ hầu.
Chúng tôi hồi cứu những thông tin về
bệnh nhân bao gồm: tuổi, giới tính, lý do
nhập viện, khám lâm sàng, xét nghiệm nội
tiết, hình ảnh học (CT/ MRI) trước mổ, lâm
sàng và hình ảnh học sau mổ. Tuổi được phân
thành hai nhóm là dưới 15 tuổi và trên 15
tuổi.
Kích thước u được phân thành 3 nhóm dựa
trên đường kính lớn nhất theo tác giả Yasargil:
nhỏ (dưới 2 cm), trung bình (2-4 cm), lớn (4-6
cm), khổng lồ (trên 6 cm).
Tất cả bệnh nhân đều được đánh giá về thị
giác (bao gồm: thị lực, thị trường và soi đáy
mắt), nội tiết tuyến yên (T3, T4, TSH, FSH, LH,
Prolactin, cortisol, ACTH) trước và sau phẫu
thuật.
Tất cả bệnh nhân đều được phẫu thuật lấy u
qua đường dưới trán hai bên. Hậu phẫu theo
dõi ở Khoa hồi sức ngoại thần kinh bệnh viện
Chợ Rẫy trong vòng tuần đầu. Bệnh nhân được
theo dõi tri giác, lượng nước xuất nhập, tỉ trọng
nước tiểu, nước tiểu 24 giờ, ion đồ máu mổi 8
giờ trong ngày đầu hay cho đến khi đái tháo
nhạt kết thúc.
Đái tháo nhạt sau mổ được định nghĩa khi:
- Áp lực thẩm thấu máu dưới 200 mOsm/L
hay tỉ trọng nước tiểu dưới 1,003.
- Hay không có khả năng cô đặc nước tiểu >
300 mOsm/L mặc dù lâm sàng có tình trạng
thiếu nước.
- Lượng nước tiểu quá 250 ml/giờ đối với
người lớn hay 3 ml/kg/giờ ở trẻ em.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 192
Mức độ lấy u được xác định dựa vào đánh
giá của phẫu thuật viên và CT/ MRI sau mổ. Lấy
gần trọn u được định nghĩa khi phẫu thuật viên
thám sát không còn u bay bao u trong phẫu
trường hay trên MRI sau mổ không ghi nhận u.
Số liệu được xử trí bằng phần mềm thống kê
SPSS 16. Các số liệu định tính được so sánh
bằng phép kiểm CHI square, có hiệu chỉnh
Fisher. Khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p <
0,05.
KẾT QUẢ
Tuổi và giới tính
Độ tuổi trung bình là 23,5 ± 5,5 tuổi, nhỏ
nhất là 6 tuổi, lớn nhất là 62 tuổi. Chúng tôi
phân bệnh nhân theo hai nhóm tuổi: nhóm 1
(dưới 15 tuổi) và nhóm 2 (trên 15 tuổi). Tỉ lệ
nhóm tuổi giữa hai nhóm là: 1:1
Giới tính nam 6 ca (chiếm 60%), giới tính nữ
4 ca (chiếm 40%), tỉ lệ nam nữ là 1,5.
Triệu chứng lâm sàng
Hầu hết bệnh nhân nhập viện vì triệu chứng
đau đầu và mờ mắt chiếm đến 80% các trường
hợp, chỉ có 2 (chiếm 20%) bệnh nhân nhập viện
vì trễ kinh, một bệnh nhân nhập viện vì lơ mơ
và yếu tứ chi gây ra do tình trạng dãn não thất.
Soi đáy mắt ghi nhận phù gai ở 5 bệnh nhân và
3 bệnh nhân teo gai, 2 bệnh nhân không ghi
nhận bất thường đáy mắt.
Đặc điểm hình ảnh học trước mổ
Tất cả bệnh nhân đều được chụp MRI và CT
scan trước mổ. Kích thước u trung bình là 2,8 ±
0,65 cm, thay đổi từ 2 đến 4 cm, được phân
thành hai nhóm: nhóm 1 (u dưới 3 cm): 3 bệnh
nhân, nhóm 2 (u trên 3 cm): 7 bệnh nhân.
Tất cả 10 trường hợp u đều có dạng hỗn hợp
gồm phần đặc và phần nang, trên CT ghi nhận
có vôi hóa trong u, chúng tôi nhận thấy rằng
mức độ vôi hóa thay đổi từ rải rác (8 trường
hợp) đến khối vôi hóa có kích thước trên 1 cm
(chiếm 2 trường hợp). Phân tích tương quan cho
thấy có sự liên quan giữa mức độ lấy u và mức
độ vôi hóa (p< 0,05), mức độ vôi hóa càng nhiều
thì khả năng lấy u càng giảm.
Bảng 1: Phương pháp phẫu thuật và mức độ vôi hóa
Phương pháp phẫu thuật
Lấy trọn Gần trọn Bán phần u
Tổng
Vôi rải rác 2 6 0 8
Vôi nhiều 0 0 2 2
Tổng 2 6 2 10
Khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa mức độ
lấy u và mức độ vôi hóa (p<0,05)
Tất cả 10 trường hợp u đều nằm trên yên. U
nằm trước giao thoa chiếm 4 trường hợp (40%),
u nằm sau giao thoa chiếm 6 trường hợp (60%).
Phân tích tương quan cho thấy không khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa mức độ lấy u và tương
quan của u với giao thoa thị (p > 0,05).
Cuống tuyến yên ghi nhận trên MRI có chỉ
có 2 trường hợp, đa số các trường hợp đều
không ghi nhận được cuống tuyến yên trên MRI
trước mổ, do bị chèn ép dãn mỏng hay bị cấu
trúc u bao quanh.
Có 7 trường hợp dãn não thất trước mổ
(chiếm 70%) do u phát triển lên trên, chèn ép
vào não thất III, tuy nhiên không có trường hợp
dãn não thất đòi hỏi phải đặt VP shunt trước
mổ, cũng như không có liên quan giữa dãn não
thất và mức độ lấy u (p > 0,05).
Kết quả phẫu thuật
Mức độ lấy u: lấy trọn u 2 trường hợp (20%),
lấy bán phần u: 6 trường hợp (60%), chỉ phá
nang và sinh thiết 2 trường hợp (20%).
Các biến chứng liên quan đến phẫu thuật
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 2 trường
hợp dò dịch não tủy qua mũi và được điều trị
thành công bằng dẫn lưu thắt lưng và không có
trường hợp viêm màng não. Có 1 trường hợp
máu tụ ngoài màng cứng vùng đính cần phải
phẫu thuật lấy máu tụ, sau mổ bệnh nhân tỉnh
hoàn toàn, lúc xuất viện đạt GOS 5.
Đái tháo nhạt sau phẫu thuật
10 bệnh nhân đều có đái tháo nhạt thoáng
qua sau mổ trong vòng 2 đấn 3 ngày đầu, sau
đó tự hồi phục, chỉ có 2 trường hợp đái tháo
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 193
nhạt vĩnh viễn, đòi hỏi phải điều trị bằng
minirin lúc xuất viện. Phân tích thống kê cho
thấy không có liên quan có ý nghĩa thống kê
giữa mức độ lấy u và đái tháo nhạt sau mổ, tuy
nhiên khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa đái
tháo nhạt vĩnh viễn và mức độ vôi hóa (p<0,05).
Bảng 2: So sánh mức độ vôi hóa và đái tháo nhạt vĩnh
viễn sau mổ
Đái tháo nhạt vĩnh
viễn
Không đái tháo
nhạt vĩnh viễn
Vôi hóa trên 1 cm 2 0
Vôi rải rác 0 8
Khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05), mức
độ vôi hóa càng nhiều thì nguy cơ đái tháo nhạt
sau mổ càng cao
Phân tích thống kê cũng cho thấy rằng mức
độ lấy u có liên quan với đái tháo nhạt vĩnh viễn
sau mổ (p<0,05).
Bảng 3: So sánh phương pháp phẫu thuật và đái tháo
nhạt vĩnh viễn sau mổ.
Phương pháp phẫu thuật
Lấy trọn Gần trọn u Bán phần u
Tổng
ĐTN thoáng qua 2 6 0 8
ĐTN vĩnh viễn 0 0 2 2
Tổng 2 6 2 10
Khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Kết quả phẫu thuật theo GOS
Kết quả phẫu thuật tốt GOS 4 và 5 chiếm
90%, 1 trường hợp GOS 3 lúc xuất viện, sau quá
trình theo dõi 6 tháng đạt GOS 4. Khác biệt
không có ý nghĩa thống kê giũa mức độ lấy u và
kết quả phẫu thuật.
Tái phát
Trong quá trình theo dõi 6 tháng, có 1
trường hợp u tái phát nang dịch, đòi hỏi phải
phẫu thuật bóc bao nang (phẫu thuât lần thứ
nhất chỉ phá nang và lấy bán phần do u vôi hóa
nhiều).
BÀN LUẬN
U sọ hầu là một trong những u khó thuộc
loại bậc nhất trong các loại u não. Trong khoảng
8 thập kỉ trước đây, Cushing cho rằng đây là
một loại u "cấm kỵ" đối với phẫu thuật. Mặc dù
ngày nay với sự tiến bộ của vi phẫu thuật và
điều trị nội tiết thay thế nhưng u sọ hầu vẫn là
loại u có tiên lượng xấu. Tại Mỹ, hàng năm có
dưới 350 trường hợp u sọ hầu được chẩn đoán.
Do số lượng bệnh ít nên kinh nghiệm tích lũy
không nhiều nên u sọ hầu vẫn còn là một thách
thức đối với phẫu thuật(2).
U sọ hầu có thể được phẫu thuật qua đường
xuyên xoang bướm, mở sọ trán thái dương,
đường dưới trán, đường xuyên vỏ não-não thất.
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng
đường mổ dưới trán hai bên trong tất cả các
trường hợp. Đường dưới trán hai bên có những
lợi điểm: cung cấp đường vào trực tiếp khoang
trước giao thoa, tầm nhìn tốt khoang cảnh thị
hai bên và phẫu trường rộng rãi. Mặc dù mở sọ
pterion cũng giúp tiếp cận khoang quanh giao
thoa (bể trước giao thoa, bể cảnh thị) và trên chỗ
chia đôi động mạch não trước - não giữa để tiếp
cận bể trên yên ở một phía của u, và do đó
không thuận lợi cho thao tác phần u trong bể
cảnh thị đối bên và khoang sau động mạch cảnh
trong. Đường tiếp cận này thích hợp cho những
u nằm trước giao thoa thị giác. Đối với những u
phát triển ra sau hố yến hay phát triển vào phần
dưới não thất III, phẫu thuật viên có thể lấy u
sau khi mở tấm tận cùng. Vì những lý do trên,
chúng tôi chọn đường mổ dưới trán hai bên cho
cả 10 ca.
Tuy nhiên đường tiếp cận này cũng có
những bất lợi như đòi hỏi phải bóc tách thần
kinh khứu giác hai bên nên có nguy cơ làm tổn
thương khứu giác sau phẫu thuật. Bên cạnh đó,
đường mở sọ có thể làm thủng xoang trán nên
có nguy cơ dò dịch não tủy, viêm màng não sau
mổ. Trong nhiên cứu của chúng tôi có hai
trường hợp dò dịch não tủy qua mũi sau mổ,
tuy nhiên không có trường hợp nào viêm màng
não và đều được điều trị khỏi bằng dẫn lưu thắt
lưng.
Mức độ lấy u và tương quan giữa u và giao
thoa thị giác
Theo một số tác giả, tương quan giữa u và
giao thoa giữ vai trò quan trọng trong phẫu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 194
thuật loại u này. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, có 4 ca u nằm trước giao thoa thị và 6 ca u
nằm sau giao thoa thị giác.
Đối với các trường hợp loại trước giao thoa,
u chiếm chỗ bể trên yên và trải dài từ dưới giao
thoa đến trước giao thoa. Chúng tôi nhận thấy
rằng cuống tuyến yên bị đẩy ra giới hạn sau của
u, trong lúc phẫu thuật, u được giảm khối và ưu
tiên phá nang, sao đó tiến hành lấy trong lòng
nhiều nhất có thể nhằm làm bao u co lại, sao đó
tiến hành bóc tách ranh giới u khỏi các cấu trúc
quan trọng như giao thoa thị giác, phức hợp
thông trước, động mạch cảnh trong hai bên, sau
đó chúng tôi tiếp tục bóc tách u về phía sau
nhằm tìm cuống tuyến yên. Trong đa số các
trường hợp cuống tuyến yên bị chèn ép, dãn
mỏng nhưng vẫn nhận thấy được cấu trúc dạng
sọc, tuy nhiên rất khó bóc tách cuống tuyến yên
khỏi u, vì không có màng nhện ngăn cách cuống
tuyến yên và u. Do đó chúng tôi chủ động chừa
lại phần u dính vào cuống tuyến yên nhằm bảo
đảm chức năng nội tiết sau mổ. Tất cả 4 bệnh
nhân đều bảo tồn được cuống tuyến yên và
không suy yên sau phẫu thuật.
Đối với các trường hợp u nằm sau giao thoa,
cuống tuyến yên thường bị đẩy về phía trước,
tấm tận cùng dãn mỏng, phẫu thuật viên tiến
hành lấy u sau khi phá tấm tận cùng. Cấu trúc
cuống tuyến yên dễ dàng nhận thấy bởi những
vân sọc và được cắt bằng kéo ở ranh giới cuống
tuyến yên và u, sau đó tiến hành lấy u từng
phần, tránh làm tổn thương giao thoa thị và
vùng hạ đồi. 6 trường hợp u tuyến yên sau giao
thoa đều không tổn thương cuống tuyến yên.
Tuy nhiên, chúng tôi không tìm thấy khác
biệt có ý nghĩa thống kê giữa mức độ lấy u và vị
trí u trước và sau giao thoa (p>0,05). Qua tham
khảo sát y văn, không có tác giả nào ghi nhận
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa mức độ lấy u
đối với u nằm trước và sau giao thoa.
Mức độ lấy u và vôi hóa trong u
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mức độ lấy
u được đánh giá dựa trên nhận định của phẫu
thuật viên lúc phẫu thuật và CT/ MRI đánh giá
sau mổ. Tất cả 10 ca đều được chụp CT sau mổ
và 1 ca chụp MRI 6 tháng sau mổ. Có 3 trường
hợp (30%) u có kích thước dưới 3 cm, và 7
trường hợp u (70%) u có kích thước trên 3 cm,
trong đó có 1 trường hợp u trên 5cm. Chúng tôi
không tìm được khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa kích thước và mức độ lấy u (p>0,05), có thể
gây do mẫu nghiên cứu nhỏ. Trong hầu hết các
nghiên cứu về u sọ hầu, tỉ lệ lấy trọn u thay đổi
từ 50% - 90%, u càng to thì khả năng lấy trọn u
càng thấp bởi vì u to chèn ép và đẩy lệch các cấu
trúc quan trọng như giao thoa thị, vùng hạ đồi
và cuống tuyến yên.
Theo kinh nghiệm của tác giả, mức độ lấy u
có liên quan đến tích chất u, mức độ vôi hóa
càng cao thì khả năng lấy u càng thấp. Đối với
hai trường hợp vôi hóa trên 1cm, phẫu thuật
viên không lấy u được nhiều, chỉ tiến hành phá
nang và lấy bán phần u, bởi vì vôi hóa nhiều
đồng nghĩa với u cứng, thao tác khó khăn và dễ
làm u dịch chuyển trong lúc cắt u bằng kéo dẫn
đến tổn thương các cấu trúc quan trọng nhất là
cuống tuyến yên và vùng hạ đồi trong lúc giảm
khối u. Thật vậy, nghiên cứu của chúng tôi chỉ
ra rằng, mức độ vôi hoá càng nhiều thì khả năng
lấy u càng giảm và nguy cơ xuất hiện đái tháo
nhạt vĩnh viễn càng cao: cả 2 trường hợp lấy bán
phần u và phá nang đều đái tháo nhạt vĩnh viễn
sau phẫu thuật, trong khi 8 trường hợp lấy trọn
và gần trọn u chỉ xuất hiện đái tháo nhạt thoáng
qua sau mổ.
KẾT LUẬN
Mặc dù với sự hỗ trợ của vi phẫu, vi phẫu
thuật u sọ hầu vẫn còn là thách thức đối với các
phẫu thuật viên ngoại thần kinh, không chỉ vì
tần suất bệnh thấp mà còn vì tương quan của u
với những cấu trúc thần kinh mạch máu quan
trọng. Mức độ vôi hóa trong u là yếu tố tiên
lượng khả năng lấy u và nguy cơ đái tháo nhạt
vĩnh viễn sau phẫu thuật. Do hạn chế về mẫu
nghiên cứu tương đối nhỏ nên không đủ mạnh
để tìm thấy mối tương quan giữa kích thước u
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 195
cũng như tương quan giữa vị trí u so với giao
thoa và khả năng lấy u.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bernd MH, Anke H,Christian S, Rolf B, Michael B, Rudolf F
(2012). Results after treatment of craniopharyngiomas: further
experiences with 73 patients since 1997, J Neurosurg, 116: 373–
384
2. Xintong Zhao, Xuxia Yi, HaijunWang, Hongyang Zhao (2012).
An analysis of related factors of surgical results for patients with
craniopharyngiomas, Clinical Neurology and Neurosurgery, 114:
149–155