Mục tiêu: Tình trạng lão hóa vùng mặt thường có những biểu hiện sớm ở vùng giữa mặt. Vì cấu trúc
giải phẫu khá phức tạp của vùng này cũng như là vùng diễn cảm nhiều nhất của khuôn mặt nên chống lão
hóa vùng giữa mặt luôn là một thách thức. Có nhiều phương pháp từ đơn giản đến phức tạp đã được thực
hiện nhằm cải thiện các nét già nua. Nhưng mỗi phương pháp đều có những mặt mạnh yếu riêng. Bài này
nêu kinh nghiệm về kỹ thuật căng da mặt giữa mặt dưới cốt mạc trực tiếp tăng cường bằng một kỹ thuật
treo và cố định mô đơn giản.
Phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân là các đối tượng có những biểu hiện lão hóa vùng mặt được nhập
viện mổ từ tháng từ tháng 6/2009 đến 01/2011. Phương pháp phẫu thuật được mô tả chi tiết. Bệnh nhân được
mổ treo vùng gò má, giữa mặt với Endotine Ribbon và Midface ST 4.5. Phương pháp mổ chủ yếu là căng da giữa
mặt, một số trường hợp dùng những phương pháp căng da mặt khác.
Kết quả: Có tất cả 31 trường hợp căng da mặt có sử dụng dụng cụ tự tiêu Endotine Ribbon và Midface ST
4.5. 15 trường hợp là phẫu thuật căng da giữa mặt đơn thuần và 16 trường hợp khác được thực hiện phối hợp
với các kỹ thuật khác, nhiều nhất là kỹ thuật căng da mặt cổ. Những biểu hiện của lão hóa vùng mặt như đuôi
cung mày, góc ngoài mắt, gò má sa thấp; nếp mũi má, nếp dưới ổ mắt, nọng hàm đều được cải thiện rõ rệt. Chỉ
căng giữa mặt đơn thuần, phẫu thuật hoàn tất dưới 1 giờ. Không biến chứng quan trọng nào đuọc ghi nhận.
Không có trường hợp nào được mổ lại.
Kết luận: Phẫu thuật căng giữa mặt dưới cốt mạc và treo nếp mũi má có sử dụng Endotine là một phẫu
thuật đơn giản, hiệu quả, dễ học và dễ thực hiện.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Căng da mặt giữa có cố định bằng dụng cụ tự tiêu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 63
CĂNG DA MẶT GIỮA CÓ CỐ ĐỊNH BẰNG DỤNG CỤ TỰ TIÊU
Lê Hành*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Tình trạng lão hóa vùng mặt thường có những biểu hiện sớm ở vùng giữa mặt. Vì cấu trúc
giải phẫu khá phức tạp của vùng này cũng như là vùng diễn cảm nhiều nhất của khuôn mặt nên chống lão
hóa vùng giữa mặt luôn là một thách thức. Có nhiều phương pháp từ đơn giản đến phức tạp đã được thực
hiện nhằm cải thiện các nét già nua. Nhưng mỗi phương pháp đều có những mặt mạnh yếu riêng. Bài này
nêu kinh nghiệm về kỹ thuật căng da mặt giữa mặt dưới cốt mạc trực tiếp tăng cường bằng một kỹ thuật
treo và cố định mô đơn giản.
Phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân là các đối tượng có những biểu hiện lão hóa vùng mặt được nhập
viện mổ từ tháng từ tháng 6/2009 đến 01/2011. Phương pháp phẫu thuật được mô tả chi tiết. Bệnh nhân được
mổ treo vùng gò má, giữa mặt với Endotine Ribbon và Midface ST 4.5. Phương pháp mổ chủ yếu là căng da giữa
mặt, một số trường hợp dùng những phương pháp căng da mặt khác.
Kết quả: Có tất cả 31 trường hợp căng da mặt có sử dụng dụng cụ tự tiêu Endotine Ribbon và Midface ST
4.5. 15 trường hợp là phẫu thuật căng da giữa mặt đơn thuần và 16 trường hợp khác được thực hiện phối hợp
với các kỹ thuật khác, nhiều nhất là kỹ thuật căng da mặt cổ. Những biểu hiện của lão hóa vùng mặt như đuôi
cung mày, góc ngoài mắt, gò má sa thấp; nếp mũi má, nếp dưới ổ mắt, nọng hàm đều được cải thiện rõ rệt. Chỉ
căng giữa mặt đơn thuần, phẫu thuật hoàn tất dưới 1 giờ. Không biến chứng quan trọng nào đuọc ghi nhận.
Không có trường hợp nào được mổ lại.
Kết luận: Phẫu thuật căng giữa mặt dưới cốt mạc và treo nếp mũi má có sử dụng Endotine là một phẫu
thuật đơn giản, hiệu quả, dễ học và dễ thực hiện.
Từ khóa: Lão hóa vùng mặt, căng da mặt, căng da giữa mặt, dụng cụ cố định tự tiêu.
ABSTRACT
MIDFACE LIFT AND FIXATION BY RESORBABLE ENDOTINE DEVICE
Le Hanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 – 2011: 63 - 67
Objective: The aging face has early manifestations at the mid-face. There are many attempts to address to the
age-related changes to the mid-face, both surgically or non-surgically. Every method has its weak points and
method of fixation is an important step to secure the final result. This paper presents our experiences with midface
subperiosteal lift combined with the fixation by using Endotine Ribbon và Midface ST 4.5.
Methods of study: Patients: Women having symptoms of ageing of faces who underwent face lifting in
hospital fron June 2009 to January 2010.
The surgical technique: is shown in details. Main techniques are midface-lift and cervico-facial facelift.
Endotine Mid-face ST 4.5 and Ribbon Endotine have been used.
Results: 31 patients have been operated on from June 2009 to Jan 2011. 15 of these cases were isolate
midface-lift procedure, 16 other were cervicofacial face-lift. One pair Endotine Mid-face ST 4.5 and 30 pairs of
Ribbon Endotine have been used. Aging signs such as ptosis of tail of eye-brow, lateral canthus, pronounced
nasolabial flods, tear-trough, mandibular jowlswere effectively corrected. It takes no more than 1 hours for a
* Khoa Phẫu Thuật Tạo Hình Thẩm Mỹ Bệnh Viện Chợ Rẫy;
Tác giả liên lạc: TS.BS. Lê Hành ĐT: 0913909426 Email: drlehanh@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 64
simple midface lift. No complications was noted. No surgical revision.
Conclusions: Mid-face lifting using endotine device is simple, effective, safe technique for facial
rejuvenation.
Key words: Ageing face, facial rejuvenation, face lift, rhytidectomy, mid-face lift, resorbable fixation device.
Lão hóa khuôn mặt thường biểu hiện sớm
nhất bởi sự sa xệ của mô mềm bên mặt. Ở 1/3
trên mặt, biểu hiện là sự xuống thấp của đuôi
cung mày, góc ngoài mắt, hình thành nếp nhăn
“chân chim”; ở vùng giữa mặt, khối mỡ gò má
gò má sa xệ nên gò má mất độ nhô, tăng chiều
cao mi dưới làm lộ rõ vùng lõm dưới mi, nếp
mũi má sâu hơn và xuất hiên nọng hàm ở vùng
1/3 dưới mặt.
Dây chằng gò má và ổ mắt bị yếu đi là
nguyên nhân quan trọng của sự lão hóa(4). Hậu
quả là túi mỡ gò má sẽ sa xuống dưới và vào
trong làm xuất hiện (1) chỗ lõm xéo góc ra sau và
xuống dưới ở giữa gò má và nếp mỡ của nếp mũi má,
chỗ hổng này được gọi là chỗ khuyết của gò má, (2)
sự tạo thành nếp mỡ ở phía trên dây chằng của
nếp mũi má làm nếp này trở nên sâu hơn và (3)
và lộ rõ nọng hàm. Sự đầy đặn của gò má là
biểu hiện của sự trẻ trung, vì vậy, nét mặt của
bệnh nhân trở nên buồn bã, già và mệt mỏi(2).
Một thay đổi về giải phẫu học quan trọng
nữa xảy ra là sự yếu đi của dây chằng ổ mắt. Túi
mỡ gò má trên những người trẻ nằm ở vị trí của
bờ dưới ổ mắt, được treo bởi dây chằng ổ mắt.
Dây chằng này yếu đi, túi mỡ sa xuống dưới
dẫn đến tình trạng thiếu mô nâng đỡ bờ dưới ổ
mắt, hình thành hõm dưới ổ mắt hay là “dòng
lệ”. Vùng lõm này nằm ngay dưới vùng lồi của
nhãn cầu và mỡ ổ mắt nên dễ thấy và làm lộ rõ
túi mỡ ở mi dưới. Hiện tượng này tạo ra sự biện
dạng 2 đường đặc trưng của sự lão hóa vùng ổ
mắt và giữa mặt(5).
Sự mất khối lượng của vùng giữa mặt cũng
làm nặng thêm hình ảnh lão hóa. Do đó có
nhiều bác sĩ đã dùng kỹ thuật cấy mỡ hay đặt
vật cấy ở gò má hay dưới gò má để sửa chữa
tình trạng này. Nhưng những phẫu thuật này
vẫn có những vấn đề còn được đặt ra, cũng như
còn những biến chứng.
Cuối cùng, cơ gò má lớn và cơ gò má nhỏ treo
hệ thống dây chằng và cơ của vùng giữa mặt. Hệ
thống này yếu đi và làm chảy xệ hệ cơ cùng với
những túi mỡ, dây chằng của nó dẫn đến hậu quả
là sa góc miệng, lộ rõ nếp má cằm, nọng hàm(4).
Trong gần 25 năm qua, nhiều kỹ thuật “căng
da mặt’ đã được thực hiện nhằm kéo căng và
làm đầy vùng giữa mặt(1). Những kỹ thuật này,
mặc dù rất hữu ích nhưng muốn có được hiệu
quả thì đòi hỏi mổ lớn, bóc tách rộng (mổ hở
hay nội soi). Những kỹ thuật ít xâm lấn thường
chỉ điều trị được một phần của tình trạng lão
hóa giữa mặt mà thôi. Kỹ thuật treo bằng chỉ tuy
ít xâm lấn và ít gây thương tổn nhưng kết quả
không bền. Vẫn còn phải tìm kiếm những giải
pháp khác tác động đến toàn bộ các bệnh lý lão
hóa của vùng mặt, như di chuyển khối lượng,
treo dây chằng và túi mỡ hay treo cơ(9).
Gần đây, một cách cố định mới với những
dụng cụ treo và cố định có móc (Endotine) đã
giúp phát triển một kỹ thuật chống lão hóa ít
xâm lấn, đơn giản, thực hiên nhanh chóng mà
tác động khá đồng bộ trên những cấu trúc bị lão
hóa của vùng giữa mặt. Thời gian hậu phẫu
tương đương với các kỹ thuật treo bằng chỉ mà
thôi.
ĐỐI TUỢNG PHUƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Là những người trung niên có những nét lão
hóa biểu hiện trên vùng mặt. Thường là phụ nữ.
Một số nhỏ bệnh nhân còn trẻ nhưng có những
nét già bẩm sinh như đuôi cung mày, góc mắt
ngoài sa thấp.
Vật liệu
Coapt Endotine Mid-face và Coapt Endotine
Ribbon của công ty Coapt Technologié, Paolo
Alto, Califỏnia. Là những dụng cụ tự tiêu, cấu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 65
tạo bằng L-lactide/glycolide. Thời gian bị hấp thu hoàn toàn khoảng 8-10 tháng.
Hình 1: Endotine Midface ST Hình 2: Endotine Ribbon
Phương pháp phẫu thuật
Phẫu thuật được thực hiện dưới cái nhìn
trực tiếp, ít khi cần đến nội soi.
Đường rạch da khoảng 2-3cm phía sau
đường chân tóc vùng thái dương và thẳng góc
với đường nối từ cánh mũi đến góc mắt. Cần tạo
một đường rạch da đủ dài, trung bình 4cm sâu
đến cân mạc thái dương sâu.. Có thể rạch da
hình thoi để lấy bớt da thừa trước.
Dùng dụng cụ bóc tách khỏe và cong nhẹ để
bóc tách dần về phía trong, trước và phía dưới,
lúc nào cũng giữ khoảng bóc tách sát cân mạc
thái dương sâu. Có thể dùng đèn đầu hay 1
banh có nguồn dẫn sáng để tạo thuận lợi cho
phẫu thuật viên. Tĩnh mạch tiền tiêu được xác
định và đốt nếu cần. Việc bảo tồn tĩnh mạch này
làm giảm phù nề mô mềm bên mặt sau mổ. Làm
rộng khoảng bóc tách trên cung gò má cho đến
nhánh thứ nhì của tĩnh mạch và thần kinh gò
má-thái dương, giữ các cấu trúc này.
Dùng bóc tách dưới cốt mạc để bóc tách trên
xương gò má. Với xúc giác và nhìn trực tiếp,
phẫu thuật viên nâng cốt mạc của vùng gò má
và 1/3 trong của cung gò má lên. Ở vùng gò má,
cần cẩn thận, bóc tách từ từ, dùng 1 ngón tay
của bàn tay trái sờ và định vị lỗ dưới ổ mắt, bóc
tách đến bó mạch thần kinh dưới ổ mắt nhẹ
nhàng bằng cách nâng mô mềm lên thì sẽ không
gây tổn thương cho dây thần kinh. Tiếp tục bóc
tách xuống phía dưới, kiểm soát bằng nhìn trực
tiếp và sờ vùng cân mạc cơ nhai bằng cách đưa
qua lại từ từ dụng cụ bóc tách. Vùng bóc tách có
thể thực hiện càng xa vào phía trong càng tốt,
thường là cho đến nếp mũi má.
Kiểm tra lại khoảng bóc tách và cắt các dây
chằng trước góc ngoài mắt bằng kéo ở trong
vùng dưới cốt mạc. Động tác này làm rộng
khoảng bóc tách để có thể luồn dụng cụ cố định
vào. Dụng cụ cố định được bọc bởi 1 bao plastic.
Toàn bộ phức hợp được đưa vào trong hố mổ.
Phần có gai đặt sát vào bờ ngoài của nếp mũi
má, rút bao che chở ra rồi ấn mạnh để cài mô
mềm vùng má vào trong dụng cụ. Kéo mạnh
phần đuôi của dụng cụ về phía thái dương,
chúng ta đã treo được mô mềm của vùng mặt
lên trên và ra sau. Thông thường, dụng cụ càng
ở xa nếp mũi má thì sự treo càng ít hiệu quả.
Ngược lại, dụng cụ càng ở gần nếp mũi má thì
hiệu quả của sự treo càng tăng và hướng treo
càng thẳng đứng.
Một số tác giả rạch thêm đường trong miệng
để kiểm soát chỗ bám của dụng cụ. Đường rạch
này giúp để điều chỉnh lại vị trí của endotine
nếu đặt sai. Trong khi kéo căng đuôi dụng cụ về
phía trên và ra sau, dùng chỉ không tiêu để cố
định vào cân mạc thái dương sâu. Kéo mặt cắt
của mạc thái dương nông ra sau và lên trên và
khâu vào cân mạc thái dương sâu.
Khi sử dụng endotine ribbon, chúng tôi cắt
rời, lấy một đoạn khoảng 6 gai. Đoạn này được
khâu cố định vào cân thái duơng sâu ở vị trí
2cm phía trên và song song với ribbon chính.
Phần này rất có ích, giúp treo mô mềm vùng
thái duơng (góc ngoài mắt, đuôi cung mày hiệu
quả hơn nhiều.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 66
Khi mổ kết hợp với phẫu thuật căng da mặt,
phần 1/3 dưới mặt được căng trước theo kỹ
thuật căng SMAS. Đường rạch da nối tiếp lên
vùng thái dương và phần mặt trên cung gò má
được xử lý bằng phẫu thuật căng giữa mặt dưới
cốt mạc có dùng endotine. Có thể kết hợp luôn
với phẫu thuật căng da trán. Trong trường hợp
này, endotine forehead 3.5 hay 3.0 được dùng để
cố định vạt da trán vào xương trán.
KẾT QUẢ
Từ tháng 6 năm 2009 đến 1/2011, chúng tôi
thực hiện được 51 phẫu thuật, 24 phẫu thuật
đơn thuần và 27 phẫu thuật phối hợp, nhiều
nhất là căng da mặt. 8 bệnh nhân kèm theo cắt
mí mắt dưới; 5 bệnh nhân kèm theo căng da
trán nội soi, 4 bệnh nhân kèm treo cung mày
trực tiếp.
Phẫu thuật được thực hiện dưới gây tê tại
chỗ. Thời gian mổ căng giữa mặt đơn thuần
khoảng 1 giờ. Dẫn lưu được đặt từ vết mổ vào
gần nếp mũi má. Được rút sau 24 giờ. Ít sưng nề
vùng mặt sau mổ. Cắt chỉ sau 8 ngày. Không có
bệnh nhân nào cần mổ lại để chỉnh hay lấy
implant ra.
Không biến chứng thần kinh vận động hay
cảm giác. Không biến chứng nhiễm trùng hậu
phẫu. Năm trường hợp sờ thấy endotine qua da
gây cảm giác khó chịu. Nhất là trên những bệnh
nhân có da đầu mỏng.
Cải thiện được những dấu lão hóa. Đại đa số
bệnh nhân hài lòng với kết quả sau mổ.
BÀN LUẬN
Do cơ chế lão hóa của vùng giữa mặt đã
được làm sáng tỏ nên những kỹ thuật và dụng
cụ hỗ trợ trong việc nâng treo vùng mặt được
triển để có kết quả tốt hơn.
Phẫu thuật căng da mặt dùng SMAS thường
không giải quyết tốt sự sa xệ của khối mỡ giữa
mặt biểu hiện rõ nhất bởi một nếp mũi má sâu.
Để cải thiện nếp mũi má, phải dùng phương
pháp căng da mặt lớp sâu(6,8). Đây là một phẫu
thuật lớn, bóc tách đến dưới các cơ gò má lớn và
gò má nhỏ để giải phóng khối mỡ. Tuy kết quả
có khá hơn phẫu thuật căng SMAS nhưng thời
gian phẫu thuật dài hơn và khả năng gặp biến
chứng thần kinh cũng cao hơn.
Chúng tôi tin rằng kỹ thuật căng giữa mặt,
dưới màng xương có phối hợp với Coapt
Endotine là một bước tiến đầy tiềm năng(7).
Khi dùng endotine, các móc của dụng cụ
được đưa sâu vào mặt dưới của khối mỡ vùng
má, tận rãnh mũi má và kéo căng mạnh mẽ lên
trên, ra sau. Kết hợp với khoảng bóc tách đầy đủ
mô mềm vùng má ra khỏi xương gò má và
xương hàm trên phẫu thuật có thể giải quyết
đồng thời vừa treo lượng mỡ sa xệ vào vùng gò
má để tăng khối lượng, vừa treo túi mỡ, dây
chằng và cơ.
Trước khi có endotine, việc cố định mô mềm
mặt được thực hiên bằng các mối chỉ khâu và
kéo căng. Tiết diện của sợi chỉ rất nhỏ nên mô
mềm chỗ bám bị cắt dần, hậu quả là lực căng bị
triệt tiêu, vùng mặt sa xệ trở lại nhanh.
Với endotine, lực treo tác động trên nhiều
gai lớn, phân tán đều, không gây tổn thương mô
nên ổn định hơn nhiều.
Những kết quả sau phẫu thuật được ghi
nhận như sau:
- Khối gò má được nâng cao về phía trên và
phía sau. Rõ nhất là nâng về phía trên. Túi mỡ
gò má được treo lại, làm giảm tình trạng hõm và
2 đường của gò má.
- Tăng được khối lượng ở vùng má và làm
đầy chỗ lõm ổ mắt và gò má.
- Nếp mũi má mờ đi.
- Nếp nhăn miệng và túi mỡ gò má cũng
giảm một phần.
Endotine midface ST được thiết kế thành
một chùm 5 móc ở đầu xa (Hình 1). Lực kéo
tác động trên endotine sẽ làm dãn nếp mũi má
và dồn khối mỡ gò má lên trên, tăng độ nhô
của gò má.
Endotine ribbon là một dãy 17 cặp móc
gắn trên một phiến mỏng dài 15cm (Hình 2).
Thiết kế này giúp phân tán lực tác động trên
mô mềm vùng má và căng hiệu quả hơn đối
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 67
với phần ngoài gò má.
Ribbon thích hợp hơn trên những khuôn
mặt có gò má cao sẵn. Còn endotine midface
nên dùng cho những gò má phẳng, thiếu khối
lượng.
Chúng tôi sử dụng ribbon nhiều hơn. Lý do
thứ nhất là đa số người á đông đã có gò má cao;
thứ hai là có thể cắt bớt một đoạn ribbon khoảng
6 hàng gai đưa gắn vào cân mạc thái dương sâu
ở vị trí 2cm cao hơn ribbon chính. Phần này
dùng để căng rất tốt da vùng thái dương, góc
ngoài mắt và đuôi mày. Thứ ba là ribbon nhiều
công dụng hơn. Thứ tư là giá ribbon nhẹ hơn.
Trong phẫu thuật dùng endotine phối hợp
với căng da mặt cổ, vùng giữa mặt được căng
hiệu quả hơn nhiều và thời gian mổ được rút
ngắn. Bệnh nhân có thể mổ dưới gây mê hoặc
gây tê. Do vị trí cố định của các thần kinh cảm
giác nên gây tê vùng rất có hiệu quả. Endotine
có thể sờ thấy dưới da trong một số các trường
hợp. Trong những trường hợp này, nên đặt
endotine cao hơn, thiên về vùng đính và nơi
xương sọ tương đối phẳng. Triệu chứng này sẽ
biến mất sau khoảng 6 tháng, thời điểm
endotine tự tiêu.
Do tính đơn giản và hợp lý của phẫu thuật
cũng như cấu tạo của endotine, việc đào tạo để
dùng endotine không khó khăn. Cần nắm vững
giải phẫu học vùng bên mặt và thao tác thận
trọng, chính xác.
Kỹ thuật này có lợi điểm đặc biệt trên một
vài nhóm bệnh nhân. Bệnh nhân còn trẻ, chỉ bị
lão hóa đơn thuần ở vùng giữa mặt thường
không muốn chịu một phẫu thuật căng da mặt
kinh điển. Đối với nhóm bệnh nhân ở tuổi trung
niên hay già hơn thì lợi điểm là có thể phối hợp
kỹ thuật này với kỹ thuật căng da mặt kinh điển
để tăng hiệu quả lâu dài. Ngoài ra, phẫu thuật
này có thể dùng như 1 phẫu thuật tăng cường
cho phẫu thuật căng da mặt trước đó. Đối với
tất cả các nhóm tuổi đều có thể phối hợp căng
giữa mặt với những biện pháp hỗ trợ khác như
cấy mỡ hay chích các chất làm đầy, RF, hay trẻ
hóa da bằng Laser. Ngoài ra, cắt mí mắt và treo
cung mày là 2 phẫu thuật có thể phối hợp với
căng giữa mặt để đem lại cho bệnh nhân một kết
quả hoàn hảo hơn. Các dạng Endotine khác
cũng đã được chế tạo hỗ trợ tốt cho phẫu thuật
căng da trán, căng da mặt 1/3 dưới, căng vùng
cổ
Trong phẫu thuật nội soi căng da trán, căng
da trán thái dương thì endotine forehead là
không thể thay thế. Tất cả các kiểu cố định vạt
da trán dựa trên các mối chỉ treo đều không giữ
được kết quả phẫu thuật lâu dài. Trước khi có
endotine, đa số phẫu thuật viên đã trở lại phẫu
thuật căng da trán hở theo đường bi-coronal.
Chính endotine đã đảm bảo sự cố định tốt vạt
da trán và đã đưa phẫu thuật căng da trán nội
soi trở lại vị trí của mình.
KẾT LUẬN
Tóm lại, kỹ thuật căng giữa mặt có sử dụng
endotine là một phương pháp trẻ hóa vùng giữa
mặt an toàn, hiệu quả, dễ học tập, dễ phối hợp
với những phương pháp khác, có thể xem phẫu
thuật này như một phương pháp ít xâm lấn mà
có kết quả rất cao. Tất cả bệnh nhân đều hài lòng
và kết quả ổn định trong một thời gian dài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abraham R, DeFata R (2009) Thread lift for facial rejuvenation.
Arch. Facial Plast Surg Vol 11: 178-183.
2. Barton FE. (1992 Rhytidectomy and the nasolabial fold. Plast
Reconstr Surg; 90:601.
3. Freeman MS (1993) Lifting the malar fat pad for correction of
prominent nasolabial fols Plast. Reconstr. Surg 91; 463-474.
4. Furnas D. (1989 The retaining ligaments of the cheek. Plast
Reconstr Surg.;83:11.
5. Gassner H, Rafii A, Young A. (2008). Surgical anatomy of the
face. Arch. Facial Plast Surg Vol 10: 9-15.
6. Hamra ST. (1990 The deep-plane rhytidectomy. Plast Reconstr
Surg; 86:53.
7. Heffelfinger R, Blakwell KE, Raunsley J (2007 A simplified
approach to midfaca aging. Arch. Facial Plast Surg Vol 9 Jan/Feb
48-55.
8. Jacono AA, Stong BC. (2010). Anatomic comoparison of the
deep plane face lift and the Trastemporal Midface lift. Arch.
Facial Plast Surg Vol 12: 339-341.
9. Namazie A, Alum D, Keller GS.(2002). Current techniques in
Midface lifting. Facial Plast Surg Clin North Am 10: 53-62.