Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị và bảo tồn một số chức năng thanh quản trong phẫu thuật cắt
thanh quản bán phần trán bên tái tạo bằng vạt cơ dưới móng trong ung thư thanh quản tầng thanh môn
giai đoạn sớm.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả 31 trường hợp ung thư thanh quản tầng thanh môn giai
đoạn sớm (T1a, T1b) tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 06/2007 đến 06/2010.
Kết quả: 31 trường hợp cắt trán bên có tái tạo bằng vạt cơ dưới móng. Tất cả bệnh nhân đều rút được ống
mở khí quản và ống nuôi ăn. Chức năng phát âm được đánh giá qua yếu tố chủ quan (với 93,5% bệnh nhân hài
lòng với giọng nói sau phẫu thuật) và yếu tố khách quan (với cường độ mức âm theo giọng nói trước và sau phẫu
thuật không thay đổi).
Kết luận: Cắt thanh quản bán phần trán bên tái tạo bằng vạt da dưới móng trong ung thư tầng thanh môn
giai đoạn sớm là phương pháp điều trị hiệu quả, bảo tồn chức năng thanh quản, sớm đưa bệnh nhân tái hòa nhập
với xã hội.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 294 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cắt thanh quản bán phần trán bên tái tạo bằng vạt cơ dưới móng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 48
CẮT THANH QUẢN BÁN PHẦN TRÁN BÊN TÁI TẠO
BẰNG VẠT CƠ DƯỚI MÓNG
Trần Anh Bích*, Trần Minh Trường **
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị và bảo tồn một số chức năng thanh quản trong phẫu thuật cắt
thanh quản bán phần trán bên tái tạo bằng vạt cơ dưới móng trong ung thư thanh quản tầng thanh môn
giai đoạn sớm.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả 31 trường hợp ung thư thanh quản tầng thanh môn giai
đoạn sớm (T1a, T1b) tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 06/2007 đến 06/2010.
Kết quả: 31 trường hợp cắt trán bên có tái tạo bằng vạt cơ dưới móng. Tất cả bệnh nhân đều rút được ống
mở khí quản và ống nuôi ăn. Chức năng phát âm được đánh giá qua yếu tố chủ quan (với 93,5% bệnh nhân hài
lòng với giọng nói sau phẫu thuật) và yếu tố khách quan (với cường độ mức âm theo giọng nói trước và sau phẫu
thuật không thay đổi).
Kết luận: Cắt thanh quản bán phần trán bên tái tạo bằng vạt da dưới móng trong ung thư tầng thanh môn
giai đoạn sớm là phương pháp điều trị hiệu quả, bảo tồn chức năng thanh quản, sớm đưa bệnh nhân tái hòa nhập
với xã hội.
Từ khóa: ung thư tầng thanh môn, cắt thanh quản bán phần trán bên tái tạo bằng vạt cơ dưới móng.
ABSTRACT
GLOTTIC RECONSTRUCTION AFTER FRONTOLATERAL PARTIAL LARYNGECTOMY WITH
STERNOHYOID MUSCLE FLAP IN MANAGEMENT EARLY GLOTTIC CANCER
Tran Anh Bich, Tran Minh Truong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 48 - 52
Objective: To evaluate the results of glottis reconstruction after frontolateral partial laryngectomy with
sternohyoid muscle flap and preserve the function of the larynx for the management of early glottic cancer.
Method: Cases series prospective, descriptive study was operated on 31 cases early glottic cancer by used
partial laryngectomy reconstruction techniques in Cho Ray Hospital from 2007 to 2010.
Result: 31 cases of glottic reconstruction after frontolateral partial laryngectomy with sternohyoid muscle
flap. The rate of decannulation and nasogastric feeding tube are 100%. Two principally different assessment
speech intelligibility methods may be applied: subjective assessment (93.5% patients are satisfied voice), objective
assessment with a Sound Level Meter (before and after surgery, voice function is the same).
Conclusion: Glottic reconstruction after frontolateral partial laryngectomy with sternohyoid muscle flap is
the effective method treatment; it preserves the function of the larynx and helps the patients integrating back into
the community.
Key words: glottis cancer, glottic reconstruction after frontolateral partial laryngectomy with sternohyoid
muscle flap.
* Khoa Tai-Mũi-Họng, BVCR, ** Bộ môn Tai Mũi Họng Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BSCKII Trần Anh Bích ĐT: 0913954972 Email: anhbich2005@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 49
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiếng nói là đặc trưng riêng của con người,
giúp con người giao tiếp trao đổi kinh nghiệm
và tích lũy kiến thức. Do đó dù một tổn
thương nhỏ trên dây thanh cũng ảnh hưởng
đến chức năng thanh quản đặc biệt là ung thư
thanh quản. Ung thư thanh quản chiếm 1%
trong tất cả các ung thư. Chiếm 25% trong ung
thư đầu cổ. Cắt thanh quản bán phần không
chỉ loại bỏ được bệnh tích mà còn bảo tồn chức
năng thanh quản, nâng cao chất lượng cuộc
sống cho bệnh nhân.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
31 bệnh nhân nhập khoa Tai Mũi Họng bệnh
viện Chợ Rẫy được chẩn đoán ung thư thanh
quản tầng thanh môn giai đoạn sớm trong thời
gian từ 6/2007 – 6/2010.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hàng loạt trường hợp.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Những bệnh nhân ung thư thanh quản tầng
thanh môn giai đoạn sớm T1a, T1b.
T1a: Khối u ở 1 dây thanh.
T1b: Khối u liên quan đến 2 dây thanh.
Có xét nghiệm tiền phẫu.
Nội soi tai mũi họng.
Kết quả giải phẫu bệnh: carcinôm tế bào gai.
CT Scan hay MRI vùng cổ, siêu âm vùng cổ.
Tiến hành nghiên cứu:
Rạch da ngang cổ, bóc tách bộc lộ sụn giáp.
Mở vào sụn giáp qua đường giữa.
Cắt toàn bộ dây thanh và băng thanh thất
bên bệnh và 1/3 dây thanh bên đối diện, cùng
sụn giáp tương ứng.
Tái tạo bằng vạt cơ dưới móng: cắt một phần
đầu trên sát xương móng của cơ ức móng cùng
bên ung thư, khâu phủ vạt cơ vào nơi khiếm
khuyết (nơi dây thanh và băng thanh thất bị cắt).
Đóng sụn giáp.
Đặt penrose.
Khâu da từng lớp.
Đánh giá cường độ mức âm theo giọng nói
dựa trên 2 yếu tố:
Chủ quan: đánh giá qua mức độ hài lòng về
giọng nói của bệnh nhân, dựa trên bảng câu hỏi
của Christine có cải biên sao cho phù hợp với
thực tế.
Khách quan: bệnh nhân được đo cường độ
mức âm theo giọng nói tại Viện Vệ Sinh y tế
công cộng Tp Hồ Chí Minh trước và sau phẫu
thuật.
Máy đo cường độ mức âm theo giọng nói:
chính là máy đo tiếng ồn thường được sử dụng,
có thêm chức năng đánh giá sự thông hiểu lời
(Speech Intelligibility). Vì máy chưa cập nhật
chương trình mới nên một số chỉ số nhằm đánh
giá sự thông hiểu lời như STI-PA hay CIS không
thực hiện được. Do vậy chúng tôi chỉ dừng lại
đánh giá có hay không có sự thay đổi mức
cường độ âm theo giọng nói trước và sau mổ ở
các phương pháp phẫu thuật trong cắt thanh
quản bán phần.
KẾT QUẢ - BÀN LUẬN
Tuổi thường gặp trong ung thư thanh môn
50-59 tuổi chiếm 54,8%. Tỉ lệ nam/nữ khoảng
10/1.
Bảng 1: Phân bố bệnh nhân theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi Nam Nữ Tổng số Tỉ lệ%
<40 1 1 3,2
40 – 49 4 1 5 16
50 – 59 16 1 17 54,8
60 – 69 4 1 5 16
>70 3 3 9,8
Bảng 2: Phân bố bệnh nhân theo tiền căn
Tỉ lệ hút thuốc lá ở nam giới khoảng 84,4%.
Tiền căn bệnh lý nội khoa chiếm 20%
Tiền căn Nam Nữ Tổng số Tỉ lệ%
Hút thuốc 22 22 70,1
Hút thuốc + uống rượu 6 6 19,4
Đái tháo đường 3 3 9,8
Tim mạch 2 2 6,4
Viêm phế quản mạn 2 2 6,4
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 50
Bảng 3: Biến chứng sau phẫu thuật
Biến chứng Số trường
hợp
Tỷ lệ%
Nhiễm khuẩn 1 3,2 Biến chứng sớm
Tràn khí dưới
da
2 6,4
Mô hạt viêm 1 3,2
Dính mép trước 1 3,2
Biến chứng
muộn
Hẹp thanh quản 1 3,2
Biến chứng 6 19,4
Không biến chứng 25 80,6
Tổng 31 100,0
Bảng 4: Kết quả bảo tồn một số chức năng
Bảo tồn chức
năng (ngày)
Giá trị
nhỏ nhất
Giá trị lớn
nhất
Trung
bình
Tổng
Rút canule 1 14 3,31 ± 1.9 30
Rút nuôi ăn 1 10 2,06 ± 0.9 31
Rút dẫn lưu 2 5 2,0 ± 0.5 31
Bảng 5: Kết quả cường độ mức âm theo giọng nói và
phương pháp phẫu thuật cắt thanh quản bán phần
Cường độ mức âm theo giọng nói Trước mổ Sau mổ
Phát âm A lớn 84,3 83,28
Phát âm A trung bình 72,32 73,28
Phát âm A thấp 64,26 65,82
BÀN LUẬN
Tuổi trung bình của bệnh nhân ung thư
thanh quản trong nghiên cứu của chúng tôi là
56,7. Tuổi nhỏ nhất 38 và bệnh nhân cao tuổi
nhất là 80.
Tiền căn bệnh lý nội khoa đi kèm có thể làm
trầm trọng thêm biến chứng và gây tử vong
trong và sau khi mổ. Chính vì vậy, tất cả bệnh
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi đều được
điều trị trước, trong và sau phẫu thuật nhờ vào
sự phối hợp nhiều chuyên khoa tại Bệnh viện
Chợ Rẫy.
Trong một thời gian dài phẫu thuật đã là
liệu pháp hữu hiệu duy nhất và đến nay vẫn còn
vũ khí chọn lựa đối với nhiều loại ung thư nói
chung trong đó có ung thư thanh quản. Phẫu
thuật cắt thanh quản có nhiều ưu điểm cho phép
đánh giá rõ ràng mức độ lan rộng của ung thư
cũng như tạo điều kiện xác định những đặc tính
mô học của u làm cơ sở cho sự xếp hạng bệnh lý
chính xác.
Một khuyết điểm chính của phẫu thuật là
mô ung thư được cắt bỏ cùng một phần mô lành
làm ảnh hưởng ít nhiều chức năng sinh lý của cơ
thể. Thế nhưng cắt thanh quản bán phần có tái
tạo đã hạn chế được phần nào khuyết điểm đó.
Diện cắt còn u
Bauer và cộng sự kết luận những bệnh nhân
sau cắt thanh quản bán phần có diện cắt vẫn còn
ung thư thì tỷ lệ tái phát khoảng 18%. Những
bệnh nhân này sẽ được theo dõi sát(2). Lesinski
cho rằng khi kết quả giải phẫu bệnh ở diện cắt
còn u thì sự chính xác này chỉ hơn 50%, từ đó
cho thấy không phải lúc nào cũng tìm được tế
bào ung thư tại rìa hố mổ. Ông cũng khẳng định
về sự cần thiết phải kết hợp giữa phẫu thuật
viên và các nhà giải phẫu bệnh để cho kết quả
giải phẫu bệnh chính xác nhất. Xạ trị trước mổ
làm giảm tỷ lệ phát hiện tế bào ung thư tại diện
cắt. Các tác giả kết luận mép phẫu thuật phải
được kiểm tra trong lúc mổ bằng sinh thiết lạnh
để chắc rằng không có tế bào ung thư tại rìa hố
mổ. Tuy nhiên với bất kỳ điều trị nào thì tiên
lượng những bệnh nhân diện cắt còn tế bào ung
thư cũng xấu hơn. Phẫu thuật cắt thanh quản
toàn phần được lựa chọn khi ung thư tái phát và
cho kết quả sống còn cao(1).
Khi diện cắt còn u, có tác giả xạ trị sau mổ
nhằm giảm tái phát. Có tác giả theo dõi sát để
phát hiện và điều trị sớm khi có tái phát. Tỷ lệ
tái phát cao ở nhóm có diện cắt còn u sau mổ. Xạ
trị sau mổ làm giảm chất lượng giọng nói, biến
chứng nhiều và lợi ích sống còn chưa rõ ràng so
với nhóm theo dõi sát sau mổ và điều trị sớm
khi có tái phát(3).
Về mặt ung thư học, rìa phẫu thuật an toàn
khi cho kết quả sinh thiết lạnh không có tế bào
ung thư(2). Trong nghiên cứu của chúng tôi
không có trường hợp nào diện cắt còn u, thấp
hơn so với các nghiên cứu khác. Điều đó có thể
là do chúng tôi nghiên cứu trên bệnh nhân ung
thư giai đoạn sớm hơn. Có một trường hợp cắt
thanh quản bán phần trán bên (T1b) cho kết quả
sinh thiết lạnh là loạn sản ngay rìa hố mổ, chúng
tôi tiến hành cắt rộng thêm, và tiếp tục cho sinh
thiết lạnh lần 2 đến khi kết quả không có tế bào
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 51
ung thư. Trường hợp này đến nay chưa bị tái
phát và được theo dõi và hẹn tái khám định kỳ.
Chủ trương của chúng tôi là cắt rộng cho đến
khi diện cắt hết tế bào ung thư và theo dõi, tái
khám định kỳ, không xạ trị sau mổ. Một trường
hợp tái phát có diện cắt bình thường.
Bảng 6: So sánh diện cắt còn u với một số nghiên
cứu khác
Nghiên cứu Diện cắt còn u
Karasalihoglu A.R. (2004)(4) 5/68
Lê Văn Cường (2008)(7) 5/37
Tác giả (2010) 0/31
Cắt thanh quản bán phần trán bên có tái tạo
vạt cơ dưới móng bước đầu cho kết quả tương
đối khả quan. Bailey BJ(1), cho rằng cắt thanh
quản bán phần có tái tạo giúp bảo đảm khẩu
kính đường thở và cường độ giọng nói tốt hơn.
Bảng 7: Lựa chọn phẫu thuật bảo tồn ung thư thanh
quản
Nghiên cứu Tái tạo Không
Chul-Ho Kim (2003)(5) 2/13 11/13
Lê Hành (2001)(6) 8/25
Trần Văn Thiệp (2006)(12) 12/74
Trần Minh Trường (2009)(11) 27/142
Tác giả (2010) 31/31
Chức năng thở
Trong cắt thanh quản bán phần canule là
đường thở duy nhất trong giai đoạn đầu sau
mổ. Ngoài ra canule còn hạn chế dịch chảy từ hố
mổ xuống khí quản và phổi. Nhiều tác giả trên
thế giới ủng hộ rút ống mở khí quản sớm sau
mổ nhằm giúp thanh quản phục hồi nhanh hơn.
Chúng tôi chủ trương rút ống mở khí quản khi
nội soi thanh quản đánh giá thanh môn thông
thoáng, đảm bảo được chức năng thở, chính vì
vậy không có bệnh nhân nào phải canule.
Những trường hợp chậm rút ống mở khí
quản là do phù nề thanh quản và tràn khí dưới
da sau mổ. Tác giả Bron cho rằng rút ống mở
khí quản sớm nhằm phục hồi chức năng nuốt,
tránh cứng khớp nhẫn phễu, phục hồi phản xạ
ho(3). Naudo cho rằng ống mở khí quản làm
giảm nhạy cảm các thụ thể thanh quản(8). Chủ
trương của chúng tôi là rút sớm ống mở khí
quản khi có thể.
Bảng 8: So sánh số ngày rút ống mở khí quản sau cắt
thanh quản bán phần trán bên
Nghiên cứu Rút khai khí đạo (ngày)
Tolga Kandogan (2005)(10) 2,4
Lê văn Cường (2008)(7) 15
Tác giả (2010) 3,31
Chức năng nuốt
Chức năng nuốt được xác định bằng hai
tham số: thời gian rút ống nuôi ăn và tình trạng
nuốt sặc sau mổ. Chúng tôi rút ống nuôi ăn khi
bệnh nhân nuốt được nước. Tất cả các trường
hợp đều rút được ống nuôi ăn và không có bệnh
nhân nào nuốt sặc.
Bảng 9: So sánh số ngày rút ống nuôi ăn trong cắt
thanh quản bán phần trán bên
Nghiên cứu Rút ống nuôi ăn (ngày)
Yu P. (2005)(14) 15
Tolga Kandogan (2005)(10) 6,2
Lê Văn Cường (2008)(7) 14
Tác giả (2010) 2,06
Chức năng nói
Chủ quan
Christine và cộng sự đã thiết kế bảng câu hỏi
để phỏng vấn 177 bệnh nhân ung thư thanh môn
và nhóm 110 người bình thường không có bất
thường gì về giọng nói. Tác giả cho rằng bảng câu
hỏi này đơn giản và hiệu quả, bệnh nhân dễ hiễu,
dễ trả lời và thời gian trả lời ngắn(13).
Đa số bệnh nhân hài lòng với chất giọng sau
mổ. Trường hợp cắt bán phần tái phát được cắt
thanh quản toàn phần, chúng tôi không tính vào
trong nhóm đánh giá này. Có 1 trường hợp
không hài lòng vì hẹp thanh quản. Cắt thanh
quản bán phần có tái tạo làm thay đổi giọng nói
không nhiều so với trước phẫu thuật.
Mức độ khó khăn khi giao tiếp do ảnh hưởng
của giọng nói sau phẫu thuật
Chúng tôi đánh giá ảnh hưởng của giọng nói
sau phẫu thuật lên từng mức độ giao tiếp: giao
tiếp qua điện thoại, giao tiếp với xã hội, giao tiếp
với người thân.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 52
Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy 30/31
bệnh nhân cảm thấy giọng nói sau phẫu thuật
không gây khó khăn nhiều khi giao tiếp. Đây là
một kết quả đáng khích lệ. Chỉ có 1 trường hợp
hẹp thanh môn nên gặp ít khó khăn.
Mức độ khó chịu khi phát âm to
Đa số trường hợp bệnh nhân không
thường xuyên cảm thấy khó chịu khi phát âm
to 2/31 trường hợp cảm thấy thường xuyên
khó chịu, gặp trong những bệnh nhân có biến
chứng sau phẫu thuật như hẹp thanh quản và
dính mép trước.
Mức độ gắng sức để nói thành tiếng
Chỉ có 1 trường hợp phải gắng sức nhiều để
nói thành tiếng, gặp ở bệnh nhân có biến chứng
hẹp thanh quản.
Đa số hài lòng với giọng nói hiện tại và
quan trọng là bệnh nhân có thể trở về với cuộc
sống thường ngày. Với kết quả đáng khích lệ
này có thể thấy cắt thanh quản bán phần trán
bên tái tạo bằng vạt cơ dưới móng trong ung thư
thanh quản tầng thanh môn giai đoạn sớm là
một trong những phương pháp điều trị hiệu quả
không chỉ trong kiểm soát mô ung thư mà còn
bảo tồn được giọng nói cho người bệnh.
Khách quan qua phân tích kết quả cường độ
mức âm
Cắt thanh quản bán phần trán bên có tái tạo
bằng vạt cơ dưới móng cường độ mức âm theo
giọng nói trước mổ và sau mổ khác biệt không
có ý nghĩa thống kê. Có thể là do cỡ mẫu của
chúng tôi chưa đủ lớn do đó cần có những
nghiên cứu có cỡ mẫu lớn hơn để xác định có
hay không sự khác biệt này.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 31 trường hợp cắt thanh
quản bán phần trán bên tái tạo bằng vạt cơ dưới
móng trong điều trị ung thư thanh quản tầng
thanh môn giai đoạn sớm chúng tôi rút ra 1 số
nhận định như sau:
Sinh thiết tức thì có vai trò quan trọng trong
cắt thanh quản bán phần.
100% bệnh nhân rút được canule và ống
nuôi ăn sau mổ.
Tuy giọng nói còn khàn nhưng 93,5% bệnh
nhân hài lòng với chất lượng giọng nói sau mổ,
cường độ mức âm theo giọng nói trước và sau
phẫu thuật không thay đổi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bailey BJ, et al. (2006). Early glottic and supraglottic carcinoma:
Vertical partial laryngectomy and laryngoplasty. Head and Neck
Surgery–Otolaryngology. 4nd Edition. Lippincott, Williams &
Wilkins, pp.465-482.
2. Bauer WC, Lesinski SG, Ogura JH (1975). “The significance of
positive margins in hemilaryngectimy specimens”. The
Laryngoscope. Vol 85 (1), pp.11-13.
3. Bron LP (2002). “Funtional analysis after supracricoid partial
laryngectomy with cricohyoidoepiglottopexy”. The
Laryngoscope. Vol 112 (5), pp.1289-1293.
4. Karasalihoglu AR, Yagiz R, Tas A, Uzun C (2004).
“Supracricoid partial laryngectomy with cricohyoidopexy and
cricohyoidoepeglottopexy: functional and oncological results”.
The Journal of laryngology and otology. Vol 118 (9), pp.671-675.
5. Kim C-H, Lim YC, Kim K et al (2003). “Vocal analysis after
vertical partial laryngectomy”. Yonsei Medical Journal. Vol 44
(6), pp.1034-1039.
6. Lê Hành, Trần Minh Trường (2001). “Cắt thanh quản bán
phần có tái tạo”. Tạp chí Y học, Đại học Y Dược TP.HCM, tập 5
(4), tr.93-97.
7. Lê Văn Cường, Trần Văn Thiệp (2008). Phẫu thuật cắt thanh
quản một phần trong điều trị ung thư thanh môn giai đoạn sớm.
Luận án tốt nghiệp chuyên khoa 2, Đại học y dược TP.HCM.
8. Naudo P, Laccourreye O (1998). “Complication and functional
outcome after supracricoid partial laryngectomy with
cricohyoidoepeglottopexy”. Otolaryngology – Head and Neck
surgery. Vol 118 (1), pp.124-128.
9. Peeters AJ, van Gogh CD, Goor KM, et al. Health status and
voice outcome after treatment for T1a glottic carcinoma.
(abstract) Eur Arch Otorhinolaryngol. 2004 Nov;261(10):534–
40. Epub 2004 Jan 9.
10. Tolga K, Aylin S (2005). “Quality of life, functional outcome,
and voice handicap index in partial larygectomy patients for
early glottic cancer”. BMC Ear Nose Throat Disord. Vol 5 (3),
pp.356-362.
11. Trần Anh Bích, Trần Minh Trường (2010). “Tình hình điều trị
ung thư thanh quản tại bệnh viện Chợ Rẫy 1999 – 2009”. Tạp
chí Y học, Đại học Y Dược TP.HCM, số đặc biệt hội nghị khoa
học kỹ thuật bệnh viện Chợ Rẫy, tập 14 (2), tr.287-291.
12. Trần Văn Thiệp (2006). “Phẫu thuật bảo tồn thanh quản trong
điều trị ung thư thanh môn- Kết quả sống còn 10 năm”. Tạp chí
Y học. Đại học Y Dược TP.HCM. Tập 10 (4), tr.136-142.
13. van Gogh CDL et al (2005). “A screening questionaire for voice
problems after treatment of early glottic cancer”. International
Journal of Radiation Oncology. Biol. And Phys., Elsevier, Vol 62,
pp.700-705.
14. Yu P et al. (2005). “Reconstruction of laryngeal defect in
vertical partial laryngect resection of artytenoid cartilage”.
Zhonghua Er Bi Yan Hou Tou Jing Wai Ke Za Zhi. 40 (1), pp.52-
55.