Bài nghiên cứu dựa trên dữ liệu của 190 công ty niêm yết tại Việt Nam giai đoạn 2007-2013
đã cho thấy trong lợi nhuận được công bố gồm bốn thành phần, gồm thành phần tiền và thành phần
dồn tích của năm trước, thành phần tiền và thành phần dồn tích phát sinh trong năm nay. Nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng thành phần dồn tích thường chiếm tỉ trọng thấp và kém bền vững hơn thành
phần tiền trong lợi nhuận công bố. Dựa trên kết quả này, chúng ta có thể đánh giá thành phần tiền
và thành phần dồn tích để xem xét tính ổn định và bền vững của lợi nhuận. Bên cạnh đó, bài viết
cũng cho thấy các yếu tố mang tính chất đặc thù của công ty sẽ tác động khác nhau tới sự bền vững
của thành phần tiền và thành phần dồn tích. Ngoài ra, mức độ bền vững của hai nhân tố này trong
lợi nhuận còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, điều kiện thị trường như GDP, lạm phát, lãi suất.
12 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 554 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng lợi nhuận của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2007 - 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
41
Chất lượng lợi nhuận . . .
CHẤT LƯỢNG LỢI NHUẬN CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT
TRÊN SÀN CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2007 - 2013
Trương Kỳ Quang* , Nguyễn Thị Diễm Hiền**
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu dựa trên dữ liệu của 190 công ty niêm yết tại Việt Nam giai đoạn 2007-2013
đã cho thấy trong lợi nhuận được công bố gồm bốn thành phần, gồm thành phần tiền và thành phần
dồn tích của năm trước, thành phần tiền và thành phần dồn tích phát sinh trong năm nay. Nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng thành phần dồn tích thường chiếm tỉ trọng thấp và kém bền vững hơn thành
phần tiền trong lợi nhuận công bố. Dựa trên kết quả này, chúng ta có thể đánh giá thành phần tiền
và thành phần dồn tích để xem xét tính ổn định và bền vững của lợi nhuận. Bên cạnh đó, bài viết
cũng cho thấy các yếu tố mang tính chất đặc thù của công ty sẽ tác động khác nhau tới sự bền vững
của thành phần tiền và thành phần dồn tích. Ngoài ra, mức độ bền vững của hai nhân tố này trong
lợi nhuận còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, điều kiện thị trường như GDP, lạm phát, lãi suất.
Từ khóa: công ty niêm yết, chất lượng lợi nhuận, doanh nghiệp, dồn tích, tiền.
EARNINGS QUALITY OF LISTED COMPANIES IN VIET NAM STOCK
EXCHANGE PERIOD 2007-2013
ABSTRACT
In the process of researching 190 listed companies in Vietnam in period 2007-2013, the
study shows the earnings announced consisted of four components: the accruals and cash flow
remained from last year; the accruals and cash flow arising in this year. The study has also pointed
out the component of the accruals is low and less persistent than cash flow in earnings announced.
As a result, we can evaluate the stability and persistence of earnings by basing on study about cash
flow and accruals. Besides, the study also shows the specific nature of the industry, companies have
different effect on the sustainability of the cash flow composition and accruals. Furthermore, the
persistence of two factors in earnings depends on economic conditions, market conditions such as
GDP, inflation, interest rates.
Keyword: accruals, cash flow, earnings quality, listed companies.
* Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM,
Email: truongkyquang.uel@gmail.com
** Khoa TCNH, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM. Email: hienntd@uel.edu.vn
42
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. Đặt vấn đề
Các nhà đầu tư chuyên nghiệp tập trung
phần lớn nguồn lực để phân tích báo cáo tài
chính của nhiều công ty khác nhau để ra quyết
định đầu tư, các chủ nợ đánh giá việc cho vay
thông qua chỉ số trên báo cáo tài chính, khách
hàng xem xét báo cáo tài chính để tìm ra đối
tác hoạt động hiệu quả... Vì vậy, báo cáo tài
chính đòi hỏi phải được kiểm toán từ một
đơn vị độc lập. Tuy nhiên, việc kiểm toán chỉ
mang tính chất thời điểm và nhằm mục đích
kiểm tra xem báo cáo tài chính có đạt được
được sự khách quan, trung thực và tuân thủ
chuẩn mực kế toán hay không mà không quan
tâm đến tính bền vững của lợi nhuận theo thời
gian. Do đó, nếu nhà đầu tư chỉ xem xét đến
khía cạnh số lượng của lợi nhuận là chưa đầy
đủ mà cần phải quan tâm đến chất lượng của
khoản lợi nhuận đó, nghĩa là họ cần xem xét
lợi nhuận được công ty công bố có tính bền
vững, ổn định và xuất phát từ hoạt động kinh
doanh của công ty, hay nó chỉ là những con
số được làm đẹp bởi những thủ thuật kế toán
tinh vi?
Xuất phát từ những lý do trên, bài nghiên
cứu nhằm đánh giá chất lượng lợi nhuận được
công bố và tính bền vững của những thành
phần chứa trong lợi nhuận. Cụ thể, bài viết
nghiên cứu ba vấn đề: thứ nhất, trong lợi
nhuận công bố, thành phần tiền và thành phần
dồn tích thành phần nào nên chiếm tỉ trọng lớn
hơn? Thứ hai, việc sử dụng lợi nhuận trong
quá khứ liệu có hữu ích để dự báo lợi nhuận
tương lai? Thứ ba, thành phần tiền và thành
phần dồn tích, thành phần nào bền vững hơn?
2. Một số nghiên cứu có liên quan
Nghiên cứu của Kamarudin và Ismail
(2014) xem xét các tính chất của chất lượng
lợi nhuận và các cách thức đo lường, đã nhấn
mạnh rằng chất lượng lợi nhuận rất quan
trọng đối với người sử dụng thông tin tài
chính vì chất lượng là thông tin cơ bản và ưu
việt giúp nhà đầu tư và các bên liên quan đưa
ra quyết định đánh giá về hiệu quả hoạt động
lâu dài của công ty tốt hơn. Dưới quan điểm
đầu tư, chất lượng lợi nhuận kém sẽ dẫn đến
các quyết định sai lầm của nhà đầu tư trong
việc phân bổ nguồn lực vào công ty (Myers,
Myers.J, Omer, 2003). Chất lượng lợi nhuận
cao sẽ tăng hấp dẫn của nhà đầu tư bên ngoài
đối với cổ phiếu và tăng tính thanh khoản
của thị trường (Young và Guenther, 2003),
giảm chi phí sử dụng nợ (Salvato và Moores,
2010), giảm chi phí sử dụng vốn (Leuz và
Verrecchia, 2000; Salvato và Moores, 2010)
và khuyến khích thị trường phân bổ nguồn
lực hiệu quả (Biddle, Hilary, và Verdi, 2009;
Bushman, Piotroski, và Smith, 2011). Do đó,
việc công bố lợi nhuận có chất lượng cao là
rất quan trọng.
Revsine, Collins và Johnson (2002) cho
rằng lợi nhuận có chất lượng cao khi nó mang
tính chất ổn định. Ayres (1994) đề cập chất
lượng liên quan đến sự ổn định dài hạn và
bền vững của lợi nhuận. Penman and Zhang
(2002) thì kết luận chất lượng lợi nhuận cao
thì lợi nhuận sẽ càng bền vững và ngược lại.
Nghiên cứu của Dechow (1998) đã chỉ ra
thành phần tiền hiện tại cung cấp nhiều thông
tin hữu ích cho nhà đầu tư về dòng tiền và lợi
nhuận trong tương lai. Một kết luận khác của
Dechow là thành phần dồn tích là thông tin
hữu ích để đo lường hiệu quả hoạt động của
công ty. Kế thừa những tiền đề nghiên cứu
của Dechow, Sloan (1996) trong bài nghiên
cứu với 40.679 mẫu quan sát trong 30 năm
của các công ty niêm yết tại Mỹ đã đưa đến
kết quả thành phần dồn tích có xu hướng ít
bền vững hơn thành phần tiền trong báo cáo
lợi nhuận được công bố. Nghiên cứu của
43
Chất lượng lợi nhuận . . .
Richardson, Sloan, Soliman và Tuna (2002)
đối với 101,124 công ty, giai đoạn 1961-1999
nhằm xem xét sử dụng thông tin trong thành
phần dồn tích để đánh giá bền vững của lợi
nhuận và lợi suất chứng khoán trong tương lai.
Nhóm tác giả đưa đến kết quả: thứ nhất, thành
phần dồn tích từ vốn lưu động, dồn tích từ
hoạt động đầu tư và dồn tích từ hoạt động tài
trợ cung cấp nhiều thông tin hữu ích về hoạt
động của công ty. Thứ hai, giá chứng khoán
không phản ánh thông tin về sự bền vững của
lợi nhuận, thành phần tiền và dồn tích.
Dựa trên chức năng của thành phần dồn
tích là điều chỉnh việc ghi nhận dòng tiền qua
thời gian, nghiên cứu của Dechow và Dichev
(2002) cho thấy chất lượng của khoản dồn tích
có tương quan âm tới tổng dồn tích, chu kỳ
sản xuất kinh doanh, độ biến động của doanh
thu, dòng tiền và lợi nhuận nhưng tương quan
dương với quy mô công ty. Kết quả cũng cho
thấy có mối tương quan đồng biến giữa chất
lượng khoản dồn tích và sự bền vững của lợi
nhuận. Do đó, nhà đầu tư đánh giá thành phần
dồn tích sẽ phản ánh tốt hơn hiệu quả hoạt
động của công ty.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về tính bền
vững của lợi nhuận chỉ dùng ở mức định
tính hoặc đưa ra một số thủ thuật kế toán
nhằm điều chỉnh thành phần dồn tích qua đó
tác động đến chất lượng lợi nhuận. Cụ thể,
Nguyễn Thị Minh Trang (2011) trong nghiên
cứu của mình đã giới thiệu một số thủ thuật
kế toán nhà quản lý sử dụng có thể biến hóa
lợi nhuận trên báo cáo tài chính, làm cho đánh
giá của nhà đầu tư về hoạt động của công ty
bị sai lệch như: chọn phương pháp kế toán
ảnh hưởng tới ghi nhận doanh thu - chi phí,
thời điểm mua tài sản, khấu hao. Huỳnh Thị
Vân (2012) nghiên cứu hành vi điều chỉnh
lợi nhuận cho rằng: (1) các công ty cổ phần
điều chỉnh tăng lợi nhuận trong năm đầu tiên
niêm yết. (2) khả năng này phụ thuộc vào
điều kiện thuế. (3) Mức độ điều chỉnh lợi
nhuận bị tác động bởi quy mô doanh nghiệp.
Dương Nguyễn Thanh Tâm (2013) đánh giá
tác động cấu trúc nợ đến chất lượng lợi nhuận
của doanh nghiệp và kết quả cho thấy có sự
tác động của cấu trúc nợ (tín dụng phi thương
mại, nợ ngắn hạn, dài hạn) đến chất lượng lợi
nhuận của doanh nghiệp.
3. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa lý thuyết và kết quả
của các công trình nghiên cứu thực nghiệm,
bài viết dựa trên mô hình của Sloan (1996)
và thêm nhân tố công ty để tăng thêm thông
tin được ước lượng. Khi đó, mô hình gốc của
Sloan là một trường hợp riêng của mô hình bài
viết khi chỉ xem xét tác động theo thời gian.
Các mô hình và các biến được mô tả như sau:
Mô hình 1: Earningit = α + β1 Cash Flowit +
β2 Accrualsit + εit (1)
Mô hình 2: Earning
it
= α + β
1
Earning
it-1
+
ε
it
(2)
Mô hình 3: Earning
it
=α+ β
1
Cash Flow
it-1
+ β2 Accrualsit-1 + εit (3)
Với:
Earning
it
=
NI
it
(NOA
it-1
+NOA
it
)/2
Accruals
it
=
[NI
it
-(CFO
it
+CFI
it
)]
(NOA
it-1
+NOA
it
)/2
Cash Flow
t-1
=
CFO
it
(NOA
it-1
+NOA
it
)/2
Các biến lợi nhuận; thành phần tiền và
thành phần dồn tích được chia cho tổng tài
sản hoạt động ròng bình quân của công ty với
mục đích so sánh, giảm bớt sự khác biệt về
quy mô và giúp cho việc ước lượng mô hình
phù hợp hơn.
44
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
• Earning: Lợi nhuận sau thuế
• Cash Flow: Thành phần tiền
• Accruals: Thành phần dồn tích
• CFO: Dòng tiền hoạt động kinh doanh từ
báo cáo kế toán.
• CFI: Dòng tiền hoạt động đầu tư từ báo
cáo kế toán.
• NOA: Tổng tài sản hoạt động ròng
NOA = [(Tổng tài sản– Tiền, các khoản
tương đương tiền và đầu tư tài chính ngắn
hạn) – (Tổng nợ – Tổng nợ vay)]
• ε: Sai số, i: Công ty, t: Thời gian.
Các giả thiết nghiên cứu sử dụng cho
các mô hình:
H1: Thành phần tiền giải thích tốt hơn
thành phần dồn tích về sự biến động của lợi
nhuận được công bố.
H2: Lợi nhuận quá khứ tác động đến lợi
nhuận tương lai.
H3: Thành phần dồn tích ít bền vững hơn
thành phần tiền qua thời gian.
Các mô hình số (1), (2), (3) được sử dụng
để làm sáng tỏ ba giả thuyết trên. Cụ thể:
Bài viết ước lượng mô hình (1) trả
lời cho giả thuyết H1 về giá trị các
thành phần chứa trong lợi nhuận.Nếu
giả thuyết H1 đúng, điều đó là tiền đề
quan trọng để chúng ta xem xét tiếp đến
giả thuyết tiếp theo.
Tiếp theo, mô hình (2) được sử dụng
để trả lời giả thuyết H2 nhằm xem xét
khả năng dự báo lợi nhuận tương lai từ
lợi nhuận quá khứ. Nếu giả thuyết H2 bị
bác bỏ thì việc chúng ta đánh giá thành
phần tiền và dồn tích ở giả thuyết H3
chỉ mang khẳng định lại về mặt kế toán,
không có ý nghĩa nhiều về mặt dự báo
và xem xét tính bền vững.
Cuối cùng sau khi xem xét hai giả
thuyết trên, mô hình (3) được sử dụng để
làm sáng tỏ giả thuyết H3 về tính ổn định
và bền vững của các thành phần chứa trong
lợi nhuận.
Phương pháp hồi quy với dữ liệu bảng
sẽ được sử dụng để ước lượng cho cả ba
mô hình trên nhằm làm sáng tỏ các giả
thuyết nghiên cứu được đặt ra. Cụ thể, bài
viết vận dụng ba dạng mô hình của phương
pháp hồi quỹ dữ liệu bảng nhằm cung cấp
nhiều thông tin hữu ích: (i) Hồi quy Pooled
(Pooled model), không xem xét đến tác
động của không gian và thời gian; (ii) Hồi
quy tác động cố định FEM (Fixed effects
model); (iii) Hồi quy tác động ngẫu nhiên
REM (Random effects model)
4. Phương pháp thu thập và xử lý
số liệu
Dựa trên mô hình nghiên cứu, bài viết
thu thập số liệu của những công ty niêm
yết trên hai sàn HOSE và HNX trong năm
2007 - 2013 từ Vietstock, Thomson Reuters
và báo cáo tài chính được công bố. Sau khi
loại ra những công ty tài chính, bảo hiểm,
ngân hàng, bất động sản vì tính chất kế
toán đặc thù và các công ty có dữ liệu quá
lớn hoặc quá bé so với mẫu quan sát nhằm
giảm tác động của chúng đối với việc ước
lượng, cuối cùng, bộ dữ liệu nghiên cứu
còn lại 190 công ty với 1325 quan sát kể
cả các công ty đã hủy niêm yết trong năm
2013 như CTCP Thủy Điện Ry Ninh I,
CTCP Sông Đà 9.01,...Mặc dù việc này sẽ
làm cho dữ liệu bảng không cân đối, nhưng
nó sẽ thể hiện được tính đại diện cao hơn khi
thực hiện ước lượng.
45
Chất lượng lợi nhuận . . .
5. Kết quả nghiên cứu
5.1. Thống kê mô tả
Bảng 1: Thống kê mô tả các biến
EARNING
CASH
FLOW
ACCRUALS
Trung Bình 0.148 0.124 0.153
Trung vị 0.100 0.080 0.110
Lớn nhất 1.880 3.090 2.890
Nhỏ nhất -0.920 -1.450 -2.920
Độ lệch chuẩn 0.196 0.346 0.401
Skewness 2.252 1.885 0.124
Kurtosis 15.394 14.897 12.570
P-Value (ADF) 0.001 0.000 0.000
Số quan sát 1325 1325 1325
Nguồn: Tính toán của tác giả từ nguồn dữ liệu Vietstock và Thomson Reuters
dừng. Tuy nhiên, độ lệch chuẩn của biến tiền
là 0.346 và dồn tích là 0.401 khá lớn nên mẫu
có sự biến động nhiều. Hệ số skewness của
biến lợi nhuận và dòng tiền là lớn hơn 0 và
gần giá trị 3 nên phân phối của hai biến lệch
nhiều về bên phải; ngụ ý rằng tồn tại các công
ty trong mẫu xem xét có lợi nhuận và dòng
tiền dương rất lớn so với trung bình mẫu. Hệ
số Kurtoris của ba biến rất lớn (gấp 4-5 lần
giá trị 3) nên hình dạng của ba phân phối tù
và trải rộng, chứ không tập trung nhiều tại giá
trị trung bình.
Trong suốt khoảng thời gian quan sát từ
2007-2013, giá trị trung bình của lợi nhuận
0.148; giá trị trung bình của thành phần tiền
và thành phần dồn tích lần lượt là 0.1236,
0.1529. Số liệu cho thấy giá trị trung bình
không khác nhiều so với trung vị. Các phân
phối các biến trên đều có nét tương đồng về
hệ số Skewness, Kurtosis nên chúng ta có
thể nhìn nhận rằng phân phối của chúng khá
tương đồng với nhau. Ở mức ý nghĩa 5%, giá
trị P-Value trong kiểm định ADF cho thấy về
mặt thời gian, giá trị của các biến đều có tính
Bảng 2: Ma trận hệ số tương quan
EARNING CASH FLOW ACCRUALS
EARNING 1.00
P-Value (Pearson) -----
CASH FLOW 0.3723 1.00
P-Value(Pearson) 0.0000 -----
ACCRUALS 0.2404 -0.5401 1.00
P-Value(Pearson) 0.0000 0.0000 -----
Earning (-1) 0.672647
P-Value(Pearson) 0.0000 ----- -----
Earning(+1) 0.750965 0.389018 0.044621
P-Value(Pearson) 0.0000 0.0000 0.1330
Nguồn: Tính toán của tác giả từ nguồn dữ liệu Vietstock và Thomson Reuters
46
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Ở mức ý nghĩa 5%, hệ số tương quan giữa
lợi nhuận với thành phần tiền và thành phần
dồn tích đều có ý nghĩa thống kê và ở mức
dương. Do đó, chúng ta có cái nhìn ban đầu
rằng thành phần tiền và thành phần dồn tích
đều có tác động tới lợi nhuận. Hơn nữa, hệ số
tương quan giữa thành phần tiền và dồn tích là
âm, điều đó thể hiện trong lợi nhuận công bố
khi chúng ta tăng thành phần dồn tích thì sẽ
phải giảm thành phần tiền và ngược lại, điều
này phù hợp với lý thuyết kế toán.
Khi sử dụng kiểm định Pearson, chúng ta
đủ cơ sở để kết luận lợi nhuận quá khứ và lợi
nhuận tương lai có sự tương quan khá mạnh
với hệ số tương quan 0.75. Hơn nữa, các thành
phần tiền trong quá khứ có tương quan với
lợi nhuận trong tương lai (hệ số tương quan
là 0.389018), nhưng thành phần dồn tích lại
không có nhiều sự tương quan với lợi nhuận
tương lai (hệ số tương quan là 0.044621). Điều
này hàm ý, thành phần tiền ảnh hưởng đến lợi
nhuận nhiều hơn so với thành phần dồn tích.
5.2. Kết quả ước lượng
Kết quả ước lượng mô hình số (1)
Bài viết thực hiện ước lượng mô hình với
cross-section và period theo từng phương
pháp Pooled, Fixed, Random. Trong trường
hợp ước lượng mô hình với Fixed, bài viết
dùng GLS weights và White cross-section để
khắc phục hiện tương phương sai thay đổi.
Sau đó, các kiểm định F-test (lựa chọn Pooled
và Fixed) và Hausman (kiểm định lựa chọn
Fixed và Random) được sử dụng để chọn ra
mô hình phù hợp nhất.
Bảng 3: Kết quả ước lượng mô hình số (1)
Biến phụ thuộc
EARNING
Pooled
Cross-section Period
Fixed effects model Random effects model
C
0.045658**
(0.006243)
0.096512**
(0.006133)
0.050977**
(0.011410)
CASH FLOW
0.345345**
(0.026320)
0.202947**
(0.012331)
0.404554**
(0.033097)
ACCRUALS
0.284045**
(0.027626)
0.174568**
(0.012026)
0.308989**
(0.041153)
R2 hiệu chỉnh 0.516393** 0.750713** 0.398978**
Giá trị kiểm định F 707.8802** 21.87513** 440.4571**
Hệ số Durbin-Watson 1.288613 1.874698 1.276498
Số quan sát 1325 1325 1325
Nguồn: Tính toán của tác giả từ nguồn dữ liệu Vietstock và Thomson Reuters
Ghi chú: *,**,*** lần lượt tương ứng với ý nghĩa 10%, 5% và 1%.
Số trong ngoặc ( ) tương ứng độ lệch chuẩn.
47
Chất lượng lợi nhuận . . .
Hệ số Durbin-Watson đều lớn hơn 1 và
nhỏ hơn 3 trong cả 3 phương pháp nên đủ cơ
sở để kết luận rằng không có hiện tượng tự
tương quan xảy ra.
Ở ý nghĩa ở mức 5%, xem xét tác động
của đặc tính từng công ty (Cross section) và
tác động của yếu tố thời gian (Period), cả ba
mô hình Pooled, FEM và REM đều khẳng
định với chúng ta rằng: (i) thành phần dồn
tích và thành phần tiền đều giải thích được
sự biến động của lợi nhuận. (ii) Thành phần
tiền chiếm tỉ trọng nhiều hơn thành phần
dồn tích trong lợi nhuận công bố. Một
điểm đáng lưu ý là độ lệch chuẩn của các
hệ số góc đối với hai thành phần đều có
giá trị nhỏ (bé hơn 5%) nên việc việc sử
dụng mô hình để ước lượng sẽ trở nên ít
bị chệch hơn hay kết luận của chúng ta
không bị sai lệch nhiều.
Như vậy, theo kết quả thống kê chúng
ta chấp nhận giả thuyết H1: Thành phần
tiền giải thích tốt hơn thành phần dồn
tích về sự biến động của lợi nhuận được
công bố.
Tiếp theo, bài viết xem xét cụ thể
từng mô hình với trọng tâm xem xét
đặc tính của từng công ty và yếu tố
thời gian ảnh hướng đến lợi nhuận.
Đầu tiên, tác giả xem xét lựa chọn 3
mô hình Pooled, FEM và REM để đánh
giá tác động của đặc tính công ty (Cross
section) đến lợi nhuận công bố. Với bảng
kết quả trên, mô hình FEM giải thích được
75% sự biến động của lợi nhuận công bố
cao hơn 24% so với mô hình Pooled. Bài
viết tiếp tục sử dụng kiểm định F-test để
lựa chọn sự phù hợp của 2 mô hình. Với
mức nghĩa 5%, kiểm định F-test khẳng
định mô hình FEM phù hợp hơn Pooled
trong giải thích sự biến động lợi nhuận.
Đối với mô hình FEM và REM, chúng
khác nhau ở các giả định về hệ số chặn
(α) và một số giả định nên chúng ta chỉ
cần sử dụng kiểm định Hausman lựa
chọn ra mô hình phù hợp nhất. Với mức
ý nghĩa 5%, kiểm định Hausman chấp
nhận mô hình FEM phù hợp hơn mô hình
REM. Điều này ngụ ý ra rằng, lợi nhuận
được công bố gồm thành phần tiền nhiều
hơn thành phần dồn tích nhưng giữa các
công ty khác nhau sẽ có sự khác biệt giữa
các thành phần trong lợi nhuận công bố.
Nguyên nhân xuất phát từ đặc thù ngành
nghề và việc hạch toán điều chỉnh lợi
nhuận là tùy thuộc vào tình hình từng
công ty.
Sau đó, bài viết tiếp tục xem xét lựa
chọn 3 mô hình Pooled, FEM và REM để
đánh giá tác động của thời gian (Period)
đến lợi nhuận công bố. Đầu tiên, tác giả
sử dụng kiểm định Hausman để lựa sự
phù hợp của mô hình Period-FEM và
Period-REM. Với mức ý nghĩa 5%, kiểm
Hausman đưa kết quả REM phù hợp hơn.
Mô hình Period-REM với giả định các
công ty có những đặc tính chung (như
rủi ro thị trường, chế độ kết toán dồn
tích.) được phản ánh vào hệ số góc (α),
các đặc tính này thay đổi theo thời gian
và nó sẽ tác động đến biến phụ thuộc.
Một khía cạnh hữu ích khác khi sử dụng
Period-REM là tồn tại các sự kiện đặc
biệt ảnh hưởng đến toàn bộ mẫu quan sát.
Kết quả của REM chỉ ra rằng, song hành
với thành phần tiền và thành phần dồn
tích, các nhân tố chung của nền kinh tế
như: lãi suất, lạm phát, sự suy giảm tổng
cầu theo thời gian tác động khác nhau tới
lợi nhuận công bố.
Kết quả ước lượng mô hình số (2)
48
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Bảng 4: Kết quả ước lượng mô hình số (2)
Biến phụ thuộc
EARNING
Pooled
Cross-section Period
Fixed effects model
Random effects
model
C
0.014384 **
(0.004222)
0.093016**
(0.009938)
0.031766**
(0.014955)
EARNING (-1)
0.722621 **
(0.052105)
0.280527**
(0.045962)
0.666220**
(0.020482)
R2 hiệu chỉnh 0.623133 ** 0.784720** 0.482185**
Giá trị kiểm định F 1879.326 ** 22.79394** 440.4571**
Hệ số Durbin-Watson 1.925545 1.917260 1.778944
Số quan sát