Trong đời sống xã hội của chúng ta nhu cầu giao lưu trao đổi buôn bán gọi chung là giao dịch dân sự là một nhu cầu tất yếu khách quan. Để điều chỉnh và đảm bảo tính hiệu lực của các giao dịch đó pháp luật về hợp đồng đã ra đời và ngày càng chứng tỏ được vai trò quan trọng đặc biệt của mình. Hợp đồng chính là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ nào đó. Pháp luật về hợp đồng hiện nay đã cơ bản hoàn thiện với những quy định ràng buộc chặt chẽ. Để hiểu rõ hơn bản chất, vai trò, nội dung các hình thức, chủ thể và các vấn đề khác của hợp đồng. Thông qua quá trình nghiên cứu thực tại Công ty Xuân Hoà, tôi chọn đề tài “Chế độ pháp lý về hợp đồng đại lý và thực tiễn tại Công ty trách nhiện hữu hạn Nhà nước một thành viên Xuân Hoà”. Đồng thời đây cũng là dịp tôi khải nghiệm những kiến thức mà mình đã tích luỹ được trong suất thời gian ngồi trên Giảng Đường đại học.
Bố cục của bài viết được kết cấu thành ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về hợp đồng đại lý
Chương II: Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng đại lý tại Công ty
Chương III: Kiến nghị
Trong suất quá trình thực tập và nghiên cứu tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Xuân Hoà, tôi đã được sự giúp đỡ rất tận tình của toàn thể CBCNV của Công ty đặc biệt là những CBCNV phòng Kinh doanh nơi tôi trực tiếp thực tập. Hơn nữa với sự hướng dẫn tận tình của TS Nguyễn Thị Thanh Thuỷ và ThS Vũ Văn Ngọc đã giúp tôi hoàn thành đề tài thực tập chuyên ngành của mình. Thông qua bài viết này tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới toàn thể Công ty, TS Nguyễn Thị Thanh Thuỷ và ThS Vũ Văn Ngọc đã giúp tôi hoàn thành đề tài thực tập của mình.
77 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1808 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chế độ pháp lý về hợp đồng đại lý và thực tiễn tại Công ty trách nhiện hữu hạn Nhà nước một thành viên Xuân Hoà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Mở đầu……………………………………………………………4
ChươngI.CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ
1. Khái quát về hợp đồng đại lý……………………………….………….....5
1.1 Vai trò của hợp đồng trong nền kinh tế thị trường……………………..5
1.2 Quá trình phát triển của pháp luật về hợp đồng đại lý………..…….….6
1.3 Khái quát về đại lý thương mại………………………………………..9
1.4 Những điểm mới về hợp đồng đại lý trong luật thương mại………….10
2. Giao kết hợp đồng đại lý……………………………………..……...........11
2.1 Nguyên tắc giao kết hợp đồng đại lý………………………………….11
2.2 Chủ thể giao kết hợp đồng đại lý……………………………………...12
2.3 Nội dung giao kết hợp đồng đại lý…………………………………...12
2.4 Hình thức giao kết hợp đồng đại lý……………………………….….13
2.5 Trình tự thủ tục giao kết hợp đồng đại lý…………………………….14
3. Thực hiện hợp đồng đại lý……………………….…………….…………15
3.1 Nguyên tắc thực hiện hợp đồng đại lý………………………………...15
3.2 Các biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng đại lý………….15
4. Sửa đổi, chấm dứt, huỷ bỏ hợp đồng đại lý……………………….…….16
5. Trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng............................................17
6. Giải quyết tranh chấp hợp đồng đại lý…………………….….…………18
6.1 Giải quyết bằng thương lượng………………………………………...18
6.2 Giải quyết bằng hoà giải………………………………………………18
6.3 Giải quyết bằng trọng tài……………………………………………..19
6.4 Giải quyết bằng toà án………………………………………………..21
CHƯƠNG II
THỰC TIỄN GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ TẠI CÔNG TY
I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY XUÂN HOÀ
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty Xuân hoà……….….…..25
1.1Giới thiệu chung về công ty Xuân Hoà……………………………….25
1.2 Khái quát lịch sử phát triển của Công ty …………..............................26
3. Tổ chức bộ máy tại Công ty……………………………….……………..29
3.1 Cơ cấu tổ chức.......................................................................................29
3.2 Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty…………………….……………….29
3.3 Phạm vi hoạt động của Công ty Xuân Hoà…………………..….……33
4. Tình hình nhân sự và lao động tại Công ty………………….………….33
4.1 Phân loại lao động…………………………………………….………34
4.2 Chế độ tiền lương……………………………………………………..34
4.3 Chế độ BHXH,BHYT,KPCĐ…………………………………………35
4.4 Thời giờ làm việc thời giờ nghỉ ngơi…………………………….…....35
4.5 Hình thức kỷ luật lao động…………………………………………....36
4.6 Tranh chấp lao động và tình hình giải quyết tranh chấp………..……..37
5. Một vài nét chính về việc thực hiện pháp luật và nghĩa vụ
của Công ty………………………………………………………………….37
5.1 Việc quản lý chất lượng sản phẩm hàng hoá…………………...…..…37
5.2 Việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả…….…………38
5.3 Việc thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước……………………………38
5.4. Việc thực hiện trách nhiệm đối với xã hội……………………………39
6. Hiệu quả sản xuất kinh doanh và mục tiêu của Công ty………….……39
II QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ TẠI CÔNG TY
1. Khái quát về hoạt động đại lý của Công ty Xuân Hòa………………... 42
2. Những nội dung cơ bản trong giao kết hợp đồng đại lý của Công ty…49
2.1 Chủ thể giao kết……………………………………………….………49
2.2 Nguyên tắc, căn cứ giao kết hợp đồng………………………………..51
2.3 Nội dung giao kết hợp đồng…………………………………..………51
2.4 Quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm…………………………..56
3. Thực tế thực hiện các điều khoản về hợp đồng đại lý đại tại Công ty...58
3.1 Thực hiện các điều khoản về số lượng, chủng loại………….………..58
3.2 Thực hiện các điều khoản về trách nhiệm và quyền hạn của mỗi bên..59
3.3 Thực hiện các điều khoản về thanh toán tiền hàng……………….…..60
3.4 Thực hiện các điều khoản về thời hạn và phụ lục hợp đồng………….60
3.5Thực hiện các điều khoản khác trong hợp đồng…………..…………..61
CHƯƠNG III KIẾN NGHỊ
1. Khó khăn bất cập trong hoạt động đại lý của Công ty..………………..62
1.1 Do có sự thay đổi các quy định pháp luật về hoạt động đại lý………..62
1.2 Do các nguyên nhân chủ quan từ phía Công ty……………………….63
1.3 Do các nguyên nhân khác…………………………………….………65
2. Kiến nghị………………………………………………………..…………66
2.1 Kiến nghị về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật………….…66
2.2 Kiến nghị về việc hoàn thiện chế độ hợp đồng nói chung………..…..68
2.3 Kiến nghị về việc hoàn thiện chế độ hợp đồng đại lý….………….…69
2.4 Kiến nghị đối với Công ty Xuân Hoà…………………..……..………71
2.5 Kiến nghị đối với đại lý………………………………..……….……..74
Kết luận………………………………………………………….75
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………..76
Lời mở đầu
Trong đời sống xã hội của chúng ta nhu cầu giao lưu trao đổi buôn bán…gọi chung là giao dịch dân sự là một nhu cầu tất yếu khách quan. Để điều chỉnh và đảm bảo tính hiệu lực của các giao dịch đó pháp luật về hợp đồng đã ra đời và ngày càng chứng tỏ được vai trò quan trọng đặc biệt của mình. Hợp đồng chính là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ nào đó. Pháp luật về hợp đồng hiện nay đã cơ bản hoàn thiện với những quy định ràng buộc chặt chẽ.. Để hiểu rõ hơn bản chất, vai trò, nội dung các hình thức, chủ thể và các vấn đề khác của hợp đồng. Thông qua quá trình nghiên cứu thực tại Công ty Xuân Hoà, tôi chọn đề tài “Chế độ pháp lý về hợp đồng đại lý và thực tiễn tại Công ty trách nhiện hữu hạn Nhà nước một thành viên Xuân Hoà”. Đồng thời đây cũng là dịp tôi khải nghiệm những kiến thức mà mình đã tích luỹ được trong suất thời gian ngồi trên Giảng Đường đại học.
Bố cục của bài viết được kết cấu thành ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về hợp đồng đại lý
Chương II: Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng đại lý tại Công ty
Chương III: Kiến nghị
Trong suất quá trình thực tập và nghiên cứu tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Xuân Hoà, tôi đã được sự giúp đỡ rất tận tình của toàn thể CBCNV của Công ty đặc biệt là những CBCNV phòng Kinh doanh nơi tôi trực tiếp thực tập. Hơn nữa với sự hướng dẫn tận tình của TS Nguyễn Thị Thanh Thuỷ và ThS Vũ Văn Ngọc đã giúp tôi hoàn thành đề tài thực tập chuyên ngành của mình. Thông qua bài viết này tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới toàn thể Công ty, TS Nguyễn Thị Thanh Thuỷ và ThS Vũ Văn Ngọc đã giúp tôi hoàn thành đề tài thực tập của mình.
ChươngI.CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ
1. Khái quát về hợp đồng đại lý
1.1 Vai trò của hợp đồng trong nền kinh tế thị trường
Như chúng ta đã biết trong nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp trước đây hợp đồng kinh tế được coi là một công cụ cơ bản để quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hợp đồng kinh tế được kí kết theo chỉ tiêu theo kế hoạch của Nhà nước. Mỗi khi các chỉ tiêu kế hoạch thay đổi thì các bên tham gia kí kết hợp đồng cũng phải thay đổi nội dung kí kết cho phù hợp. Nếu các bên vị phạm hợp đồng tức là vi phạm kế hoạch của Nhà nước. Như vậy trong giai đoạn này chỉ tiêu kế hoạch là cơ sở để các bên tham gia kí kết hợp đồng. Trong giai đoạn này, hợp đồng kinh tế chỉ là phương tiện để các xí nghiệp, các đơn vị của Nhà nước trao đổi sản phẩm với nhau một cách hình thức, đó là sự ghi nhận sự cấp phát vật tư, sản phẩm của Nhà nước cho các đơn vị kinh tế và sự giao nộp sản phẩm của các đơn vị kinh tế cho Nhà nước. Hợp đồng kinh tế hoàn toàn mất đi ý nghĩa đích thực của nó với tư cách là hình thức pháp lý chủ yếu của quan hệ trao đổi.
Trong nền kinh tế thị trường hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận của các chủ thể kinh doanh theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, các bên cùng có lợi. Nhà nước chỉ có thể sử dụng pháp luật để tác động vào các quan hệ hợp đồng để đảm bảo lợi ích chính đáng của các bên tham gia quan hệ hợp đồng và lợi ích chung của toàn xã hội. Trong nền kinh tế thị trường sản phẩm được làm ra để trao đổi mua bán do đó hợp đồng là công cụ, là cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch của các chủ thể kinh doanh, làm cho kế hoạch sản xuất kinh doanh của họ phù hợp với thị trường. Qua đó các nhà sản xuất kinh doanh có căn cứ để xây dưng kế hoạch sản xuất kinh doanh cho mình. Đó là mục tiêu đầu vào, nơi tiêu thụ sản phẩm đầu ra, chất lượng số lượng, giá…Sự thỏa thuận đó đảm bảo sự bình đẳng thực sự của các bên, thể hiện ý chí nguyện vọng của họ. Hợp đồng luôn phản ánh những đòi hỏi, những điều kiện cụ thể của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng kinh tế. Rõ ràng hợp đồng kinh tế là công cụ của các nhà kinh doanh chứ không phải công cụ của nhà nước như trước đây. Vì thông qua việc đàm phán giao kết hợp đồng người ta có thể nắm được nhu cầu của thị trường về sản phẩm dịch vụ của mình và kiểm tra tính hiện thực của kế hoạch sản xuất kinh doanh. Hợp đồng kinh tế có tác dụng chuyển các quan hệ kinh tế khách quan thành các quan hệ pháp luật cụ thể cho nên nó trở thành hình thức pháp lý để hình thành quan hệ thị trường.
Hợp đồng kinh tế được giao kết đúng với pháp luật của nhà nước cho nên nó được coi là luật của các bên tham gia giao kết. Khi đã giao kết các bên phụ thuộc lẫn nhau, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích của các bên. Như vậy vai trò của hợp đồng kinh tế trong giai đoạn hiện nay khác với vai trò của hợp đồng kinh tế trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung bao cấp trước đây vì vây phải hiểu rõ vai trò bản chất của hợp đồng kinh tế mới có thể xây dựng được những quy định về hợp đồng kinh tế với những đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường.
1.2 Quá trình phát triển của pháp luật về hợp đồng đại lý
Trước khi có luật thương mại 1997, việc giao kết và thực hiện hợp đồng đại lý vẫn phải dựa trên các văn bản pháp luật chung về hợp đồng. Vì vậy việc nghiên cứu khái quát về hợp đồng đại lý thực chất là nghiên cứu về hợp đồng nói chung.
* Chế độ hợp đồng kinh tế trước pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989
Sau khi Miền bắc được hoàn toàn giải phóng thì cách mạng Việt nam chuyển sang một giai đoạn mới: xây dựng CNXH ở Miền bắc làm hậu phương vững chắc để chi viện cho Miền nam; thực hiện cuộc cách mạng dân chủ ở Miền nam. Trong thời kỳ quá độ này ta có nhiều thành phần kinh tế cùng đan xen tồn tại, kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể mới hình thành, kinh tế tư bản tư doanh còn chưa được cải tạo, kinh tế cá thể vẫn còn tồn tại. Để điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế, Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về hợp đồng trong hoạt động kinh doanh ban hành kèm theo Nghị định số 735/TTg ngày 10/4/1956. Việc thi hành điều lệ tạm thời về hợp đồng trong hoạt động kinh doanh đã góp phần vào công việc khôi phục và phát triển kinh tế đất nước, động viên sự đóng góp của các thành phần kinh tế. Có thể nói điều lệ tạm thời này là văn bản pháp luật đầu tiên đặt nền móng cho sự ra đời của chế độ hợp đồng kinh tế ở nước ta.
Năm 1960 khi mà chúng ta đã căn bản hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN và mở đầu cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Lúc bấy giờ trong nền kinh tế về cơ bản chỉ tổn tại hai thành phần kinh tế là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Hoạt động kinh tế phải tuân theo kế hoạch thống nhất của nhà nước. Trong điều kiện đó, Chính phủ đã ban hành Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế kèm theo Nghị định số 04/TTg ngày 4/1/1960 để thay thế điều lệ cũ. Có thể nói đây là sự ra đời của chế độ hợp đồng kinh tế ở nước ta. Hợp đồng kinh tế nói trong điều lệ tạm thời này là hoạt động sản xuất về cung ứng và tiêu thụ hàng hóa về vận tải, bao thầu xây dựng…Cở sở để ký kết hợp đồng kinh tế là chỉ tiêu kế hoạch. Theo đó, hợp đồng kinh tế chỉ tồn tại trong khu vực kinh tế quốc doanh.
Điều lệ tạm thời số 375/TTg được áp dụng đến năm 1975. Ngày 10/3/1975 Chính phủ đã ban hành điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế kèm theo Nghị định số 54-CP của Chính phủ. Điều lệ này tồn tại được 15 năm trong giai đoạn kế hoạch hóa cao độ của nước ta. Đến năm 1986 Đại hội Đảng đề ra đường lối cải cách sâu rộng cả về kinh tế, xã hội mà trước tiên là cải cách nền kinh tế. Vì vậy điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định số 54 không còn phù hợp nữa, đòi hỏi phải có một văn bản pháp luật mới thay thế.
* Giai đoạn từ năm 1989 đến 2005
Ngày 25/5/1989, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế được ban hành, và là văn bản pháp luật đã điều chỉnh quan hệ kinh tế một cách chung nhất trong bối cảnh những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Các văn bản được ban hành sau đó như Nghị định 17/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Quyết định số 18/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh và nhiều văn bản khác hướng dẫn của cơ quan có liên quan hình thành nên một hệ thống pháp luật về hợp đồng kinh tế. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày càng tỏ ra không phù hợp với sự sôi động của nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy cũng đã có nhiều quan điểm khác nhau về sự tồn tại, sửa đổi thay vì bỏ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế hoặc đưa ra những chế định hợp đồng trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế vào Bộ luật dân sự.
Năm 1995, Quốc hội đã thông qua Bộ Luật dân sự với 838 điều, đánh dấu một bước quan trọng vì xét về đối tượng điều chỉnh phạm vi áp dụng đến nội dung cũng như kỹ thuật lập pháp, có thể nói Bộ luật dân sự đã góp phần vô cùng quan trọng vào việc thực hiện chính sách đổi mới và nhất là việc dân sự hoá các quan hệ xã hôi vốn đã được hành chính hoá trong nhiều năm duy trì cơ chế quản lý tập trung kế hoạch hoá, nhất là các quy định về chế độ hợp đồng.
Hoạt động đại lý trong nền kinh tế thị trường diễn ra ngày càng sôi động, chính vì vậy mà Chính phủ ban hành Nghị định 25/CP ngày 25/4/1996 về quy chế đại lý mua bán hàng hoá để điều chỉnh các hợp đồng đại lý. Từ giai đoạn này mới có một văn bản pháp luật riêng rã điều chỉnh hoạt động đại lý. Còn trước đó lĩnh vực này cũng được các quy định của hợp đồng kinh tế điều chỉnh. Nhưng hoạt động thương mại ngày càng phát triển mạnh mẽ đòi hỏi phải có một văn bản pháp luật riêng điều chỉnh.
Để đáp ứng nhu cầu mới của nền kinh tế, Luật thương mại đã được Quốc hội thông qua ngày 10/5/1997 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1998: Trong đó có quy định về hợp đồng đại lý. Về bản chất, Luật thương mại sẽ bổ sung cho Bộ luật dân sự. Do vậy, các quy định của hợp đồng thương mại trong Luật thương mại được xây dựng và cụ thể hoá trên các nguyên tắc của hợp đồng dân sự. Sau hơn 7 năm có hiệu lực áp dụng, Luật thương mại cũng đã bộc lộ nhiều bất cập và thiếu đồng bộ cần phải sửa đổi.
* Giai đoạn 2005 – nay
Đây là giai đoạn mà nước ta có nhiều thay đổi nhất và cũng là gai đoạn mở cửa hội nhập mạnh mẽ nhất của nền kinh tế nước ta. Trong giai đoạn này, để hội nhập và giao lưu với thế giới chúng ta gần như đã phải thay đổi và hoàn thiện toàn bộ pháp luật của mình. Hàng loạt các đạo luật mới được ban hành và thay thế. Trong đó có sự thay đổi hai văn bản pháp luật đáng chú ý, đó là sự thay thể Bộ luật dân sự năm 1995 bằng Bộ luật dân sự mới có hiệu lực vào năm 2005 và Luật thương mại 1997 được thay thể bằng Luật thương mại mới có hiệu lực vào năm 2006. Hai văn bản luật này tuy mới đi vào thực tế nhưng đã chứng minh sự ưu việt hơn hẳn các văn bản pháp luật trước đó. Trước đây các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh vô cùng phức tạp, rắc rối. Các văn bản pháp luật chồng chéo nhau, tuy cùng điều chỉnh một họat động kinh tế (Luật thương mại 1997, Luật Doanh nghiệp Nhà Nước 2003, Luật hợp tác xã 2003, Pháp Lệnh hợp đồng kinh tế 1989,…). Nhưng từ khi hai văn bản pháp luật trên được ban hành, kéo theo đó là sự hết hiệu lực của các đạo luật cũ ở trên. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, tính ưu việt được thể hiện rõ nét nhất với việc: Luật thương mại đã điều chỉnh được hầu hết các quan hệ kinh doanh thương mại phát sinh trong thời kì mới. Trong hoạt động đại lý, với Luật thương mại cũ thì chỉ có đại lý bán hàng, còn Luật thương mại mới hoạt động đại lý đã được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực hàng hoá dịch vụ và các hoạt động khác mang tính thương mại. Như vậy phạm vi của hoạt động kinh doanh thương mại đã được mở rộng tối đa trong giai đoạn hiện tại nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh của các chủ thể.
1.3 Khái quát về đại lý thương mại
Theo điều 3 Luật thương mại hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Hoạt động đại lý cũng là một trong các hoạt động thương mại do đó cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại.
Theo điều 166 Luật thương mại thì đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao.
Chủ thể của hợp đồng đại lý, theo điều 167 Luật thương mại thì bao gồm bên giao đại lý và bên đại lý. Trong đó, bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hoá cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân uỷ quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý cung ứng dịch vụ. Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hoá để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lý mua hoặc là bên nhận uỷ quyền cung ứng dịch vụ.
Phương thức đại lý có một số khác biệt căn bản với các phương thức khác. Bên giao đại lý không phải là người sử dụng hàng hoá, dịch vụ của bên đại lý. Hàng hoá, dịch vụ được giao cho bên đại lý để cung cấp cho người thứ ba nhưng khi giao hàng thì hàng hoá, dịch vụ vẫn thuộc sở hữu của bên đại lý nếu không có thoả thuận khác. Như vậy, đại lý là trung gian giữa người mua và người bán.
Bên giao đại lý được hưởng thù lao từ bên giao đại lý qua việc bán hàng, cung cấp dịch vụ, khoản thù lao này chủ yếu dưới hình thức là hoa hồng. Như vậy, số tiền thù lao này cao hay thấp phụ thuộc vào số lượng hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ của bên đại lý. Ngoài ra để khuyến khích các đại lý bên giao đại lý còn có các phần thưởng, sự hỗ trợ để các đại lý hoạt động tốt. Bên đại lý phải thoả mãn cơ sở vật chất cũng như kênh phân phối sản phẩm và các điều kiện khác nếu có, vì đại lý với tư cách là người đại diện của bên giao đại lý đối với khách hàng, họ phải bảo đảm được uy tín và hình ảnh của bên giao đại lý đối với khách hàng.
Theo điều 169 Luật thương mại 2005, quy định 3 hình thức đại lý. Cụ thể:
* Đại lý bao tiêu là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán trọn vẹn một khối lượng hàng hoá hoặc cung ứng đầy đủ một dịch vụ cho bên giao đại lý.
* Đại lý độc quyền là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định bên giao đại lý chỉ giao cho một đại lý mua, bán một hoặc một số mặt hàng hoặc cung ứng một hoặc một số loại dịch vụ nhất định.
* Tổng đại lý mua bán hoá, cung ứng dịch vụ là hình thức đại lý mà bên đại lý tổ chức một hệ thống đại lý trực thuộc để thực hiện việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Tổng đại lý đại diện cho hệ thống đại lý trực thuộc. Các đại lý trực thuộc hoạt động dưới sự quản lý của tổng đại lý và với danh nghĩa của tổng đại lý
Ngoài ra còn có các hình thức đại lý khác do các bên tự thoả thuận.
1.4 Những điểm mới về hợp đồng đại lý trong Luật thương mại 2005
Có thể nói luật thương mại 2005 ra đời đã đưa hạt động thương mại lên đúng vị trí của nó, điểu này được thể hiện rất rõ trong phạm vi điều chỉnh của nó. Theo Luật thương mại 2005 phạm vi áp dụng là tất cả các hoạt động thương mại phát sinh bên trong và bên ngoài lãnh thổ Việt nam miễm là các bên thoả thuận áp dụng nó, chủ thể tham gia có thể là các cá nhân hoạt động thương mại một cách thường xuyên và độc lập không cần có đăng kí kinh doanh. Còn Luật thượng mại 1997 chỉ có phạm vi và đối tượng áp dụng vô cùng nhỏ hẹp trong lãnh thổ Việt nam và để kí kết hợp đồng thì các chủ thể phải có đăng kí kinh doanh.
Còn trong hoạt động đại lý: Cụm từ “Đại lý mua bán hàng hoá” được thay thế bàng cụm từ “Đại lý thương mại”. Cụm từ này đã bao quát hầu hết sự thay đổi trong hoạt động đại lý trong Luật thương mại mới. Theo luật thương mại 2005, đối tượng điều chỉnh của hoạt động đại lý không chỉ dừng lại ở những hàng hoá hữu hình nữa, mà đã mở rộng ra các lĩnh vực dịch vụ. Đây có thể là sự thay đổi quan trọng nhất, sự thay đổi này chứng tỏ vai trò của hoạt động dịch vụ ngày càng được phát triển mạnh mẽ. Còn các hoạt động sản xuất, mua bán…không còn chiếm vị trí độc tôn như trước nữa. Hiện nay xu thế chung của thế giới là phát triển nền công nghiệp dịch vụ thay thế cho công nghiệp sản xuất.
Ngoài ra trong Luật thương mại còn có rất nhiều điểm