Chỉ định và kỹ thuật mổ lỗ đái lệch thấp bằng phẫu thuật hai thì kinh nghiệm ở 42 bệnh nhân

Mục tiêu: Phẫu thuật hai thì được chỉ định cho lỗ đái lệch thấp thể nặng. Mục tiêu: Chỉ định mổ chữa lỗ đái lệch thấp thể bìu‐đáy chậu bằng phẫu thuật hai thì. Trình bày kỹ thuật mổ làm thẳng và chuyển gốc dương vật về vị trí bình thường. Trình bày kỹ thuật mổ tạo hình niệu đạo và kết quả. Phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân lỗ đái lệch thấp thể bìu – đáy chậu có gốc dương vật ở thấp hay dương vật nhỏ. Phương pháp nghiên cứu hồi cứu cắt ngang mô tả. Thời gian: Từ 06/ 2000 tới 10/ 2012. Mổ thì một: Làm thẳng và chuyển gốc dương vật về đúng vị trí bình thường. Mổ thì hai: Tạo niệu đạo. Kết quả: Trong thời gian từ 06/2000 đến 10/2012, có 42 bệnh nhân được phẫu thuật. Tuổi trung bình thì một: 5,4 tuổi. Thể bệnh: lỗ đái lệch thấp thể bìu: 26 bệnh nhân, thể đáy chậu: 16 bệnh nhân. Trong đó: Dương vật nhỏ là 4 bệnh nhân, gốc dương vật ở vị trí thấp là 14 bệnh nhân, dương vật nhỏ và gốc dương vật ở vị trí thấp là 24 bệnh nhân. Số bệnh nhân điều trị HCG sau mổ là 27 bệnh nhân, 35 bệnh nhân đã được mổ tạo niệu đạo. Tuổi trung bình là: 6,1 tuổi. Kết quả: Thành công ở 29 bệnh nhân (82,9%), biến chứng (rò, hẹp niệu đạo) ở 6 bệnh nhân (17,1 %). Kết quả trên được theo dõi từ 6 tháng đến 8 năm. Kết luận: Dị tật lỗ đái lệch thấp chủ yếu được chữa bằng phẫu thuật một thì nhưng nên chỉ định mổ hai thì khi lỗ đái lệch thấp thể bìu hay đáy chậu mà gốc dương vật ở vị trí thấp, thân dương vật nhỏ và nên mổ thì một khi bệnh nhân từ 6 ‐ 12 tháng tuổi. Thì hai mổ tạo niệu đạo nên sau thì một ít nhất một năm

pdf5 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 192 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chỉ định và kỹ thuật mổ lỗ đái lệch thấp bằng phẫu thuật hai thì kinh nghiệm ở 42 bệnh nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Ngoại Nhi  164 CHỈ ĐỊNH VÀ KỸ THUẬT MỔ LỖ ĐÁI LỆCH THẤP   BẰNG PHẪU THUẬT HAI THÌ KINH NGHIỆM Ở 42 BỆNH NHÂN  Trần Ngọc Bích*  TÓM TẮT  Mục tiêu: Phẫu thuật hai thì được chỉ định cho lỗ đái lệch thấp thể nặng. Mục tiêu: Chỉ định mổ chữa lỗ đái  lệch thấp thể bìu‐đáy chậu bằng phẫu thuật hai thì. Trình bày kỹ thuật mổ làm thẳng và chuyển gốc dương vật  về vị trí bình thường. Trình bày kỹ thuật mổ tạo hình niệu đạo và kết quả.  Phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân lỗ đái lệch thấp thể bìu – đáy chậu có gốc dương vật ở thấp hay  dương vật nhỏ. Phương pháp nghiên cứu hồi cứu cắt ngang mô tả. Thời gian: Từ 06/ 2000 tới 10/ 2012. Mổ thì  một: Làm thẳng và chuyển gốc dương vật về đúng vị trí bình thường. Mổ thì hai: Tạo niệu đạo.   Kết quả: Trong thời gian từ 06/2000 đến 10/2012, có 42 bệnh nhân được phẫu thuật. Tuổi trung bình thì  một: 5,4 tuổi. Thể bệnh: lỗ đái lệch thấp thể bìu: 26 bệnh nhân, thể đáy chậu: 16 bệnh nhân. Trong đó: Dương vật  nhỏ là 4 bệnh nhân, gốc dương vật ở vị trí thấp là 14 bệnh nhân, dương vật nhỏ và gốc dương vật ở vị trí thấp là  24 bệnh nhân. Số bệnh nhân điều trị HCG sau mổ là 27 bệnh nhân, 35 bệnh nhân đã được mổ tạo niệu đạo. Tuổi  trung bình là: 6,1 tuổi. Kết quả: Thành công ở 29 bệnh nhân (82,9%), biến chứng (rò, hẹp niệu đạo) ở 6 bệnh  nhân (17,1 %). Kết quả trên được theo dõi từ 6 tháng đến 8 năm.  Kết luận: Dị tật lỗ đái lệch thấp chủ yếu được chữa bằng phẫu thuật một thì nhưng nên chỉ định mổ hai thì  khi lỗ đái lệch thấp thể bìu hay đáy chậu mà gốc dương vật ở vị trí thấp, thân dương vật nhỏ và nên mổ thì một  khi bệnh nhân từ 6 ‐ 12 tháng tuổi. Thì hai mổ tạo niệu đạo nên sau thì một ít nhất một năm.  Từ khóa: Lỗ đái lệch thấp.  ABSTRACT   INDICATION AND TECHNIQUE OF HYPOSPADIAS CORRECTION   BY TWO STAGE OPERATION EXPERIENCE ON 42 CASES  Tran Ngoc Bich * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 164 ‐ 168  Objectives: Two stage operation were  indicated  for severe hypopadias repair. Objectives: To  indicate  the  peno‐scrotal  hypospadias  correction  by  two  stage  operation.  To  present  the  technique  of  transposition  and  straightening of the penis. To present the technique of urethroplasty and the results.  Methods: Patients suffered perineo‐ scrotal hypopadias which the penis was small and in the low position.  Methods: Retrospective, cross – sectional descriptive study. Duration of study: From June 2000 to October 2012  at pediatric  surgical department  in Viet Duc Hospital. The  first  stage:  transposition and  straightening of  the  penis. The second stage: urethroplasty.   Results: 42 patients. Average age of the first stage: 5.4 years old. Hypospadias type: perineal hypospadias in  16 patients, scrotal hypospadias in 26 patients. Among them, the penis was small and in the right position in 4  patients,  the penis was  in  the  low position  in 14 patients,  the penis was  small and  in  the  low position  in 24  patients. Treatment HCG in 27 patients. Urethroplasty was performed in 34 patients, average age: 6.1 years old.  Results of urethrolasty in 35 patients: success in 29 patients. (82.9%); complications in 6 patients (4 stenosis of  anastomosis and 2 urethral fistula). (17.1%). The following up of results from 6 months to 8 years.  * Bệnh viện HN Việt‐Đức  Tác giả liên lạc: PGS.TS Trần Ngọc Bích   ĐT: 0912047958   Email: tranbichvd@gmail.com  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Nhi  165 Conclusion: Most of hypospadias type can be corrected by one stage operation but it should be treated by  two stage operation in the case of perineo ‐ scrotal hypospadias which the penis is small and in the low position.  The  first stage should be performed at age of 6  to 12 months. The second stage, urethroplasty should be done  about one year later.  Keys words: Hypospadias.  ĐẶT VẤN ĐỀ  Trước  năm  1980,  dị  tật  lỗ  đái  lệch  thấp  (LĐLT) được mổ bằng các phương pháp nhiều  thì,  từ 2 đến 4  thì mổ. Mỗi  thì mổ hay mỗi  lần  mổ cách nhau từ sáu tháng tới một năm. Từ năm  1980  trở  lại  đây, phần  lớn  các  thể  bệnh  lỗ  đái  lệch  thấp  đều  được mổ  chữa bằng phẫu  thuật  một  thì:  làm dương vật  thẳng  trục và  tạo hình  niệu đạo ngay(1). Từ năm 1984 tới nay, chúng tôi  đã bắt đầu mổ bằng phương pháp một  thì cho  tất cả các thể bệnh LĐLT(5,6,8,10) Tuy nhiên chúng  tôi cũng đã tiến hành phẫu thuật hai thì cho một  số bệnh nhân bị LĐLT thể bìu và thể đáy chậu:  Thì một làm thằng và đưa gốc dương vật về vị  trí  bình  thường,  thì  hai  khoảng  sau  hơn một  năm mới tạo hình niệu đạo. Chúng tôi thực hiện  nghiên cứu này để nêu  lên chỉ định mổ hai  thì  và kỹ thuật mổ của chúng tôi.  Mục tiêu nghiên cứu  Chỉ  định mổ  chữa  lỗ  đái  lệch  thấp  bằng  phẫu thuật hai thì. Trình bày kỹ thuật mổ làm  thẳng và chuyển gốc dương vật về vị  trí bình  thường. Trình bày kỹ  thuật mổ  tạo hình niệu  đạo và kết quả.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu  Các  bệnh  nhân  LĐLT  thể  bìu  và  thể  đáy  chậu được mổ bằng phẫu thuật hai thì tại khoa  Phẫu  thuật  Nhi  bệnh  viện  Việt  Đức,  do một  phẫu thuật viên mổ chính (BS Trần Ngọc Bích).  Phương pháp nghiên cứu  Hồi cứu, cắt ngang mô tả.  Thời gian nghiên cứu  Từ tháng 6 năm 2000 tới tháng 10 năm 2012.  Nội dung nghiên cứu  Chỉ định mổ hai  thì: Lỗ đái  thấp  thể bìu ½  sau và thể đáy chậu, gốc dương vật ở vị trí thấp  hay dương vật nhỏ.  Kỹ thuật mổ thì một:   Nếu  dương  vật  nhỏ,  cong  gục  vào  bìu  nhưng gốc dương vật vẫn ở vị trí bình thường:  Cắt hết  tổ  chức xơ ở mặt dưới dương vật, bảo  tồn bao qui đầu   Nếu  dương  vật  có  gốc  dương  vật  ở  vị  trí  thấp hơn bình thường: Cắt hết tổ chức xơ ở mặt  dưới dương vật, chuyển gốc dương vật về vị trí  bình thường, bảo tồn bao qui đầu nhưng chuyển  đủ da từ bìu lên che phủ thân dương vật.   Tất  cả  các  bệnh  nhân  được  đặt  ống  thông  qua niệu đạo vào bàng quang và lưu ống 7 ngày.  Ra viện sau mổ 7 ngày.  Tất cả các bệnh nhân có thân dương vật nhỏ  thì sau mổ trên 6 tháng sẽ điều trị thêm HCG để  làm dương vật to và dài hơn.  Chỉ định mổ thì hai: Sau thì một khoảng hơn  1 năm.   Kỹ thuật mổ: Có 2 cách tạo hình niệu đạo.  Tạo niệu đạo 2 ống: Tạo niệu đạo dương vật  bằng vạt niêm mạc bao qui  đầu  tự do hay vạt  hình đảo và tạo niệu đạo bìu bằng vạt da ở giữa  bìu. Hai ống niệu đạo dương vật và bìu mới tạo  nối với nhau tại gốc dương vật.   Tạo  niệu  đạo một  ống:  Bằng một  vạt  da  ‐  niêm mạc bao qui đầu tự do hay vạt da dày tự  do tạo toàn bộ niệu đạo thiếu.  Về chỉ định:   Vạt da ‐ niêm mạc bao qui đầu thường được  chỉ định khi lỗ đái thấp ở trên ½ bìu phía trên.  Vạt da dày tự do chỉ định cho lỗ đái thấp ở  đáy chậu và ½ sau bìu. Kỹ  thuật này được chỉ  định khi da‐niêm mạc bao qui đầu không đủ để  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Ngoại Nhi  166 tạo một ống niệu đạo và da bìu có sẹo dày, có  nang lông và tuyến bã.  Ống dẫn lưu nước tiểu đặt qua niệu đạo vào  bàng quang, để lưu ống 8‐10 ngày  Kháng sinh được sử dụng trong 10 ngày sau  mổ, chúng tôi thường dùng 2 loại kháng sinh kết  hợp là Amikacine và Augmentin.  KẾT QUẢ   42 bệnh nhân được mổ theo phương pháp 2  thì trong tổng số 1202 bệnh nhân bị LĐLT được  mổ trong 12 năm.   Tuổi trung bình mổ thì một là 5,4 tuổi.  Thể bệnh: Lỗ đái  lệch thấp thể bìu: 26 bệnh  nhân,  thể đáy chậu: 16 bệnh nhân. Trong số 42  bệnh  nhân  này:  dương  vật  nhỏ,  ở  vị  trí  bình  thường là 4 bệnh nhân. Dương vật ở vị trí thấp  hơn  bình  thường  là  14  bệnh  nhân. Dương  vật  nhỏ,  ở vị  trí  thấp hơn bình  thường  là  24 bệnh  nhân.  Kỹ  thuật mổ  thì một  đã  thực  hiện: Cắt  tổ  chức  xơ  ở mặt  dưới  dương  vật  để  làm  thẳng  dương vật:  4 bệnh nhân. Cắt hết  tổ  chức  xơ  ở  mặt dưới dương vật, chuyển gốc dương vật về  vị trí bình thường: 38 bệnh nhân.  Kết  quả:  Theo  dõi  dưới  1  năm  là  3  bệnh  nhân,  từ  1  đến  2 năm  là  35 bệnh nhân,  trên  2  năm là 4 bệnh nhân.  Kết quả tốt đạt: 41 bệnh nhân (97,6 %), trung  bình đạt 1 bệnh nhân  (2,4%), không có kết quả  xấu.  Số bệnh nhân  được  điều  trị HCG:  27 bệnh  nhân.  Mổ  thì hai:  35  bệnh nhân  đã  được mổ  tạo  niệu đạo. Trong số 35 bệnh nhân trên, có 3 bệnh  nhân  bị  lưỡng  giới  thật  và  1  bệnh  nhân  nam  lưỡng giới giả được mổ tạo nam.  Tuổi trung bình là: 6,1 tuổi.   Thể bệnh: Lỗ đái lệch thấp thể bìu ở ½ sau:  22 bệnh nhân, thể đáy chậu: 13 bệnh nhân.  Kỹ thuật tạo niệu đạo và kết quả:   Tạo niệu đạo bằng một vạt da dày tự do ở 7  bệnh nhân: Thành công 6, biến chứng 1 (rò niệu  đạo).  Tạo niệu đạo bằng vạt niêm mạc bao qui đầu  hình  đảo  kết  hợp  vạt  da  bìu  ở  14  bệnh  nhân:  thành công 11, biến chứng 3 (hẹp miệng nối niệu  đạo ở 3 bệnh nhân).  Tạo niệu đạo bằng vạt niêm mạc bao qui đầu  tự do kết hợp vạt da bìu ở 10 bệnh nhân: thành  công 8, biến chứng 2 (hẹp miệng nối niệu đạo 1  bệnh nhân và rò niệu đạo 1 bệnh nhân).  Tạo  niệu  đạo  bằng một  vạt  niêm mạc  bao  qui đầu tự do thành công cho 4 bệnh nhân.  Tỷ  lệ  thành  công  chung  là  28  bệnh  nhân  (82,9%), biến chứng  là 6 bệnh nhân  (17,1%)  (rò  niệu đạo 2 bệnh nhân, hẹp niệu đạo ở miệng nối  4 bệnh nhân).  Kết quả trên được theo dõi từ 6 tháng đến 8  năm.  BÀN LUẬN  Về chỉ định mổ hai thì  Phương pháp mổ hai  thì  chữa dị  tật LĐLT  được thực hiện chủ yếu từ trước năm 1980 cho  LĐLT  thể dương vật,  thể bìu,  thể đáy  chậu. Ở  thể bìu  ‐ đáy chậu, còn có nhiều phương pháp  mổ ba  thì hoặc hơn nữa. Lý do mổ nhiều  thì ở  LĐLT thể bìu  ‐ đáy chậu vì độ cong dương vật  nặng, vì ống niệu đạo phải tạo hình dài, vì tình  trạng thiếu da ở mặt dưới dương vật và ở cả bìu.  Do vậy, mỗi thì mổ chỉ thực hiện được một phần  của yêu cầu điều trị là làm dương vật thẳng và  tạo một đoạn ống niệu đạo dài  từ bìu hay đáy  chậu  lên  tới đỉnh qui đầu. Từ năm 1980  trở  lại  đây, những tiến bộ về kỹ thuật và phương tiện  mổ,  điều  kiện  tốt  cho  điều  trị  sau mổ mà  các  phương pháp phẫu  thuật một  thì dần  thay  thế  các phương pháp mổ nhiều  thì. Tuy nhiên vẫn  còn nhiều phẫu  thuật  viên  vẫn  áp dụng phẫu  thuật  nhiều  thì  cho  LĐLT  thể  dương  vật,  bìu,  đáy  chậu và  thể  ẩn. Như vậy, vấn  đề mổ một  hay nhiều  thì phụ  thuộc vào mức độ nặng nhẹ  của dị tật LĐLT, của các điều kiện phương tiện  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Nhi  167 mổ  và  cả  trình  độ  cùng  quan  điểm  của  phẫu  thuật viên.  Bản  thân  chúng  tôi  cũng  thực  hiện  phẫu  thuật một  thì  cho  tất  cả  các  thể bệnh LĐLT  từ  năm 1984(9,8). Qua việc thực hiện kỹ thuật mổ và  qua theo dõi kết quả sau mổ sớm cũng như lâu  dài(8),  chúng  tôi  nhận  thấy phẫu  thuật một  thì  vẫn là loại phẫu thuật có thể áp dụng được cho  tất cả các thể bệnh(7). Tuy nhiên, chúng tôi thấy:  để có được kết quả tốt như mong muốn thì phẫu  thuật hai thì vẫn nên được áp dụng trong những  tình trạng hay mức độ nặng của dị tật LĐLT thể  bìu,  thể đáy chậu như dương vật nhỏ mà mức  độ cong dương vật nặng hay gốc dương vật ở vị  trí  thấp hơn bình  thường. Vì với mức độ dị  tật  như vậy, nếu mổ một  thì sẽ khó mà  thực hiện  được việc vừa làm thẳng và chuyển gốc dương  vật về vị trí bình thường, vừa tạo niệu đạo ngay  được. Lý do khó khăn là chất liệu tạo hình niệu  đạo và che phủ niệu đạo, dương vật và cần phải  nắm  vững  kỹ  thuật  chuyển  vạt  da  che  phủ  dương vật sau mổ(5). Nếu  lấy da niêm mạc bao  qui đầu tạo hình niệu đạo thì cũng thường thiếu  độ dài  cần  có.  Sau mổ, da  bao  qui  đầu  và da  dương vật còn lại không đủ che phủ dương vật,  da  bìu  chuyển  lên  che  phủ  thường  bị  phù  nề  nhiều nên ảnh hưởng tới kết quả tạo niệu đạo và  nguy cơ rò, hẹp niệu đạo rất cao. Còn với LĐLT  thể bìu – đáy chậu, khi dương vật có gốc ở đúng  vị  trí bình  thường nhưng dương vật nhỏ, cong  mà phẫu thuật một thì ngay thì tỷ lệ thành công  thấp vì ống niệu đạo tạo hình thường bé. Nhưng  nếu điều trị HCG trước để dương vật to hơn rồi  mổ thì mức độ cong của dương vật sẽ nặng hơn.  Vì những  lý do  trên mà chúng  tôi chỉ định mổ  hai  thì  cho dị  tật LĐLT  thể  bìu‐  đáy  chậu mà  dương  vật  nhỏ  và  thể  bìu  đáy  chậu  mà  gốc  dương vật ở vị trí thấp hơn bình thường. Mổ thì  một để  làm thẳng và chuyển gốc dương vật về  vị trí bình thường và mổ thì hai để tạo hình niệu  đạo. Nếu dương vật nhỏ  thì  điều  trị HCG  sau  mổ thì một.   Về chỉ định tuổi mổ: Chúng tôi thấy nên mổ  thì một  khi  tuổi  bệnh  nhân  từ  6  tháng  tới  12  tháng. Nếu dương vật nhỏ  thì  điều  trị HCG  ở  tuổi 18 – 20  tháng. Chỉ  định mổ  thì hai  để  tạo  hình niệu đạo lúc bệnh nhân 2 ‐ 3 tuổi.  Về kỹ thuật mổ thì một  Kỹ thuật mổ cắt xơ để làm thẳng dương vật  đơn giản, dễ thực hiện nhưng cần lưu ý là phải  phẫu tích cắt hết tổ chức xơ ở mặt dưới dương  vật từ rãnh qui đầu tới vị trí niệu đạo có vật xốp.  Kỹ thuật mổ chuyển gốc dương vật cần chú  ý đường rạch da và cách chuyển vạt da. Đường  rạch da vừa đủ và khi phẫu tích tách vạt da thì  phải bảo vệ lớp tổ chức dưới da giàu mạch máu.  Hai vạt da bìu  ở hai bên gốc dương vật  được  chuyển  lên  che  phủ  sườn  bên  và  mặt  dưới  dương  vật. Hai  vạt  da mu  bìu  phía  trên  gốc  dương vật chuyển xuống gốc dương vật ở mặt  dưới  có  tác dụng giữ  cho dương vật không bị  kéo vào bìu.   Khi mổ nên gây cương dương vật chủ động  để  đánh giá mức  độ  cong dương vật  trước và  sau mổ(2,6).  Kỹ thuật mổ thì hai và kết quả   Kính  nghiệm  của  chúng  tôi  là  ưu  tiên  lấy  chất liệu tốt để tạo niệu đạo: Sử dụng tối đa bao  qui  đầu và da dương vật, vì da dương vật và  bao qui  đầu có  độ  chun dãn  tốt, mỏng nên dễ  sống khi ghép và không mọc lông. Nếu sau khi  lấy nhiều da dương vật bao qui đầu tạo niệu đạo  mà  thiếu da che phủ dương vật  thì chuyển vạt  da bìu có chân nuôi lên. Do vậy nếu lỗ đái thấp  ở  giữa  bìu  thì  chúng  tôi  phẫu  tích  lấy  vạt  da  niêm mạc bao qui đầu với độ dài  tối đa để  tạo  một ống niệu đạo. Tạo một ống niêu đạo bằng  vạt  da  niêm mạc  bao  qui  đầu  thường  cho  kết  quả tốt vì chỉ có một miệng nối nên nguy cơ có  biến chứng như hẹp và rò miệng nối thấp. Để có  thể lấy được một vạt da‐niêm mạc bao qui đầu  có độ dài  tối đa  thì phải dùng vạt  tự do vì vạt  niêm mạc bao qui  đầu  có  cuống mạch  thường  chỉ đủ tạo niệu đạo dương vật(9). Từ hơn 20 năm  nay,  chúng  tôi  thường  sử  dụng  vạt  niêm mạc  bao qui đầu tự do để tạo niệu đạo và có kết quả  tốt(7).  Trong  nghiên  cứu  này,  chúng  tôi mổ  4  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Ngoại Nhi  168 bệnh nhân theo kỹ thuật này và đều có kết quả  tốt.  Khi lỗ đái thấp ở ½ sau bìu về phía gốc bìu  và đáy chậu thì khó tạo được niệu đạo bằng một  ống da niêm mạc bao qui đầu. Nếu vạt da giữa  bìu có chất lượng tốt thì chúng tôi tạo niệu đạo 2  ống  rồi nối với nhau. Khi  tạo niệu  đạo bằng 2  loại chất  liệu  thì dễ bị hẹp chỗ miệng nối niệu  đạo như kết quả qua theo dõi của chúng tôi. Một  vấn đề khác nữa  là rất khó đánh giá chính xác  khả năng mọc lông và tuyến bã ở da bìu trẻ nhỏ.  Vì vậy kỹ thuật tạo một ống niệu đạo bằng vạt  da dày  tự do  là một  sự  cân nhắc và  lựa  chọn.  Chúng tôi đã dùng vạt da dày tự do để tạo niệu  đạo từ năm 1985 và đã mổ ở một số  lượng  lớn  bệnh nhân và qua  theo dõi kết quả  lâu dài  thì  thấy  đây  cũng  là một  loại  chất  liệu  tốt  để  tạo  hình niệu đạo(8,4). Tuy nhiên, để có được kết quả  tốt thì phải tạo ống có đủ độ dài và rộng, sau mổ  tránh nhiễm khuẩn. Nguy cơ biến chứng sau mổ  thường là rò niệu đạo chỗ miệng nối. Vạt da dày  tự do cũng  được nhiều  tác giả  sử dụng  để  tạo  niệu đạo trong mổ chữa LĐLT(7).  Ngoài vạt niêm mạc bao qui đầu tự do, vạt  da dày tự do còn có vạt niêm mạc bàng quang(8)  và vạt niêm mạc miệng được dùng để tạo hình  niệu  đạo(10).  Trước  đây,  chúng  tôi  đã  sử  dụng  niêm mạc bàng quang để tạo niệu đạo nhưng tỷ  lệ biến chứng cao nên chúng tôi không sử dụng  nữa(8). Còn niêm mạc miệng thì nếu lấy một vạt  dài đủ để  tạo niệu đạo  từ đáy chậu hay ½ sau  bìu lên tới đỉnh qui đầu thì thật khó và kết quả  cũng  không  chắc  hơn  dùng  vạt  da  tự  do  nên  chúng tôi không sử dụng chất liệu này.   KẾT LUẬN  Dị tật LĐLT chủ yếu được chữa bằng phẫu  thuật một thì nhưng nên chỉ định mổ hai thì khi  lỗ  đái  lệch  thấp  thể  bìu hay  đáy  chậu mà  gốc  dương vật ở vị trí thấp, thân dương vật nhỏ và  nên mổ  thì một khi bệnh nhân  từ 6  ‐ 12  tháng  tuổi. Thì hai mổ tạo niệu đạo nên sau thì một ít  nhất một năm.   TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Coleman JW (1982). The bladder mucosal graft technique for  hypospadias repair. J. Urol, 125: pp 708 – 711.  2. Gittes RF (1974). Injection technique to induce penile erection.  Urology, 4: pp 473 – 476.  3. Nesbit RM (1965). Congenital curvature of phallus. Report of  three cases with desscription of corrective operation, J. Urol,  93: pp 230 – 232.  4. Trần Ngọc Bích (1996). Đánh giá kết quả dùng vạt da dầy tự  do trong mổ chữa dị tật lỗ đái lệch thấp và hẹp niệu đạo. Tạp  chí Ngoại khoa, 1996, 6: tr 20‐ 24.  5. Trần Ngọc Bích (2005). Nghiên cứu sử dụng vạt da‐ cân bìu  che phủ khuyết da dương vật. Y học thực hành, 506: tr 121‐  124.  6. Trần Ngọc Bích  (2006). Cong vẹo dương vật bẩm  sinh:  chỉ  định và chọn lựa – áp dụng kỹ thuật điều trị. Tạp chí thông  tin Y Dược Hà Nội, tr 56‐ 61.  7. Trần Ngọc Bích  (2009). Phẫu  thuật một  thì chữa  lỗ đái  lệch  thấp dùng mảnh ghép niêm mạc bao qui đầu tự do tạo niệu  đạo. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, *Tập 13*, 6: tr  158 ‐163.  8. Trần Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Thụ (1995). Đánh giá kết quả  của các kỹ thuật mổ chữa dị tật lỗ đái lệch thấp. Tạp chí Y học  thực hành, 6: tr 14‐ 16.  9. Trần  Ngọc  Bích,  Nguyễn  Xuân  Thụ,  Nguyễn  Bửu  Triều,  Nguyễn Mễ (1986). Điều trị lỗ đái lệch thấp ở bìu và đáy chậu  bằng phẫu thuật một thì. Tạp chí Ngoại khoa, 6: tr 12‐16.  10. Vũ Văn Ty, Nguyễn Đạo Thuấn, Phạm Hữu Đoàn, Lê Văn  Hiếu Nhân (2008). Kết quả tạo hình niệu đạo bằng niêm mạc  miệng ở 26 bệnh nhân hẹp niệu đạo trước. Y Học TP Hồ Chí  Minh, *Tập 12* Phụ bản của số 4, tr 135‐ 140.  Ngày nhận bài        01/07/2013.  Ngày phản biện nhận xét bài báo  22/07/2013.  Ngày bài báo được đăng:      15–09‐2013 
Tài liệu liên quan