Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp

Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, vấn đề xây dựng và triển khai hiệu quả chính phủ quản lý điện tử nói chung và đối với doanh nghiệp (government-to-business (G2B)) nói riêng đã và đang là một trong những vấn đề được chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm. Trên cơ sở khái niệm và mô hình phát triển của chính phủ quản lý điện tử, kết hợp với nguồn số liệu phỏng vấn sâu 9 nhà lãnh đạo doanh nghiệp ở TP HCM và số liệu thứ cấp từ các nguồn báo cáo công khai của Chính phủ cũng như từ Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, bài viết này đã phân tích thực tế việc sử dụng dịch vụ G2B của các các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, nhận định của doanh nghiệp về hiệu quả và những trở ngại chính khi sử dụng các dịch vụ G2B cũng được thu thập và phân tích. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện dịch vụ G2B cho chính phủ Việt Nam trong thời gian tới.

pdf13 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 443 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3 CHÍNH PHỦ QUẢN LÝ ĐIỆN TỬ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM: MÔ HÌNH LÝ THUYẾT, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GS. TS. Nguyễn Đông Phong TS. Lê Nhật Hạnh Trường Đại học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh Tóm tắt Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, vấn đề xây dựng và triển khai hiệu quả chính phủ quản lý điện tử nói chung và đối với doanh nghiệp (government-to-business (G2B)) nói riêng đã và đang là một trong những vấn đề được chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm. Trên cơ sở khái niệm và mô hình phát triển của chính phủ quản lý điện tử, kết hợp với nguồn số liệu phỏng vấn sâu 9 nhà lãnh đạo doanh nghiệp ở TP HCM và số liệu thứ cấp từ các nguồn báo cáo công khai của Chính phủ cũng như từ Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, bài viết này đã phân tích thực tế việc sử dụng dịch vụ G2B của các các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, nhận định của doanh nghiệp về hiệu quả và những trở ngại chính khi sử dụng các dịch vụ G2B cũng được thu thập và phân tích. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện dịch vụ G2B cho chính phủ Việt Nam trong thời gian tới. Từ khóa: Chính phủ điện tử, dịch vụ công cho doanh nghiệp, Việt Nam. 1. Đặt vấn đề Chính phủ điện tử (E-Government) đã trở thành thuật ngữ bao phủ gần như tất cả các ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (viết tắt là ICT) và làn sóng chính phủ điện tử đang gia tăng nhanh chóng thông qua các tổ chức công và hoạt động quản trị công trên toàn thế giới (Fang, 2002). Chính phủ điện tử tạo điều kiện cho sự gia tăng tương tác giữa các cơ quan nhà nước và phục vụ người dân, doanh nghiệp. Theo đó, chính phủ điện tử tồn tại bốn dạng dịch vụ chính, bao gồm: trao đổi giữa cơ quan nhà nước với nhau (G2G), trao đổi giữa cơ quan nhà nước với doanh nghiệp (G2B), trao đổi giữa cơ quan nhà nước với người dân (G2C) và trao đổi giữa cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức (G2E) (Torres, Pina, & cerete, 2006; Fang, 2002; Bộ Thông tin & Truyền thông, 2015). Ngày càng nhiều nghiên cứu và nhà hoạch định chính sách tập trung vào các vấn đề khác nhau của chính phủ điện tử, cũng như tìm kiếm sự đồng thuận về sáng kiến và khung kiến trúc chính phủ điện tử (Martins & Veiga 2018; Rokhman, 2011; Torres et al., 2006; Tung & Rieck, 2005; Joia, 2004; Gupta & Jana, 2003). Trong khi các nghiên cứu trên thế giới về mối quan hệ trao đổi giữa cơ quan nhà nước với người dân được thực hiện phổ biến, thì nghiên cứu về mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa chính phủ và công chức, viên chức, đặc biệt là giữa chính phủ với doanh nghiệp vẫn còn ít học giả quan tâm. Tại Việt Nam, trong những năm qua, Đảng, Chính phủ luôn quan tâm, coi trọng triển khai xây dựng Chính phủ điện tử, đặc biệt trong việc thực hiện dịch vụ công trực tuyến giữa chính phủ và doanh nghiệp (G2B). Chính phủ đã triển khai một số dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho doanh nghiệp như: đăng ký doanh nghiệp, kê khai thuế, nộp thuế, hải quan điện tử, bảo hiểm xã hội; một số bộ, ngành đã xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng; tại một số địa phương, hệ thống thông tin một cửa điện tử được đưa vào vận hành, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm của đội ngũ công chức (Chính 4 phủ, 2018). Việc xây dựng và hoàn thiện dịch vụ công trực tuyến giữa chính phủ và doanh nghiệp sẽ giúp môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp ngày càng minh bạch và thuận lợi hơn, đặc biệt cải thiện cung cấp các dịch vụ công của ngành thuế, bảo hiểm, sẽ giúp môi trường đầu tư kinh doanh Việt Nam tăng hạng đáng kể (V V, 2018). Bên cạnh đó, việc áp dụng hiệu quả các dịch vụ công trực tuyến giúp doanh nghiệp tiết kiệm đáng kể chi phí nhân lực và thời gian cũng như các chi phí không chính thức khác (VEC M, 2018), cũng như gia tăng các lợi ích cảm nhận khác cho doanh nghiệp, thay đổi một số quy trình trong kinh doanh giúp doanh nghiệp nâng cao lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh thương mại điện tử như hiện nay. Tuy nhiên, việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến giữa chính phủ và doanh nghiệp (G2B) ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế: các hệ thống thông tin dữ liệu còn cục bộ, chưa kết nối dữ liệu liên thông giữa các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là kết nối dữ liệu của ngành thuế, hải quan và bảo hiểm xã hội chưa được thực hiện; dịch vụ công trực tuyến được doanh nghiệp sử dụng nhiều nhất là khai báo thuế, tiếp theo là dịch vụ đăng ký kinh doanh, các dịch vụ khác như khai báo hải quan, thủ tục cấp giấy chấp nhận xuất xứ điện tử, thủ tục tàu biển còn rất hạn chế. Theo số liệu mới nhất từ Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VEC M, 2018) tính đến cuối năm 2017 tỷ lệ sử dụng dịch vụ G2B còn rất thấp, chỉ có 30% doanh nghiệp tra cứu thông tin trên các website cơ quan nhà nước năm 2017; việc giải quyết thủ tục hành chính và xử lý hồ sơ công việc còn mang nặng tính thủ công, giấy tờ, thậm chí có tới 27% doanh nghiệp điều tra chưa bao sử dụng dịch vụ G2B. Bên cạnh đó còn nhiều rào cản khác trong cơ chế đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin; việc triển khai ở một số nơi còn mang tính hình thức; việc xây dựng triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia, hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng phục vụ phát triển Chính phủ điện tử còn chậm; nhiều hệ thống thông tin đã triển khai còn chưa bảo đảm an toàn, an ninh thông tin (Chính phủ, 2018). Nhằm có cái nhìn tổng quát hơn về dịch vụ G2B nói chung, phần tiếp theo của bài viết sẽ trình bày sơ qua về khái niệm và mô hình chính phủ quản lý điện tử. Tiếp theo đó, để tìm hiểu sâu hơn về thực trạng sử dụng dịch vụ G2B, ngoài việc thu thập số liệu thứ cấp từ các nguồn báo cáo công khai của chính phủ cũng như từ Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, bài viết này còn sử dụng thêm số liệu từ việc phỏng vấn sâu 9 nhà lãnh đạo doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khác nhau trên địa bàn TP.HCM. Bên cạnh đó, việc phỏng vấn sâu còn nhằm thu thập thêm nhận định của doanh nghiệp về hiệu quả và những trở ngại chính khi sử dụng các dịch vụ G2B, từ đó đề xuất ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện dịch vụ G2B cho chính phủ Việt Nam trong thời gian tới. 2. Khái niệm và mô hình chính phủ quản lý điện tử 2.1. Khái niệm 2.1.1. Chính phủ điện tử (E-Government) Chính phủ điện tử là một thuật ngữ chung cho các dịch vụ dựa trên web từ các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ, và chính quyền địa phương. Trong Chính phủ điện tử, Chính phủ sử dụng công nghệ thông tin và đặc biệt là Internet để hỗ trợ các hoạt động của Chính phủ, gắn kết công dân và cung cấp các dịch vụ của Chính phủ. Sự tương tác có thể được thực hiện dưới dạng công dân truy cập thông tin, tiếp cận hồ sơ, hoặc thanh toán và nhiều hoạt động khác thông qua world-wide-web (Sharma & Gupta, 2003, Sharma, 2004, Sharma, 2006). Chính phủ điện tử được định nghĩa bởi các nguồn khác nhau như: 5 Định nghĩa của Ngân hàng thế giới (báo cáo của EM ): “Chính phủ điện tử đề cập đến việc sử dụng công nghệ thông tin của các cơ quan chính phủ, có khả năng chuyển đổi mối quan hệ với công dân, doanh nghiệp và các mục tiêu khác của Chính phủ. Những công nghệ này có thể phục vụ nhiều mục đích khác nhau: cung cấp dịch vụ của Chính phủ tốt hơn cho người dân, cải thiện sự tương tác với doanh nghiệp, nâng cao quyền công dân thông qua tiếp cận thông tin hoặc quản lý Chính phủ hiệu quả hơn. Lợi ích thu được có thể ít tham nhũng hơn, tăng tính minh bạch, thuận tiện hơn, tăng trưởng doanh thu và / hoặc giảm chi phí.” Định nghĩa của Liên hợp quốc (www.unpan.org) (báo cáo của EM ): “Chính phủ điện tử được định nghĩa là việc sử dụng Internet và world-wide-web để cung cấp thông tin và dịch vụ của Chính phủ tới công dân”. Định nghĩa của Tổ chức đối thoại kinh doanh toàn cầu về thương mại điện tử - GBDe (www.gbde.org) (báo cáo của EM ): “Chính phủ điện tử đề cập đến một tình huống trong đó các cơ quan hành chính, lập pháp và tư pháp (bao gồm cả chính quyền trung ương và địa phương) số hoá các hoạt động nội bộ và bên ngoài của họ và sử dụng các hệ thống mạng hiệu quả để nâng cao chất lượng tốt hơn trong việc cung cấp các dịch vụ công cộng.” Định nghĩa của Gartner Group: “Tối ưu hóa một cách liên tục trong cung cấp dịch vụ, sự tham gia của người dân và quản trị bằng cách chuyển đổi các mối quan hệ bên trong và bên ngoài thông qua công nghệ, Internet và phương tiện truyền thông mới.” Định nghĩa của Nhóm nghiên cứu về chính phủ điện tử trong thế giới đang phát triển (www.pacificcouncil.org): “Chính phủ điện tử là việc sử dụng các công nghệ thông tin và truyền thông (ICTs) để thúc đẩy hoạt động của Chính phủ ngày càng hiệu quả và hiệu suất hơn, tạo điều kiện cho các dịch vụ Chính phủ dễ tiếp cận hơn, cho phép truy cập thông tin phổ biến hơn và giúp cho Chính phủ chịu trách nhiệm nhiều hơn đối với công dân. Chính phủ điện tử có thể liên quan đến việc cung cấp dịch vụ thông qua Internet, điện thoại, trung tâm dịch vụ công (tự phục vụ hoặc tạo điều kiện bởi người khác), thiết bị không dây hoặc các hệ thống liên lạc khác.” Định nghĩa của UNESC (2005): “Chính phủ điện tử là việc sử dụng các công nghệ thông tin và truyền thông để thúc đẩy Chính phủ ngày càng hiệu quả và hiệu suất hơn, giúp Chính phủ dễ tiếp cận và có trách nhiệm hơn với công dân. Các đặc điểm của Chính phủ điện tử bao gồm: Cung cấp dịch vụ điện tử, quy trình làm việc điện tử, bỏ phiếu điện tử.” Định nghĩa của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ( ECD): “Chính phủ điện tử được định nghĩa như việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICTs), đặc biệt là Internet, để đạt được Chính phủ tốt hơn.” Mặc dù các định nghĩa về Chính phủ điện tử từ nhiều nguồn khác nhau nhưng đều có những điểm chung. Chính phủ điện tử liên quan đến việc sử dụng công nghệ thông tin và đặc biệt là Internet, để cải thiện việc cung cấp các dịch vụ của Chính phủ cho công dân, doanh nghiệp và các cơ quan chính phủ với nhau. Chính phủ điện tử cho phép công dân tương tác và nhận các dịch vụ từ Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ hoặc địa phương 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần. Chính phủ điện tử đang trong giai đoạn phát triển ban đầu. Hầu hết Chính phủ các quốc gia trên thế giới đã thực hiện hoặc đang thực hiện các sáng kiến cung cấp dịch vụ Chính phủ trực tuyến. Để tiềm năng của Chính phủ điện tử trở thành hiện thực, Chính phủ cần phải tái cấu trúc và chuyển đổi các quy trình hoạt động trước đây, từ đó chuyển 6 đổi toàn bộ các mối quan hệ giữa các cơ quan chính phủ với công dân, doanh nghiệp và giữa các cơ quan chính phủ với nhau (Leitner, 2003). 2.2. Các giai đoạn phát triển của Chính phủ điện tử Chính phủ điện tử thường trải qua các giai đoạn khác nhau từ lúc đăng thông tin trên trang web để thực hiện các giao dịch tới khi hoàn tất quá trình giao dịch để đem lại giá trị và lợi ích thật sự cho công dân. Việc phân chia các giai đoạn phát triển chính phủ điện tử nhằm xác định giai đoạn phát triển chính phủ điện tử của mỗi cơ quan, cũng như làm cơ sở xác định lộ trình, kế hoạch triển khai chính phủ điện tử đúng hướng, phù hợp với điều kiện, nhu cầu thực tế. Các tổ chức khác nhau có cách phân chia các giai đoạn phát triển chính phủ điện tử của riêng mình, trong đó nổi bật là cách phân chia của Gartner (một công ty tư vấn, nghiên cứu hàng đầu thế giới về công nghệ thông tin). Gartner đã xây dựng một mô hình chính phủ điện tử bốn giai đoạn có thể phục vụ như một tài liệu tham khảo cho các chính phủ để xây dựng một dự án phù hợp trong sự phát triển tổng thế của một chiến lược chính phủ điện tử. Mô hình này không hàm ý rằng tất cả các chính phủ phải trải qua tất cả các giai đoạn này. Vì các giai đoạn này cung cấp một khung lý thuyết, chúng không phụ thuộc vào nhau, cũng không yêu cầu có một giai đoạn phải hoàn thành trước khi một giai đoạn khác bắt đầu. Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3 Giai đoạn 4 Thông tin Tương tác Giao dịch Chuyển đổi Hiện diện Thực hiện quy trình Hoàn thành giao dịch Hoàn thành giao dịch Cung cấp các thông tin cơ bản về các cơ quan chính phủ như chức năng, nhiệm vụ, địa chỉ liên hệ, thời gian làm việc và có thể cung cấp thêm các văn bản liên quan đến xã hội Các trang thông tin điện tử của các cơ quan chính phủ cung cấp các chức năng tìm kiếm cơ bản, cho phép tải về các biểu mẫu điện tử, các đường liên kết với các trang thông tin điện tử liên quan, cũng như địa chỉ thư điện tử của các cơ quan, cán bộ chính phủ Các trang thông tin điện tử của các cơ quan chính phủ cho phép thực hiện hoàn chỉnh các dịch vụ, bao gồm việc nộp hồ sơ, xử lý hồ sơ, trả phí dịch vụ trực tuyến Ngoài việc thực hiện các chức năng trong giai đoạn 3, CPĐT giai đoạn này cung cấp cho người dân một điểm truy cập duy nhất tới các cơ quan chính phủ để thực hiện mọi giao dịch, các hoạt động của cơ quan chính phủ là minh bạch với người dân Hình 1: Mô hình Chính phủ điện tử Nguồn: Gartner (2000) 7 2.3. Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp (G2B) Trong G2B, Chính phủ giao dịch với doanh nghiệp như nhà cung cấp sử dụng Internet và các công nghệ thông tin và truyền thông khác. G2B bao gồm các giao dịch và tương tác hai chiều: Chính phủ với doanh nghiệp và doanh nghiệp với Chính phủ (B2G). Có rất nhiều dịch vụ khác nhau giữa Chính phủ và doanh nghiệp, bao gồm việc cung cấp thông tin, các dịch vụ của các cơ quan chính phủ cho doanh nghiệp và các dịch vụ mà các doanh nghiệp phải thực hiện đối với Chính phủ. Các cơ quan chính phủ cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp, phổ biến các qui định, các chính sách, các lệnh, các bản ghi nhớ của các cơ quan chính phủ cho các doanh nghiệp. Các dịch vụ chính phủ thực hiện cho các doanh nghiệp thường là: Làm mới và gia hạn các loại giấy phép, các chứng nhận, thanh tra và kiểm tra Các dịch vụ các doanh nghiệp thực hiện cho các cơ quan chính phủ là: Nộp thuế, cung cấp thông tin thống kê kinh doanh, cung cấp thông tin và tham gia vào đấu thầu - mua bán trực tuyến Cả Chính phủ và các doanh nghiệp cải thiện dần mối quan hệ giữa khu vực chính phủ và khu vực tư nhân, thiết lập mối quan hệ hợp tác trợ giúp Chính phủ - doanh nghiệp trong Chính phủ điện tử. Đối với Chính phủ điện tử, cũng như dịch vụ cho người dân, dịch vụ cho các doanh nghiệp tiến tới thực hiện ngoài giờ hành chính, tiến tới được thực hiện 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần, tất cả 365 ngày trong năm. Các hình thức thực hiện dịch vụ ngày càng phải được cải thiện và tiến tới thực hiện trên nhiều phương tiện, ở bất cứ đâu thuận lợi cho doanh nghiệp. 3. Thực trạng Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam 3.1. Quan điểm chỉ đạo của nhà nước về Chính phủ điện tử ở Việt Nam Tại Việt Nam, trong những năm qua, Đảng, Chính phủ luôn quan tâm, coi trọng triển khai xây dựng Chính phủ điện tử. Ngày 14/10/2015 chính phủ ban hành Nghị quyết 36a nhằm tạo tiền đề đẩy mạnh phát triển Chính phủ điện tử, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, hiện nay Văn phòng Chính phủ đã soạn thảo dự thảo Nghị quyết về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2025 (Chính phủ, 2018) và đang lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Hơn nữa, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã ban hành hung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam (Bộ Thông tin & Truyền thông, 2015) và rất nhiều hội nghị, hội thảo từ Trung ương, đến địa phương và bộ, ngành liên quan đến Chính phủ điện tử, thương mại điện tử đã được tiến hành. Nhờ những nỗ lực đó, Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể trong bảng xếp hạng Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử EGDI của Liên hợp quốc, cụ thể: năm 2018 Việt Nam xếp hạng 88/193, năm 2016 xếp hạng 89/193 và năm 2014 xếp hạng 99/193. Trong khu vực SE N năm 2018 Việt Nam xếp thứ 6 sau Singapore, Malaysia, Phillippines, Thái Lan và Brunei về Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử; trong đó, Chỉ số dịch vụ công trực tuyến ( nline Service Index - SI) và Chỉ số tham gia điện tử (E-Participation Index) ở Việt nam được Liên hợp quốc xếp vào nhóm ở mức cao (tăng từ 0,5 đến 0,75) (UN, 2018). 8 (Nguồn: Bộ Thông tin & Truyền thông, 2015) Hình 2: Sơ đồ tổng thể Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam 3.2. Thực trạng triển khai Chính phủ quản lý điện tử cho các doanh nghiệp 3.2.1. Các dịch vụ công trực tuyến được cung cấp và sự kết nối dữ liệu Hiện nay, tất cả 30/30 cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và 63/63 UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã có Trang/Cổng thông tin điện tử. Các dịch vụ công trực tuyến đã cung cấp cho doanh nghiệp rất đa dạng và từ nhiều Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương, với các dịch vụ chủ yếu như: Đăng ký kinh doanh, đăng ký/khai báo thuế điện tử, cấp giấy phép đầu tư, tra cứu trạng thái hồ sơ thủ tục hành chính, cấp giấy phép xây dựng, thủ tục tàu biển, nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, thủ tục cấp giấy phép chứng nhận xuất xứ điện tử, khai báo hải quan, bảo hiểm xã hội Như vậy, theo cách đối chiếu các giai đoạn phát triển của chính phủ điện tử ở Hình 1, thì hầu hết các dịch vụ mới chỉ đạt giai đoạn 1 và 2. Tuy nhiên, hiện tại đã có 4 lĩnh vực đã cung cấp các dịch vụ công trực tuyến đến giai đoạn 3, 4, bao gồm: Bảo hiểm xã hội, thuế, hải quan và đăng ký kinh doanh (ictnews, 2018) 3.3.2. Đánh giá thực trạng sử dụng dịch vụ công trực tuyến của doanh nghiệp Phần này tìm hiểu thực trạng tra cứu thông tin trên các websites của cơ quan nhà nước (tương ứng với việc cung cấp ở Giai đoạn 2) và sử dụng các dịch vụ công trực tuyến (tương ứng với việc cung cấp ở Giai đoạn 3 và 4) của các doanh nghiệp được phỏng vấn cũng như số liệu thứ cấp từ VECOM (2018) và itcnews (2018) a. Tra cứu thông tin trên các website cơ quan nhà nước Trong số 9 doanh nghiệp tham gia phỏng vấn sâu, có 5/9 doanh nghiệp thường xuyên, 3/9 doanh nghiệp thỉnh thoảng và 1/9 doanh nghiệp chưa bao giờ tra cứu thông tin trên các website cơ quan nhà nước. Số liệu phỏng vấn sâu khá tương đồng với số liệu thứ cấp theo báo cáo của VEC M (2018), tỷ lệ doanh nghiệp thường xuyên, thỉnh thoảng hoặc chưa bao giờ tra cứu các thông tin trên các website cơ quan nhà nước năm 2017 lần 9 lượt là 30%, 62% và 8% (Hình 3). Đặc biệt, nhóm doanh nghiệp lớn có mức quan tâm tới thông tin trên các website cơ quan nhà nước cao hơn nhóm các doanh nghiệp nhỏ và vừa. (Nguồn: VECOM, 2018) Hình 3: Xu hướng tra cứu thông tin trên các website cơ quan nhà nước qua các năm b. Sử dụng dịch vụ công trực tuyến Tất cả các doanh nghiệp trả lời phỏng vấn sâu trong nghiên cứu này đều cho biết có sử dụng các dịch vụ công trực tuyến liên quan đến thủ tục đăng ký, cấp phép, khai báo, tra cứu trạng thái hồ sơ thủ tục hành chính cung cấp trên website. Trong khi đó số liệu thứ cấp từ VEC M (2018) cho thấy tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến liên quan tới các thủ tục thông báo, đăng ký, cấp phép của doanh nghiệp năm 2017 là 73%, tương tự tỷ lệ này của năm 2016. (Nguồn: VECOM, 2018) Hình 4: Sử dụng dịch vụ công trực tuyến qua các năm Cũng trong báo cáo đó cho thấy, khai báo thuế điện tử vẫn là dịch vụ công trực tuyến được doanh nghiệp sử dụng nhiều nhất (88%), số lượng doanh nghiệp đã đăng ký 10 tham gia sử dụng dịch vụ với cơ quan thuế là trên 518.000 doanh nghiệp trong tổng số 534.000 doanh nghiệp đang hoạt động. Theo Cục Tin học hóa (Bộ Thông tin &Truyền thông), Tổng cục Thuế đã triển khai ứng dụng hoàn thuế điện tử từ ngày 15/5/2017 trên toàn quốc; đã có 1.344 doanh nghiệp kê khai hoàn thuế điện tử với tổng số 3.117 hồ sơ được tiếp nhận và tổng số tiền đề nghị hoàn thuế là hơn 17,1 nghìn tỉ đồng. (Nguồn: VECOM, 2018) Hình