Tại nhiều vùng trong lòng hồ của các
công trình thủy điện, người dân phải di
dời và tái định cư trên những địa bàn
mới, thiếu đất canh tác, thiếu nguồn
nước để sản xuất và sinh hoạt. Việc di
chuyển, tái định cư trong các dự án thủy
điện cũng rất khác với các dự án giải
phóng mặt bằng ở miền xuôi, sẽ dẫn đến
những thay đổi lớn về tập quán canh tác,
nguồn sinh kế và lối sống, vì vậy rất cần
những chính sách đặc biệt nhằm giảm
thiểu tác động đến đời sống sản xuất và
sinh hoạt của người dân.
5 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 501 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách di dân tái định cư tại các dự án thủy điện trên địa bàn nghệ an, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2014 [23]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
1. Thực trạng công tác tái định cư các dự
án thủy điện
Theo thống kê chưa đầy đủ thì riêng với các
công trình thủy điện tại Nghệ An đã thực hiện
gần hoàn thành kế hoạch di dân tái định cư.
Công tác này đòi hỏi phải di chuyển cả cộng
đồng dân cư, làm ảnh hưởng đến toàn bộ đời
sống kinh tế, xã hội, truyền thống văn hóa của
cộng đồng. Do tầm quan trọng và quy mô ảnh
hưởng của công tác tái định cư này, Nghị quyết
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 1997
(NQ 05/1997/QH10) đã quy định rõ các công
trình thủy điện lớn có quy mô di chuyển và tái
định cư lớn hơn 20.000 người phải được Quốc
hội xem xét thông qua. Theo Nghị định 197 của
Chính phủ thì việc tổ chức tái định cư được giao
cho UBND các tỉnh nơi có dân phải di chuyển
là chủ đầu tư dự án, lập kế hoạch và tổ chức bộ
máy thực hiện. Sau khi quy hoạch chi tiết các
khu (điểm) tái định cư, việc lập kế hoạch đầu
tư hàng năm cho công tác di dân tái định cư
được Chính phủ giao cho UBND tỉnh với kinh
phí và nguồn vốn thực hiện. Như vậy, điểm mới
của công tác tái định cư là việc lập kế hoạch đã
phân cấp cho địa phương.
Tuy nhiên, các dự án tái định cư trong quá
trình thực hiện đã bộc lộ một số khó khăn,
vướng mắc mà trước tiên là về tiến độ lập, thẩm
định, phê duyệt quy hoạch. Có thể nói, tiến độ
lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch chi tiết các
khu (điểm) tái định cư diễn ra rất chậm, dẫn đến
việc triển khai thực hiện các dự án chi tiết và
cấp phát vốn gặp nhiều khó khăn. Vấn đề này
thể hiện r õ ở công trình thủy điện Bản Vẽ.
Tại nhiều vùng trong lòng hồ của các
công trình thủy điện, người dân phải di
dời và tái định cư trên những địa bàn
mới, thiếu đất canh tác, thiếu nguồn
nước để sản xuất và sinh hoạt. Việc di
chuyển, tái định cư trong các dự án thủy
điện cũng rất khác với các dự án giải
phóng mặt bằng ở miền xuôi, sẽ dẫn đến
những thay đổi lớn về tập quán canh tác,
nguồn sinh kế và lối sống, vì vậy rất cần
những chính sách đặc biệt nhằm giảm
thiểu tác động đến đời sống sản xuất và
sinh hoạt của người dân.
CHÍNH SÁCH DI DÂN TÁI ĐỊNH CƯ TẠI CÁC DỰ ÁN THỦY ĐIỆN
TRÊN ĐỊA BÀN NGHỆ AN
n TS. Nguyễn Thị Minh Phượng
Khoa Kinh tế - Trường Đại học Vinh
Thủy điện Bản Vẽ
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2014 [24]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
kiến quy hoạch tái định cư. Điều này làm cho công tác
di dân tái định cư càng gặp nhiều khó khăn hơn. Tiến độ
thẩm định, phê duyệt quy hoạch chi tiết các khu tái định
cư thường rất chậm. Nhiều quy hoạch chi tiết đã lập
nhưng chưa được hội đồng thẩm định xem xét. Tuy
UBND huyện là chủ đầu tư song không ít các huyện còn
lúng túng với vấn đề mới mẻ này. Đây cũng là vấn đề
chính sách cần được xem xét, khắc phục. Đó là chưa kể
đến năng lực thực hiện di dân, tái định cư của các ban,
ngành ở địa phương và các đơn vị tư vấn còn nhiều yếu
kém, thiếu kinh nghiệm, đặc biệt trong lĩnh vực tái định
cư khiến cho tiến độ lập quy hoạch và thẩm định các dự
án bị ảnh hưởng. Nhiều đơn vị tư vấn được UBND tỉnh
lựa chọn chỉ là những đơn vị chuyên về xây dựng cơ sở
hạ tầng (giao thông, thủy lợi, kiến trúc) am hiểu rất ít
về lĩnh vực quy hoạch dân cư, di dân và tái định cư vốn
mang đậm tính xã hội. Do đó, các đơn vị này rất lúng
túng trong việc lập quy hoạch chi tiết, làm chậm trễ, gây
thiệt hại cho người dân khi xây dựng quy hoạch khu tái
định cư.
2. Một số vấn đề về cơ chế quản lý và chính sách
bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Chính sách ở các công trình dự án tái định cư có sự
khác nhau, tạo nên sự thiếu thống nhất trong việc quản
lý và thực thi chính sách, nảy sinh tư tưởng so sánh
quyền lợi trong người dân, ảnh hưởng đến công bằng xã
hội. Chính phủ đã ban hành các chính sách riêng cho mỗi
công trình dự án dẫn đến các chính sách phục hồi sinh
kế sau tái định cư tại các công trình thủy điện, thủy lợi
đến nay thiếu thống nhất, mỗi dự án có mức đền bù, hỗ
trợ khác nhau dẫn đến thiếu công bằng trong công tác
đền bù và hỗ trợ. Những hộ di chuyển sau thường chịu
nhiều thiệt thòi hơn những người đi trước. Tình trạng có
nhiều chính sách khác nhau trong việc đền bù và tái định
cư làm cho người dân không thấy thỏa đáng.
Ngoài nơi ở và tái định cư, một vấn đề đặt ra là cần
có chính sách, cơ chế tài chính để giải quyết việc làm
sau khi tái định cư (gồm hộ phải di chuyển và hộ sở tại
bị mất đất). Việc khôi phục lại đời sống, sinh kế của
những hộ bị ảnh hưởng đòi hỏi thời gian lâu dài. Tuy
nhiên, các chính sách hỗ trợ lâu dài để khôi phục thu
nhập và đời sống của người dân chưa được xem xét với
nguồn tài chính đảm bảo trong nhiều năm. Chính sách
đền bù, tái định cư của nước ta mới chỉ dừng ở việc đền
bù sử dụng đất và các tài sản bị thiệt hại trực tiếp. Các
thiệt hại gián tiếp và vô hình khác về thu nhập, về kinh tế
như lợi thế từ vị trí kinh doanh, đánh bắt cá, từ sản phẩm
rừng chưa được tính đến. Trong khi đây lại là điểm rất
quan trọng đối với đời sống người dân và đồng bào dân
Để phục vụ xây dựng công trình Thủy điện
Bản Vẽ, công tác đền bù giải phóng mặt bằng và
đặc biệt là công tác di dân ra khỏi lòng hồ là một
nỗ lực lớn của chính quyền địa phương huyện
cũng như của tỉnh. Tuy nhiên, sau thắng lợi của
cuộc đại di dân này thì hàng nghìn người dân về
vùng tái định cư gặp phải không ít khó khăn.
Loay hoay hơn 6 năm trời, nhiều hộ dân vẫn
chưa có đất để sản xuất, hoặc có thì cũng chỉ là
đất khô cằn, không sản xuất được. Cuộc sống của
đồng bào vốn quen với tập quán tự do, trỉa hạt
trên nương rẫy, rồi săn bắn, hái lượm trong rừng.
Về khu tái định cư ở Thanh Chương hoàn toàn
khác lạ với cuộc sống ban đầu nên người dân rất
khó nắm bắt tiến bộ của khoa học kỹ thuật.
Thủy điện ra đời, một số xã đã bị xóa tên:
Kim Đa, Kim Tiến, Hữu Dương nhưng hiện rất
nhiều hộ dân từ vùng tái định cư thuộc các xã
Thanh Hương, Ngọc Lâm, Thanh Sơn của huyện
Thanh Chương tự phát quay lại sinh sống kiểu tự
cấp tự túc trong lòng hồ. Nhiều ngôi nhà tranh
tre, nứa lá, lán trại dần mọc lên bên sườn núi.
Điện, nước sinh hoạt không có, chợ búa cũng
không thế nên họ đang trở thành những hộ dân
vô gia cư nơi thâm sơn cùng cốc.
Về công tác chuyển dân đến các khu (điểm)
tái định cư, tiến độ diễn ra cũng rất chậm, do
nhiều nguyên nhân. Trước tiên là do chất lượng
công tác quy hoạch tổng thể di dân, tái định cư
còn thấp. Nhiều khu (điểm) tái định cư đã được
phê duyệt nhưng tính khả thi chưa cao, vì thực
tế khu được quy hoạch còn thiếu nguồn nước,
thiếu đất sản xuất so với bản quy hoạch đã được
phê duyệt Thêm vào đó, do quy định hiện nay
về giá đền bù đất sản xuất tăng, giá ngày công và
vật liệu xây dựng tăng nhiều so với giá tính trong
Quyết định 196/QĐ-TTg. Trong khi đó, do
Chính phủ đã quy định khống chế suất đầu tư
bình quân 500 triệu đồng/hộ nên việc lập quy
hoạch chi tiết của các địa phương gặp nhiều khó
khăn, vì vừa phải đảm bảo cả yêu cầu đền bù đầy
đủ và ổn định đời sống lâu dài cho dân, đồng thời
vẫn phải đảm bảo không vượt mức trần về vốn
đền bù đã quy định. Hệ lụy của sự chậm chễ này
là công tác giải ngân.
Trên thực tế, một số quy định về thủ tục phê
duyệt quy hoạch chi tiết khu (điểm) tái định cư
do cấp tỉnh ban hành đã yêu cầu phải có chữ ký
của từng hộ dân phải di dời, đồng ý đến nơi dự
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2014 [25]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Tỉnh Nghệ An đã yêu cầu Ban Quản lý dự án thủy điện
2 (Tập đoàn Điện lực Việt Nam) phối hợp với UBND
huyện Thanh Chương, Tương Dương và các ngành chức
năng của tỉnh khẩn trương giải quyết dứt điểm các vướng
mắc, sớm đảm bảo đời sống cho người dân tái định cư
Thủy điện Bản Vẽ. Những bức xúc của người dân khi đến
nơi ở mới tại huyện Thanh Chương đã tồn tại từ nhiều
năm nay, tuy nhiên việc giải quyết của chính quyền địa
phương và các ngành liên quan rất chậm trễ.
UBND tỉnh cũng đã yêu cầu huyện Tương Dương có
biện pháp xử lý nghiêm, kiên quyết đối với các trường
hợp đến làm ăn, định cư trái phép trong vùng lòng hồ
Thủy điện Bản Vẽ, tuyên truyền, vận động để đưa các hộ
dân trở về nơi tái định cư mới ở huyện Thanh Chương.
Đối với huyện Thanh Chương, vận động người dân tái
định cư ổn định sản xuất, không bỏ về nơi ở cũ ở huyện
Tương Dương; giải quyết dứt điểm tình trạng lấn chiếm
đất trái phép tại các khu tái định cư; thực hiện cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình tái định
cư đã có hồ sơ giao đất do Ban Quản lý dự án thủy điện 2
bàn giao.
3. Kết luận và một số đề xuất
Trên đây là những tồn tại về cơ chế quản lý và thực
hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư các công
trình thủy điện hiện nay. Vậy hướng đi nào, cách tiếp cận
nào là thích hợp để có thể khắc phục được các bất cập nói
trên, đảm bảo di dân tái định cư bền vững?
Do đến nay vẫn chưa có một chính sách quốc gia về di
dân tái định cư cho các dự án thủy điện nên trong quá trình
thực hiện mỗi dự án lại dựa trên một chính sách được phê
duyệt riêng. Cần sớm có một chính sách chung, thống nhất
cho công tác di dân, tái định cư trong các công trình thủy
tộc. Bên cạnh đó, công tác quy hoạch và dự báo
về nhu cầu tái định cư không được đặt ra đúng
với vai trò nên càng làm cho công tác bố trí tái
định cư lúng túng. Việc tái định cư thủy điện ở
miền núi thường gặp nhiều khó khăn về đảm
bảo đất đai canh tác. Hầu hết người dân tái định
cư được đền bù diện tích hẹp hơn và chất lượng
đất xấu hơn so với nơi xuất cư.
Về nguyên tắc, công tác di dân tái định cư
vẫn phải đảm bảo yếu tố ổn định đời sống cho
người dân nhanh và bền vững về sinh kế, môi
trường. Tuy nhiên, từ phía cơ quan quản lý,
nhiều quy định chồng chéo và thay đổi liên tục
khiến cho đời sống của người dân bị xáo trộn.
Các địa phương không chủ động trong việc
chuẩn bị trước quỹ đất tái định cư. Ngay cả khi
có chủ trương chuẩn bị trước thì việc triển khai
các thủ tục phê duyệt dự án, xây dựng công
trình, cấp phát vốn cũng kéo dài khiến chủ
trương này không phát huy được tác dụng. Đằng
sau những vấn đề nói trên là những hạn chế, bất
cập, có phần áp đặt chủ quan trong công tác di
dân tái định cư, không phát huy được sự năng
động và chưa thực sự tìm hiểu nguyện vọng, lấy
ý kiến của nhân dân. Cơ chế chính sách về đền
bù, hỗ trợ có điều chưa hợp lý, sát thực tế, nội
dung quy hoạch chưa phù hợp với điều kiện tự
nhiên, địa hình và trình độ dân trí của người dân
miền núi. Khu tái định cư xã Thanh Sơn, Thanh Chương
Thủy điện Bản Vẽ (nằm trên địa bàn huyện Tương
Dương) là công trình thủy điện lớn nhất hiện nay ở
Nghệ An. Tuy công trình đã được đưa vào sử dụng
nhưng công tác tái định cư, ổn định cuộc sống cho hơn
2.000 hộ dân từ nơi ở cũ là huyện Tương Dương đến
nơi ở mới là huyện Thanh Chương tồn tại nhiều bất
cập. Nổi lên, đó là một số chi phí bồi thường, tái định
cư cho các hộ dân chưa được chi trả, việc giao đất sản
xuất cho các hộ tái định cư chưa kịp thời hoặc không
đúng tiến độ, không đủ diện tích được phê duyệt. Cơ
sở hạ tầng tại các khu tái định cư thiếu đầu tư, không
đồng bộ, đang trong tình trạng hư hỏng, xuống cấp
Do thiếu đất sản xuất và những khó khăn khác nên
nhiều hộ dân tái định cư đã bỏ nơi ở cũ tại huyện
Thanh Chương để trở về nơi ở mới tại huyện Tương
Dương, trong đó có nhiều hộ đã xuống lòng hồ thủy
điện để mưu sinh, kéo theo nhiều hệ quả, tác hại xấu,
gây bất ổn về an ninh trật tự, an toàn cho người dân.
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2014 [26]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Trong quá trình lập kế hoạch di dân, tái định cư, nên
khuyến khích các hình thức di dân không tập trung theo
phương thức xen ghép và tự nguyện nhằm hạn chế sức
ép đất đai tập trung, tăng cường khả năng tự điều chỉnh,
tiến tới hồi phục nhanh cuộc sống của các hộ dân sau tái
định cư. Việc người dân được tham gia đề xuất điểm tái
định cư, lựa chọn thiết kế nhà ở và cơ sở hạ tầng ở khu
vực tái định cư cần được thực hiện nghiêm túc. Muốn
vậy, người dân cần được thông tin đầy đủ và kịp thời về
chính sách đền bù và kế hoạch của dự án. Ngoài ra, cần
khuyến khích các hộ tái định cư tự lập phương án sản
xuất phù hợp theo quy hoạch phê duyệt. Phương thức
Nhà nước hỗ trợ vận chuyển, san ủi nền nhà, nhân dân
tự tháo dỡ nhà ở cũ, lắp dựng tại nơi ở mới theo sở thích,
nguyện vọng riêng của mình tỏ ra là một cách làm phù
hợp (như được áp dụng đối với công tác di dời, tái định
cư tại Mường La, thuộc dự án Thủy điện Sơn La). Chính
sách khuyến khích tái định cư xen ghép và tự nguyện
phù hợp với đặc điểm văn hóa của các dân tộc còn góp
phần cải thiện cuộc sống cho cộng đồng dân sở tại, hạn
chế được những xung đột về văn hóa và phong tục tập
quán giữa các cộng đồng, thực hiện chính sách đoàn kết
các dân tộc của Đảng và Nhà nước.
Thực tế các dự án thành phần triển khai chậm, khâu
quy hoạch chi tiết của các dự án phải chỉnh sửa nhiều
lần làm chậm tiến độ đang là trở ngại cho việc triển khai
xây dựng, kiến thiết các công trình hạ tầng, công trình
phục vụ sản xuất, đời sống dân sinh, chậm trễ trong công
tác thanh quyết toán, cần tiến hành phân cấp mạnh và
trao quyền cho cấp huyện/thị, đồng thời đầu tư nâng cao
năng lực cho cán bộ quy hoạch, cán bộ trực tiếp làm công
tác di dân tái định cư vốn còn thiếu kinh nghiệm thực tế
điện, thủy lợi. Chính sách này cần thực hiện phân
cấp mạnh cho cơ sở, quy định rõ nguồn vốn tái
định cư, cả người dân di dời và người dân sở tại
phải được tham gia thảo luận trực tiếp vào quá
trình dời chuyển tái định cư theo nguyên tắc dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân được
hưởng. Cơ chế chính sách trong việc quản lý các
dự án di dân tái định cư phải dựa trên cơ sở tạo
điều kiện thông thoáng cho quá trình thực hiện,
đảm bảo tiến độ công trình cũng như tạo nên sự
đồng thuận cao giữa người dân nơi đi lẫn người
dân sở tại ở nơi đến. Do việc triển khai đầu tư
xây dựng các công trình thủy điện thường diễn
ra ở miền núi, vùng sâu vùng xa, dân trí thấp nên
dễ xảy ra những tiêu cực, dưới nhiều hình thức,
đòi hỏi ngoài chính sách, cơ chế quy trình chặt
chẽ còn phải có sự quan tâm thường xuyên đối
với hoạt động kiểm tra, giám sát, báo cáo và xử
lý kịp thời giữa các cấp. Vai trò kiểm tra, theo
dõi, đôn đốc và giám sát của các cơ quan cấp tỉnh
và các bộ ngành Trung ương trong công tác di
dân, tái định cư là hết sức cần thiết. Cần coi trọng
các nguyên tắc công khai, dân chủ, minh bạch,
chính xác, công bằng và kịp thời trong thống kê,
áp giá, đền bù, hỗ trợ cho các hộ dân. Nói một
cách khác, chính sách mới cần dựa trên cách tiếp
cận trao quyền cho người dân, thay vì việc đáp
ứng đơn thuần các nhu cầu thiết yếu của họ. Đây
là cách tiếp cận mới có thể còn xa lạ với tư duy
cũ theo hướng chỉ đạo, lập kế hoạch từ trên
xuống dưới trong công tác tái định cư, nhưng là
một hướng đi cần tìm tòi, thử nghiệm.
Nhiều hộ dân (xã Hữu
Khuông, huyện Tương
Dương) vẫn “cố thủ” tại
lòng hồ Thủy điện Bản Vẽ
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2014 [27]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Tài liệu tham khảo
1. Nghị định 84 (2007), Nghị định 84/2007/NĐ-CP quy định
bổ sung về việc cấp Giấy Chứng nhận quyền sở hữu đất, thu hồi
đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại
về đất đai, Chính phủ, ngày 25/5/2007.
2. Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch phát triển các khu
công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm
2020.
3. The World Bank, 2009, Policy Note on Improving Land Ac-
quisition and Voluntary Land Conversion in Vietnam.
4. Ngân hàng Thế giới, 2011, Cơ chế nhà nước thu hồi đất và
chuyển dịch đất đai tự nguyện ở Việt Nam: Phương pháp tiếp cận,
định giá đất và giải quyết khiếu nại của dân.
5. Ngân hàng Thế giới, 2009, Báo cáo Phát triển Việt Nam
2010, Các thể chế hiện đại.
cầu chủ dự án lập ra quỹ phục hồi thu nhập sau tái định
cư nhằm hỗ trợ cho người dân trong thời gian 10 năm,
thậm chí 20 năm sau tái định cư. Nguồn vốn này cần tính
toán vào dự án và chủ đầu tư các công trình xây dựng
nhà máy sẽ trích lợi nhuận, hoặc thuế tài nguyên sau khi
đưa công trình vào hoạt động.
Cái khó trong công tác di dân tái định cư đối với cả
nơi đi lẫn nơi đến là thói quen, lối sống, tập tục canh tác
của cộng đồng các dân tộc thiểu số vốn khác nhau. Ngay
cả trong một dân tộc, khả năng nhận thức và tác động
của tái định cư cũng rất khác nhau giữa phụ nữ, nam giới,
già, trẻ, hộ giàu, hộ nghèo, hộ đau ốm, hộ khỏe mạnh.
Công tác tái định cư theo ý nghĩa đó còn hàm ý công tác
"di lòng dân" trong đó sự đồng thuận, nhất trí chia sẻ khó
khăn của người dân là rất quan trọng. Những bất cập về
cơ chế quản lý và chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định
cư hiện nay nhiều khi dẫn đến tâm lý dao động của các
hộ dân, tạo nên sự thiếu tin tưởng đối với chủ trương
chính sách của Nhà nước. Đối với công tác di dân tái
định cư trong các dự án thủy điện lớn, cần tiến hành các
nghiên cứu xã hội học nghiêm túc, bài bản, nắm vững
nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng, phong tục, tập quán, lối
sống và thực trạng sinh kế của cộng đồng các dân tộc bị
ảnh hưởng, tránh đưa ra những quyết sách duy ý chí và
thiếu khoa học, mà hậu quả thì khôn lường./.
và chuyên môn. Những bất cập phát sinh từ thực
tế đối với cơ chế quản lý và chính sách bồi
thường, đền bù, hỗ trợ hiện nay đòi hỏi bộ máy
quản lý dự án di dân tái định cư thủy điện phải
đề cao trách nhiệm, gắn bó, nhiệt tình với công
việc, sâu sát, lắng nghe, xử lý được những vướng
mắc, nắm bắt và giải quyết kịp thời, dứt điểm
những khó khăn trong quá trình thực hiện chính
sách ở cơ sở, đảm bảo tiến độ di dời tái định cư
vận hành theo hướng đồng bộ, thống nhất.
Có thể nói, việc phục hồi thu nhập cho người
dân tái định cư là quá trình diễn ra trong nhiều
năm, không chỉ dừng lại bằng việc các hộ dân
bàn giao mặt bằng và về nơi ở mới. Do kết cấu
hạ tầng của các khu tái định cư còn rất yếu kém,
nên đời sống của đồng bào các dân tộc hậu tái
định cư còn khó khăn, vất vả, còn rất nhiều việc
phải làm để ổn định đời sống, phát triển sản xuất.
Cần chú trọng việc giải quyết vấn đề nước và đất
sản xuất cho các hộ tái định cư vì đây là hai yếu
tố quyết định đến việc ổn định và phát triển sản
xuất cho các hộ tái định cư cũng như hộ dân
người địa phương sở tại. Đất đai và nương rẫy là
nguồn sinh kế và an ninh lương thực của đồng
bào dân tộc. Để thực hiện nguyên tắc đền bù theo
phương thức “đất đổi đất” tránh xáo trộn chuyển
đổi nghề nghiệp, cần đầu tư khai hoang cho
người dân trong các công trình thủy điện. Do vậy,
khi lập và phê duyệt kế hoạch tái định cư, cần
chú trọng tính thích ứng về đất sản xuất (bao gồm
chất lượng đất và diện tích đất), nguồn nước cho
sản xuất và sinh hoạt cần thiết nhằm đảm bảo cho
cả cộng đồng dân đến định cư và cộng đồng dân
sở tại ổn định cuộc sống đồng thời trên nhiều
mặt, tránh được những rủi ro do di dân tái định
cư gây nên.
Chủ trương người dân di chuyển cũng như
người dân sở tại phải có cuộc sống tốt hơn và
được hưởng lợi từ công trình dự án và đầu tư phát
triển sản xuất cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội có ý
nghĩa rất quan trọng. Những khó khăn về kinh
phí có thể được khắc phục nếu như nguồn vốn
cho tái định cư được quản lý và sử dụng hiệu quả,
người dân được hưởng lợi. Đã đến lúc cần yêu