Chính sách tài khóa liên quan đến các hoạt động thu, chi của Chính phủ. Thông qua thu, chi ngân sách nhà nước (NSNN),Chính phủ tác động đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, việc làm và ổn định giá cả. Giai đoạn 2011-2015 được đánh giá là thời kỳ khó khăn của nền kinh tế Việt Nam. Thu, chi ngân sách chịu tác động của nhiều yếu tố bất
lợi cả từ bên trong lẫn bên ngoài nền kinh tế. Tuy nhiên, các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản được giữ vững,
nền kinh tế dần lấy lại được đà tăng trưởng khá, lạm phát được kiềm chế ở mức thấp, doanh nghiệp hồi
phục, đóng góp nhiều hơn cho NSNN. Kết thúc giai đoạn này, kinh tế Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó
khăn, tính bền vững NSNN chưa được đảm bảo, đặt ra những thách thức và gắn với đó là yêu cầu cần
có những nỗ lực của cả hệ thống chính trị để đạt được mục tiêu kinh tế như Quốc hội đề ra tại Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020. Bài viết sau đây đưa ra cái nhìn tổng quan về chính sách tài
khóa giai đoạn 2011-2015 trên các giác độ kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế, từ đó đề xuất định
hướng lớn cho chính sách này giai đoạn 2016-2020.
8 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 1145 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách tài khóa giai đoạn 2011-2015 và định hướng từ nay đến năm 2020, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
11NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 111 - tháng 1/2017
chính saùch taøi Khoùa
giai ñoaïn 2011-2015 vaø ñònh höôùng
töø nay ñeán naêm 2020
TS. NGuyỄN Hữu HIểu*
*Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán
Chính sách tài khóa liên quan đến các hoạt động thu, chi của Chính phủ. Thông qua thu, chi ngân sách nhà nước (NSNN),Chính phủ tác động đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, việc làm và ổn định giá cả. Giai đoạn 2011-2015 được đánh giá là thời kỳ khó khăn của nền kinh tế Việt Nam. Thu, chi ngân sách chịu tác động của nhiều yếu tố bất
lợi cả từ bên trong lẫn bên ngoài nền kinh tế. Tuy nhiên, các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản được giữ vững,
nền kinh tế dần lấy lại được đà tăng trưởng khá, lạm phát được kiềm chế ở mức thấp, doanh nghiệp hồi
phục, đóng góp nhiều hơn cho NSNN. Kết thúc giai đoạn này, kinh tế Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó
khăn, tính bền vững NSNN chưa được đảm bảo, đặt ra những thách thức và gắn với đó là yêu cầu cần
có những nỗ lực của cả hệ thống chính trị để đạt được mục tiêu kinh tế như Quốc hội đề ra tại Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020. Bài viết sau đây đưa ra cái nhìn tổng quan về chính sách tài
khóa giai đoạn 2011-2015 trên các giác độ kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế, từ đó đề xuất định
hướng lớn cho chính sách này giai đoạn 2016-2020.
Từ khóa: Chính sách tài khóa, ngân sách nhà nước.
Fiscal policy in 2011-2015 and fiscal orientation from now to 2020
Fiscal policy is the use of revenue collection and expenditure of government. Through revenue and
expenditure of state budget, the government influence micro economic target, such as economic growth,
employment and price stability. 2011-2015 period witnessed hardships of the economy of Vietnam. Budget
revenue and expenditure are affected by many negative factors coming from both internal and external of
the economy. However, basic macroeconomic variables are kept at certain level, the economy gradually
regained growth momentum, inflation was controlled at a low level, the recovery of businesses, and all these
contribute more to the state budget. Ending this period, Vietnam’s economy is still facing many difficulties;
state budget sustainability is not yet ensured and poses challenges associated with that are the need of
the efforts of the whole political system to achieve economic targets as set out in the National assembly’s
2016-2020 five year socio-economic development plan. The article gives an overview of fiscal policy for
the period 2011-2015 in the perspective of the results achieved and limitations remained and draw out the
major orientations proposed for this policy period 2016- 2020.
keywords: Fiscal policy, state budget
12
Taùi cô caáu neàn kinh Teá - nhìn laïi vaø tieáp böôùc
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 111 - tháng 1/2017
1. Những kết quả đạt được của chính sách tài
khóa giai đoạn 2011-2015
Cùng với chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa
giai đoạn 2011-2015 được đánh giá là khá thành
công, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ
mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hỗ trợ doanh
nghiệp phát triển. Kết quả của chính sách tài khóa
giai đoạn này được thể hiện trên một số nét chính
như sau.
Một là, chính sách tài khóa trong cả giai đoạn
được xác định đúng đắn, phù hợp và được kiên định
thực hiện nhờ đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Nhờ đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, trung
bình 7,01%/năm nên kết thúc giai đoạn 2006-2010
Việt Nam đã ra khỏi tình trạng kém phát triển,
bước vào nhóm các nước đang phát triển có thu
nhập trung bình. Tuy vậy, do tác động sâu của
khủng hoảng kinh tế thế giới, kinh tế của Việt
Nam bộc lộ khó khăn vào những năm cuối giai
đoạn 2006-2010 và thể hiện rõ nét trong thời kỳ
2011-2013. Các cân đối vĩ mô của nền kinh tế bị
ảnh hưởng. Năm đầu tiên của giai đoạn 2011-2015,
chính sách tài khóa chưa thành công trong việc
kiểm soát lạm phát. Tỷ lệ lạm phát tăng từ 11,75%
năm 2010 lên 18,58% vào năm 2011 mặc dù chính
sách tài khóa năm này đã được Chính phủ định
hướng phối hợp với chính sách tiền tệ “kiểm soát
lạm phát, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, đảm
bảo các cân đối lớn của nền kinh tế”. Trước bối
cảnh tỷ lệ lạm phát liên tục tăng cao, ảnh hưởng
đến hoạt động sản xuất kinh doanh, Chính phủ xác
định mục tiêu vĩ mô là kiểm soát lạm phát, đưa lạm
phát về mức hợp lý. Vì thế, chính sách tài khóa các
năm 2012-2015 được điều chỉnh theo hướng chặt
chẽ, hiệu quả, triệt để tiết kiệm, để cùng với chính
sách tiền tệ ổn định kinh tế vĩ mô. Chính phủ đã
chủ trương đẩy mạnh việc tăng cường kỷ luật, kỷ
cương tài chính; không điều chỉnh chính sách làm
giảm thu và tăng chi ảnh hưởng đến cân đối NSNN
và an ninh tài chính quốc gia. Thực hiện điều hành
bội chi NSNN theo kế hoạch. Đối với thu NSNN,
Chính phủ chỉ đạo quyết liệt áp dụng các biện pháp
chống thất thu ngân sách, chống chuyển giá; đẩy
mạnh việc xử lý và thu hồi nợ thuế, giảm tỷ lệ nợ
đọng thuế; tăng cường thanh tra, kiểm tra, chấn
chỉnh và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp
luật về thu ngân sách. Công tác quản lý chi NSNN
cũng được tăng cường theo hướng chặt chẽ, các
khoản chi phải được bảo đảm đúng dự toán được
duyệt; triệt để tiết kiệm chi cho bộ máy quản lý nhà
nước, sự nghiệp công; cắt giảm tối đa kinh phí tổ
chức hội nghị, hội thảo, chi công tác nước ngoài,
chi cho lễ hội, lễ kỷ niệm, khởi công, khánh thành,
tổng kết; không mua xe công, trừ xe chuyên dùng
theo quy định của pháp luật.
13NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 111 - tháng 1/2017
Chính sách tài khóa và các biến số kinh tế vĩ mô chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 2011-2015
Năm Chính sách tài khóa
Tăng trưởng GDP Chỉ số CPI Tỷ lệ thất nghiệp KV thành thị
KH TH KH TH KH TH
2011
Phối hợp CSTT kiểm soát lạm phát,
tăng cường ổn định KTVM, đảm bảo
các cân đối lớn của nền kinh tế
7-7,5% 5,89% 7,0% 18,58% - 3,6%
2012 Chặt chẽ, hiệu quả 6-6,5% 5,03% 10,0% 9,21% <4% 3,25%
2013 Chặt chẽ, triệt để tiết kiệm 5,5% 5,42% 6-6,5% 6,6% <4% 3,58%
2014 Chặt chẽ, triệt để tiết kiệm 5,8% 5,98% 7,0% 4,09% <4% 3,43%
2015
Chặt chẽ, quản lý và sử dụng tiết kiệm,
hiệu quả, tăng cường kỷ cương, kỷ luật
tài chính
6,2% 6,68% 5,0% 0,63% <4% 3,29%
Nguồn: Tổng hợp từ các Nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều
hành thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH và dự toán NSNN và Báo cáo tình hình phát triển KT-XH các năm
2011-2015.
Nhờ kiên định mục tiêu và áp dụng đồng bộ
nhiều giải pháp, chính sách tài khóa (kết hợp với
chính sách tiền tệ) đã đạt được mục tiêu kiềm chế
và giảm tỷ lệ lạm phát xuống 9,21% vào năm 2012,
6,6% năm 2013, 4,09% năm 2014 và 0,63% năm
2015. Cùng với quá trình kiềm chế lạm phát là sự
hồi phục tăng trưởng của nền kinh tế. Nếu như 3
năm đầu (năm 2011, 2012, và 2013) kinh tế Việt
Nam không đạt chỉ tiêu tăng trưởng đề ra (Năm
2011: 5,89%; năm 2012: 5,03%; năm 2013: 5,42%),
thì 2 năm cuối thời kỳ đã vượt mức kế hoạch (năm
2014 đạt 5,98% so với kế hoạch 5,8%, năm 2015 đạt
6,68% so với 6,2%). Tính trung bình cả giai đoạn
đạt 5,8% (thấp hơn kế hoạch đề ra 6,5%-7% theo
Nghị quyết số 10/2011/QH13 ngày 08/11/2011 của
Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2011-2015). Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh
tế giai đoạn này chưa thật cao nhưng đã cho thấy
tín hiệu tích cực, những cân đối lớn của nền kinh
tế cơ bản được đảm bảo, tạo tiền đề quan trọng cho
việc đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn trong
giai đoạn 2016-2020. Trong bối cảnh thực thi chính
sách tài khóa chặt chẽ, tỷ lệ thất nghiệp cũng được
duy trì ở mức độ hợp lý, năm 2011: 2,27%; năm
2012: 1,99%; năm 2013: 2,2%; năm 2014: 2,08%; và
năm 2015: 2,31%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành
thị luôn thấp hơn so với kế hoạch đề ra (dưới 4%).
Hai là, mặc dù nền kinh tế chưa hồi phục vững
chắc, còn gặp nhiều khó khăn do những tác động khó
lường (từ bên trong và bên ngoài) nhưng NSNN vẫn
được hoàn thành trên cả hai giác độ chính là thu và
chi ngân sách.
Thu - chi Ngân sách Nhà nước giai đoạn 2011-2015 Đơn vị: Tỷ đồng
Nội dung
2011 2012 2013 2014 2015
DT QT DT QT DT QT DT TH DT
1. Tổng thu CĐ
NSNN (theo DT
QH)
595.000 721.804 740.500 734.883 816.000 828.348 782.700 863.520 911.100
Thu NĐ 382.000 443.731 494.600 477.106 545.500 567.403 539.000 583.638 638.600
Thu từ dầu thô 69.300 110.205 87.000 140.106 99.000 120.436 85.200 100.083 93.000
Thu từ XK, NK 138.700 155.765 153.900 107.404 166.500 129.385 154.000 173.366 175.000
2. Tổng chi CĐ
NSNN (Theo DT
QH)
725.600 787.554 903.100 978.463 978.000 1.088.153 1.006.700 1.087.520 1.147.100
14
Taùi cô caáu neàn kinh Teá - nhìn laïi vaø tieáp böôùc
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 111 - tháng 1/2017
Chi ĐTPT 152.000 208.306 180.000 268.812 175.000 271.680 163.000 208.040 195.000
Chi trả nợ, VT 86.000 111.943 100.000 105.838 105.000 112.055 120.000 120.000 150.000
Chi th.xuyên 442.100 467.017 542.000 603.372 658.900 704.165 732.500 732.500 767.000
3. Bội chi NSNN 120.600 112.034 140.200 173.815 162.000 236.769 224.000 224.000 226.000
% BC so với GDP 5,3% 4,4% 4,8% 5,36% 4,8% 6,6% 5,3% 5,69% 5,00%
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo quyết toán NSNN các năm 2011-2013, tình hình thực hiện NSNN năm
2014 và Dự toán NSNN năm 2015 do Bộ Tài chính công bố.
Thu NSNN các năm đều vượt so với dự toán. Tỷ lệ
huy động từ thuế, phí vào NSNN trong giai đoạn này
khoảng 21% GDP, gần sát với mục tiêu đề ra (không
quá 22% - 23% GDP/năm theo Chiến lược Tài chính
đến năm 2020 ban hành theo Quyết định số 450/
QĐ-TTg ngày 18/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ)
nhưng giảm khá nhiều so với giai đoạn 2006-2010 là
24,8% GDP. Đây là xu hướng giảm thích hợp với bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm tạo môi trường
cạnh tranh, khuyến khích doanh nghiệp phát triển.
Công tác phát hành trái phiếu huy động vốn cho
đầu tư phát triển cơ bản hoàn thành kế hoạch đặt
ra. Đặc biệt, năm 2014 đã phát hành thành công
trái phiếu Chính phủ ra thị trường vốn quốc tế, huy
động 1 tỷ uSD theo hình thức 144a/Quy chế S ngày
07/11/2014, kỳ hạn 10 năm, lãi suất cố định 4,8%/
năm (thấp hơn mức dự kiến 5,125%/năm). Đây là
mức lãi suất thấp nhất trong các đợt phát hành từ
trước đến thời điểm đó (lần lượt là 6,875%/năm và
6,755%/năm đối với trái phiếu phát hành năm 2005
và 2010).
Nét nổi bật của thu NSNN giai đoạn 2011-2015
đó là tính bền vững của thu NSNN ngày càng được
cải thiện, tỷ trọng thu nội địa tăng cùng với đó là
tỷ trọng thu dựa vào tài nguyên thiên nhiên (thu từ
dầu thô) giảm. Sự gia tăng tỷ trọng số thu nội địa
và thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cho thấy
thu NSNN dựa nhiều hơn vào thực trạng hoạt động
sản xuất kinh doanh. Tỷ trọng thu nội địa trong tổng
thu cân đối theo dự toán của Quốc hội năm 2011:
61,5%; năm 2012: 64,9%; năm 2013: 68,5%; năm
2014: 67,6% và dự toán năm 2015 là: 70%. Thu từ
dầu thô có xu hướng giảm cả về số thu và tỷ trọng
trong tổng thu cân đối theo dự toán của Quốc hội.
Thu từ dầu thô đạt đỉnh cao vào năm 2012 với số
thu 140.106 tỷ đồng, chiếm 19,1% tổng thu cân đối
theo dự toán của Quốc hội, nhưng sau đó giảm thấp,
đạt 100.083 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 11,6% vào năm
2014 và dự toán đạt 93.000 tỷ đồng (tương ứng 10%)
vào năm 2015. Nguyên nhân chủ yếu là do sự biến
động giảm của giá dầu thô thế giới.
Chi NSNN các năm cũng vượt so với dự toán.
Chi cho đầu tư phát triển đã được tập trung cho các
công trình, dự án quan trọng, đồng thời được bổ
sung từ nguồn dự phòng NSNN để thực hiện các
dự án cấp bách về quốc phòng, an ninh, khắc phục
sự cố đê, kè xung yếu để chủ động phòng tránh và
giảm nhẹ thảm họa thiên tai... Chi thường xuyên
được kiểm soát theo hướng không tăng chi cho các
chính sách mới mà chỉ tăng do tăng quy mô các
khoản chi và tăng chi đảm bảo an sinh xã hội. Chi
thường xuyên đã đảm bảo được nguồn lực thực
hiện các nhiệm vụ phát triển sự nghiệp y tế, văn
hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, an sinh
xã hội...
Ba là, nhiều cải cách chính sách về thu NSNN
được ban hành và tạo hiệu ứng tích cực đối với nền
kinh tế.
Giai đoạn 2011-2015 đánh dấu bằng việc sửa đổi,
bổ sung các luật thuế quan trọng theo hướng tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế
GTGT số 31/2013/QH13 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13
cùng được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2013 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2014. Theo đó nhiều
15NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 111 - tháng 1/2017
thay đổi của hai luật thuế này có
tác động tích cực đến nền kinh
tế Việt Nam. Luật thuế TNDN
sửa đổi, bổ sung 12/20 điều của
Luật cũ theo hướng giảm thuế
suất phổ thông từ 25% xuống
22%, và áp dụng mức thuế
suất 20% đối với doanh nghiệp
có doanh thu không quá 20
tỷ đồng năm, 10% đối với thu
nhập từ đầu tư - kinh doanh
nhà ở xã hội. Luật Thuế GTGT
sửa đổi, bổ sung quy định về các đối tượng không
chịu thuế, sửa đổi quy định về hoàn thuế đối với các
trường hợp liên tục nhiều tháng có số thuế GTGT
đầu vào chưa được khấu trừ hết (nâng từ 3 tháng
lên 12 tháng). Bên cạnh đó, Luật thuế thu nhập cá
nhân cũng được Quốc hội sửa đổi, thông qua vào
ngày 22/11/2012, nâng mức giảm trừ gia cảnh từ
4 triệu đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng đối với
người nộp thuế và từ 1,6 triệu đồng/tháng lên 3,6
triệu đồng/tháng đối với người phụ thuộc. Những
thay đổi về chính sách thuế theo chiều hướng thuận
lợi đã tác động tích cực, thúc đẩy hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Bên cạnh cải cách chính sách thuế, thủ tục hành
chính thuế cũng được đổi mới phù hợp với tinh
thần của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Quản lý thuế số 21/2012/QH13. Ngày 25/8/2014
Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 119/2014/
TT-BTC (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 9 năm 2014)
sửa đổi, bổ sung nội dung và mẫu biểu của 7 Thông
tư nhằm cải cách, đơn giản thủ tục hành chính về
thuế. Theo đó, đã bãi bỏ, đơn giản nhiều bảng kê;
làm rõ căn cứ xác định thuế đối với hộ nộp thuế
khoán được miễn, giảm; sửa đổi, bổ sung nội dung
về khai, nộp thuế TNDN theo hướng đơn giản hơn.
Việc ban hành và triển khai Thông tư 119/2014/
TT-BTC đã cắt giảm được 201,5 giờ kê khai, nộp
thuế/năm. Tiếp đó, Bộ Tài chính ban hành Thông
tư số 151/2014/TT-BTC ngày 10/10/2014 (có hiệu
lực thi hành ngày 15/11/2014) hướng dẫn thi hành
Nghị định số 91/2014/NĐ-CP ngày 01/10/2014 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Nghị
định quy định về thuế TNDN, GTGT, TNCN, quản
lý thuế. Thời gian thực hiện nộp thuế của doanh
nghiệp giảm thêm được 88,36 giờ/năm. Như vậy,
với việc ban hành Thông tư 119/2014/TT-BTC và
Thông tư 151/2014/TT-BTC, thời gian nộp thuế đã
giảm được gần 290 giờ, từ 537 giờ/năm xuống còn
247 giờ/năm vào năm 2014 (không bao gồm thời
gian nộp bảo hiểm). Năm 2015, thủ tục hành chính
thuế tiếp tục được cải cách, nâng các chỉ tiêu về
môi trường kinh doanh của Việt Nam đạt và vượt
mức trung bình của các nước aSEaN-6, trong đó
rút ngắn thời gian nộp thuế còn không quá 121,5
giờ/năm. Những thủ tục thuế được cắt, giảm đã tạo
động lực phát triển cho doanh nghiệp và giảm chi
phí cho xã hội.
Bốn là, công tác quản lý đầu tư công được tăng
cường nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN.
Điểm nhấn trong giai đoạn này đó là Luật
Đầu tư công được ban hành. Luật điều chỉnh việc
quản lý, sử dụng các nguồn vốn đầu tư công, bao
gồm vốn NSNN, vốn công trái quốc gia, vốn trái
phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa
phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODa)
và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài,
vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, các
khoản vốn vay khác của ngân sách địa phương để
đầu tư. Luật cũng thể chế hóa quy trình quyết định
16
Taùi cô caáu neàn kinh Teá - nhìn laïi vaø tieáp böôùc
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 111 - tháng 1/2017
chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư chương trình,
dự án đầu tư công nhằm ngăn ngừa tình trạng tùy
tiện, dễ dàng trong việc quyết định chủ trương
đầu tư, quyết định đầu tư gắn với trách nhiệm của
người có thẩm quyền. Các nguyên tắc trong quản
lý đầu tư công được đề cao.
Theo đó, các chương trình, dự án phải phù hợp
với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 05 năm
của đất nước, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
và quy hoạch phát triển ngành; thực hiện đúng
trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà
nước, tổ chức, cá nhân liên quan đến quản lý và sử
dụng vốn đầu tư công; quản lý việc sử dụng vốn
đầu tư công đúng quy định đối với từng nguồn vốn;
bảo đảm đầu tư tập trung, đồng bộ, chất lượng, tiết
kiệm, hiệu quả và khả năng cân đối nguồn lực,
không để thất thoát, lãng phí; bảo đảm công khai,
minh bạch trong hoạt động đầu tư công. Bên cạnh
Luật đầu tư công, Thủ tướng Chính phủ ban hành
liên tiếp 03 chỉ thị trực tiếp chỉ đạo xử lý vấn đề nợ
xây dựng cơ bản gắn với đó là hàng loạt các biện
pháp kiên quyết và cứng rắn về chuyên môn kỹ
thuật và công tác cán bộ nhằm đạt mục tiêu đến
hết năm 2015 phải hoàn thành việc xử lý nợ đọng
xây dựng cơ bản và không để phát sinh nợ mới.
Đó là Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011
về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn NSNN và vốn
trái phiếu Chính phủ, Chỉ thị số 27/CT-TTg ngày
10/10/2012 về những giải pháp chủ yếu khắc phục
tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản tại các địa
phương và Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/6/2013
về tăng cường quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây
dựng cơ bản từ nguồn vốn NSNN, trái phiếu Chính
phủ. Trên cơ sở chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ,
nhiều địa phương ban hành các văn bản, công văn
chỉ đạo hướng dẫn các đơn vị có liên quan, các
Ban quản lý dự án tuân thủ đúng quy định pháp
luật về đầu tư; chấn chỉnh công tác thanh, quyết
toán; kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các chủ đầu tư,
doanh nghiệp xây dựng, các nhà thầu; giảm đầu tư
dàn trải, thi công kéo dài, kém hiệu quả, từng bước
xử lý dứt điểm nợ đọng xây dựng cơ bản. Nhờ đó,
hoạt động đầu tư công đã có bước cải thiện đáng
kể, nợ đọng xây dựng cơ bản có xu hướng giảm.
2. Một số tồn tại trong thực thi chính sách tài
khóa giai đoạn 2011-2015
Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được kể
trên, chính sách tài khóa giai đoạn 2011-2015 bộc
lộ một số hạn chế cơ bản, ảnh hưởng đến sự ổn
định kinh tế vĩ mô.
(1) Bội chi ngân sách ở mức cao ảnh hưởng đến
tính bền vững của NSNN
Bội chi NSNN có xu hướng tăng và ở mức cao,
không đạt mục tiêu đề ra là dưới 4,5% GDP vào
năm 2015. Năm 2011 mức bội chi là 4,4% GDP,
năm 2102 là 5,4% GDP, năm 2013 là 6,6% GDP,
năm 2014 là 6,33% GDP, năm 2015 (dự kiến) là
6,11% GDP. Một phần bội chi đã phải sử dụng cân
đối cho trả nợ gốc, thể hiện cân đối ngân sách chưa
chắc chắn. Mức bội chi cao và kéo dài trong nhiều
năm gây căng thẳng cho bố trí NSNN thực hiện
các nhiệm vụ chi quản lý của Nhà nước. Cân đối
ngân sách nhà nước khó khăn khiến Chính phủ
không thực hiện được tăng lương cho đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức theo lộ trình đề ra.
(2) Nợ công tăng nhanh và ở mức cao.
Đến cuối năm 2015, tỷ lệ nợ công/GDP khoảng
61,3%, nợ Chính phủ 48,9%, nợ nước ngoài
của quốc gia 41,5%. Tuy vẫn thấp hơn chỉ tiêu
đề ra (theo Nghị quyết số 10/2011/QH13 ngày
08/11/2011 về Kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội
5 năm 2011-2015 của Quốc hội, đến năm 2015 nợ
công không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không
quá 50% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia
không quá 50% GDP) nhưng nợ công tiệm cận tới
giới hạn với tốc độ nhanh trong thời gian qua (từ
năm 2006 đến năm 2010 tăng thêm 15% GDP và
từ năm 2011 đến năm 2015 tăng thêm khoảng 7%
GDP), nếu tính cả các khoản nợ khác của NSNN
(nợ đọng xây dựng cơ bản) thì còn cao hơn nữa.
Ngoài ra, việc quản lý, sử dụng vốn vay cũng đạt
17NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 111 - tháng 1/2017
hiệu quả thấp. Tốc độ tăng nợ
công nhanh hơn tốc độ