Đối với hoạt động tín dụng, tài sản đảm bảo được xem như
“phao cứu sinh” nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng
(NH), đảm bảo NH có thể thu hồi được một phần hoặc toàn
bộ gốc và lãi khi khách hàng không trả được nợ. Trong
những năm gần đây, tài sản trí tuệ (sau đây gọi tắt là IP)
đã trở nên ngày càng quan trọng. IP đã bắt đầu được công
nhận như giá trị thị trường của các công ty giao dịch công
khai. Việc sử dụng IP như là một tài sản đảm bảo để vay
vốn NH chỉ mới xuất hiện và đang được phát triển thời gian
gần đây trên thế giới. IP được xem là giải pháp hiệu quả
đối với các NHTM, qua đó tạo động lực để thúc đẩy sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp (DN).
7 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 505 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cho vay dựa trên tài sản đảm bảo là tài sản trí tuệ - cơ hội, thách thức cho các ngân hàng thương mại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
46 SOÁ 170 - THAÙNG 7.2016
Cho vay dựa trên tài sản đảm bảo là
tài sản trí tuệ- Cơ hội, thách thức cho
các ngân hàng thương mại Việt Nam
TRẦN THỊ THU HƯỜNG
Đối với hoạt động tín dụng, tài sản đảm bảo được xem như
“phao cứu sinh” nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng
(NH), đảm bảo NH có thể thu hồi được một phần hoặc toàn
bộ gốc và lãi khi khách hàng không trả được nợ. Trong
những năm gần đây, tài sản trí tuệ (sau đây gọi tắt là IP)
đã trở nên ngày càng quan trọng. IP đã bắt đầu được công
nhận như giá trị thị trường của các công ty giao dịch công
khai. Việc sử dụng IP như là một tài sản đảm bảo để vay
vốn NH chỉ mới xuất hiện và đang được phát triển thời gian
gần đây trên thế giới. IP được xem là giải pháp hiệu quả
đối với các NHTM, qua đó tạo động lực để thúc đẩy sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp (DN).
Từ khóa: Tài sản trí tuệ, cho vay
dựa trên tài sản trí tuệ, tín dụng
ngân hàng
1. Những vấn đề chung về tài
sản trí tuệ
IP được hiểu là những thành quả
do trí tuệ con người tạo ra thông
qua hoạt động sáng tạo được
thừa nhận là tài sản. Giống như
các loại tài sản vật chất khác như
động sản hay bất động sản, IP
có thể được mua, bán, cho phép
sử dụng, trao đổi hoặc biếu tặng.
Điểm khác biệt cơ bản nhất giữa
IP và các loại tài sản vật chất, đó
chính là tính vô hình của IP.
Theo Tổ chức IP Thế giới (World
Intellectual Property Orgnization-
WIPO) năm 2013, khái niệm IP
được định nghĩa để chỉ những
sáng tạo của trí tuệ như: Các phát
minh sáng chế, tác phẩm văn học,
nghệ thuật và biểu tượng, tên,
hình ảnh và thiết kế dùng trong
thương mại.
IP là bí quyết riêng có, vô hình,
độc quyền của DN, thường là yếu
tố cốt lõi tạo nên giá trị DN, và
các loại IP phổ biến nhất là bằng
sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu,
bí mật kinh doanh và thiết kế bố
trí mạch tích hợp bán dẫn.
Với luật pháp đã ban hành của
nước ta có liên quan đến tài sản
và quyền tài sản, cụ thể về IP,
quyền sở hữu trí tuệ gồm có các
bộ luật: Bộ luật Dân sự năm
2005 ban hành ngày 14/6/2005,
Luật Sở hữu Trí tuệ (SHTT) số
50/2005/QH11 ban hành ngày
29/11/2005, Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của Luật SHTT số
36/2009/QH12 ban hành ngày
19/6/2009 và các văn bản luật
liên quan khác, thì cho tới thời
điểm này chưa có một điều luật
nào nhằm giải thích từ ngữ hoặc
định nghĩa chính xác cho cụm
từ tài sản trí tuệ. Đối tượng quan
tâm chính là quyền sở hữu trí
tuệ, cũng như các đối tượng của
quyền sở hữu trí tuệ. Theo đó,
các đối tượng này được quy định
tại Điều 3 Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của Luật SHTT số
36/2009/QH12 ban hành ngày
19/6/2009 bao gồm ba nhóm:
(1) Quyền tác giả và quyền liên
quan
+ Quyền tác giả: Quyền tác giả
(hay còn gọi là bản quyền) là
một thuật ngữ pháp lý mô tả
quyền lợi của người sáng tác ra
các tác phẩm văn học, nghệ thuật
và khoa học được thể hiện dưới
dạng hữu hình, trong đó bao gồm
quyền tái bản, in ấn và trình diễn
trưng bày tác phẩm của mình
trước công chúng.
+ Quyền liên quan: Đó là quyền
của tổ chức, cá nhân đối với các
cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
Quản trị ngân hàng & doanh nghiệp
47THAÙNG 7.2016 - SOÁ 170
hình và chương trình phát sóng,
tín hiệu vệ tinh mang tính chương
trình được mã hóa.
(2) Quyền sở hữu công nghiệp:
Theo Luật SHTT 2005, quyền
sở hữu công nghiệp là quyền của
các tổ chức, cá nhân đối với bằng
sáng chế- các sáng chế/sự sáng
tạo được pháp luật bảo hộ; nhãn
hiệu hàng hóa/ nhãn hiệu dịch vụ-
từ, cụm từ và biểu tượng dùng để
nhận diện hoặc phân biệt hàng
hóa, dịch vụ; bí mật kinh doanh
như các thông tin độc quyền được
giữ bí mật; thiết kế bố trí mạch
tích hợp như thiết kế bố trí ba
chiều của chip máy tính.
(3) Quyền đối với giống cây
trồng: Giống cây trồng và vật
liệu nhân giống đã trở thành đối
tượng của quyền SHTT được bảo
vệ theo Công ước bảo vệ giống
cây trồng năm 1961. Theo Luật
SHTT, quyền đối với cây trồng
là quyền của tổ chức, cá nhân đối
với giống cây trồng mới do chính
mình chọn hoặc phát triển hoặc
được hưởng quyền sở hữu.
Tuy nhiên, ở một số tài liệu nước
ngoài, chúng ta có thể thu thập
được những khái niệm được định
nghĩa một cách cụ thể, trực tiếp
đến IP hơn. Theo WIPO năm
2013, tài sản trí tuệ được chia
thành hai loại:
- Sở hữu công nghiệp bao gồm
bằng sáng chế, phát minh, nhãn
hiệu, thiết kế công nghiệp, chỉ
dẫn địa lý.
- Bản quyền bao gồm tác phẩm
văn học và nghệ thuật như tiểu
thuyết, các bài thơ, kịch, phim,
tác phẩm âm nhạc, tác phẩm nghệ
thuật như tranh vẽ, ảnh, tác phẩm
điêu khắc và thiết kế kiến trúc.
2. Lợi ích từ việc cho vay đảm
bảo bằng tài sản trí tuệ
Thứ nhất, giúp doanh nghiệp tiếp
cận được nguồn vốn vay
Nguồn tài trợ truyền thống từ
ngân hàng hiếm khi đến được với
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu
tiếp cận được, những công ty này
phải chấp nhận vay với giá cao,
do ít có tài sản cố định có giá trị,
nhất là công ty khởi nghiệp. Vì
thế, sử dụng IP như một loại tài
sản thế chấp cho các khoản vay
NH có thể là giải pháp tìm vốn
thay thế.
Với các doanh nghiệp mới khởi
nghiệp, IP thường là tài sản chính
và có giá trị cao nhất của bên vay.
Theo số liệu thống kê về cơ cấu
tài sản theo giá trị thị trường của
500 công ty S&P, tài sản IP tăng
nhanh qua từng năm.
Theo Hình 1, năm 1975, tài sản
vô hình của nhóm công ty là
17%, hữu hình 83%. Đến năm
2010, tài sản vô hình tăng lên
80%, trong khi tài sản hữu hình
chỉ còn lại 20% và ước tính tháng
01/2015, tài sản vô hình đã tăng
lên 84%, trong kho tài sản hữu
hình chỉ còn lại 16%. Như vậy,
việc mở rộng cho vay thế chấp
theo tài sản vô hình là xu hướng
tất yếu mà NH sẽ thực hiện.
Trên thực tế các nước có nền kinh
tế thị trường phát triển, giá trị của
doanh nghiệp ngày càng chiếm
tỷ lệ lớn các IP. Trong danh
sách 100 thương hiệu mạnh nhất
thế giới năm 2002 do tuần báo
Business Hoa kỳ công bố, nhãn
hiệu Coca- Cola được định giá
tới 69,6 tỷ USD, Microsoft 64 tỷ
USD, INM 51,1 tỷ USD, GE 41,3
tỷ USD, Intel 30,8 tỷ USD, Nokia
29,9 tỷ USD. Còn đối với một
số sản phẩm có tên tuổi ở Việt
Nam, như nhãn hiệu Kem đánh
răng P/S được chuyển nhượng
với giá 7,5 triệu USD, kem đánh
răng Dạ Lan 2,5 triệu USD. Sự
gia tăng IP trong tổng giá trị sổ
sách đồng nghĩa với việc giảm
giá trị của các loại tài sản hữu
hình. Điều này phù hợp với định
hướng chuyển dịch từ nền kinh tế
dựa trên sản xuất sang nền kinh tế
dựa trên tri thức toàn thế giới. Do
đó, dần dần các tài sản khác sẽ bị
thay thế bởi tài sản vô hình nói
chung và IP nói riêng, dẫn tới tất
yếu việc chuyển dịch thị trường
Hình 1. Cơ cấu IP theo giá trị thị trường của 500 công ty S&P
Nguồn: Ocean Tomo
48 SOÁ 170 - THAÙNG 7.2016
vay có bảo đảm bằng các tài sản
thông thường khác sang cho vay
có bảo đảm bằng IP.
Những năm gần đây, những
người cho vay nợ đã tăng sự quan
tâm đối với IP. Nghiên cứu của
Bruce, Emma và Candice (2014)
chỉ ra rằng tại thị trường chứng
khoán bằng sáng chế của Mỹ,
đã có 16% tài sản loại này được
sử dụng làm tài sản đảm bảo.
Tuy vậy, thị trường cho loại tài
sản này được phục vụ chủ yếu
bởi một số nhà cho vay đặc biệt,
chưa phổ biến, nhưng tín hiệu
cho thấy một số NH truyền thống
và công ty tài chính đang dần
nóng lên với chiến lược tài chính
này (Bruce, Emma và Candice,
2014). Cùng với sự gia tăng giá
trị sổ sách của IP trong tổng giá
trị doanh nghiệp, việc sử dụng
IP làm tài sản đảm bảo sẽ là một
nguồn mới để thu hút được nhiều
vốn hơn.
Thứ hai, cải thiện sự cân bằng
giữa rủi ro và lợi nhuận
Maria Loumioti (2011) đã tiến
hành nghiên cứu về vấn đề sử
dụng IP làm tài sản đảm bảo,
trong đó, ông có đặt ra một giả
thiết về hiệu suất cho vay của
IP khi sử dụng làm tài sản đảm
bảo. Ông sử dụng mô hình hồi
quy bình phương nhỏ nhất với
biến phụ thuộc là hiệu suất vay
trong suốt thời gian của khoản
vay, biến độc lập thứ nhất là chỉ
số sự tụt hạng mức xếp hạng
tín dụng tác giả trích xuất từ dữ
liệu của S&P 500 hoặc Moody’s
đối với độ dài thời gian khoản
vay, có điều chỉnh kì hạn vay.
Biến độc lập thứ hai là chỉ số
về số lần vi phạm giao ước bảo
đảm trong suốt thời gian khoản
vay từ dữ liệu của Nini, Smith
và Sufi, điều chỉnh kì hạn vay.
Biến độc lập thứ ba là chỉ số số
năm mà Z-score của khoản vay
(Z-Score) giảm xuống dưới 0,3
(tức là Z-score trung bình trong
hai kì thấp nhất trong thời gian
1996- 2010), điều chỉnh kỳ hạn
vay. Kết quả của mô hình này chỉ
ra rằng thế chấp một khoản vay
bằng IP không làm suy giảm xếp
hạng tín dụng. Sử dụng chỉ số
Z-score của khoản vay, chỉ số sự
tụt hạng xếp hạng tín dụng, hoặc
chỉ số vi phạm giao ước như các
biến độc lập ước tính cho hiệu
suất cho vay cho thấy không có
sự khác biệt đáng kể giữa các
khoản cho vay có bảo đảm bằng
hữu hình và tài sản vô hình bao
gồm các khoản cho vay thế chấp.
Thêm vào đó, sử dụng tỷ lệ phá
sản như một biến ước lượng hiệu
suất cho vay thấy rằng khả năng
nộp đơn xin phá sản của trường
hợp sử dụng IP làm tài sản bảo
đảm thấp hơn 4% so với trường
hợp sử dụng các tài sản khác. Do
đó, đây là một bằng chứng thiết
thực cho việc sử dụng IP làm tài
sản đảm bảo thì không rủi ro hơn
so với các tài sản đảm bảo thông
thường khác.
Thứ ba, giảm khả năng bị mất
vốn
IP khi sử dụng như một tài sản
bổ sung cho khoản vay giúp làm
giảm rủi ro bị xiết nợ, qua đó cải
thiện hồ sơ tín dụng tổng thể, gia
tăng khả năng vay nợ của người
đi vay, và có thể làm giảm lãi
suất yêu cầu của người cho vay.
Trên thực tế, các ngân hàng nói
chung không xem xét IP như một
tài sản mà có thể được sử dụng
như tài sản thế chấp, nhưng họ
vẫn sẽ đưa nó vào trong các quyết
định cho vay của mình và sẽ tìm
cách kiểm soát nó, làm cho nó
trở thành một phần của “mạng
lưới bảo đảm» của khoản vay. Sử
dụng IP như một tài sản bổ sung
của giao dịch cho vay thì dễ dàng
hơn là sử dụng chính nó để bảo
đảm cho khoản vay.
Đối với các khoản vay có tài sản
bảo đảm thông thường, người cho
vay quan tâm đến các tài sản vật
chất thông thường để sử dụng cho
bảo đảm, chẳng hạn như hàng
tồn kho, máy móc, hay bất động
sản, trong việc xác định quy mô
khoản vay và các điều khoản.
Bên đi vay cung cấp những lợi
ích bí mật các tài sản này để cho
vay thế chấp đối với khoản vay.
Và cho vay sử dụng IP làm tài
sản bảo đảm thì cũng tương tự
như các khoản vay có tài sản đảm
bảo là tài sản hữu hình. Rõ ràng
khi sử dụng tài sản trí tuệ là tài
sản bổ sung hay tài sản chính để
đảm bảo khoản vay thì đó đều
được coi là nguồn thu nợ thứ hai
của ngân hàng, ngân hàng có thể
bán đi để giảm thiểu khả năng bị
mất vốn.
Thứ tư, tài sản trí tuệ giúp cung
cấp vốn nhanh chóng trở lại vào
nghiên cứu và phát triển
Sử dụng IP là tài sản thế chấp
giúp tăng đòn bẩy tài chính. Điều
này xảy ra bởi vì, hiện nay, nhiều
dòng tiền bản quyền được thu
về một lần duy nhất chứ không
phải trả dần qua từng năm. Khoản
tiền trọn gói nhận được này sau
đó có thể được dùng đầu tư vào
các dự án trong tương lai, hoặc
dự án hiện tại mà có lợi nhuận
cao hơn so với chi phí tài chính.
Bằng cách đảm bảo các IP từ các
49THAÙNG 7.2016 - SOÁ 170
nghiên cứu và phát triển đã thành
công trước đó để vay vốn, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ có
nguồn vốn này để tiếp tục đầu tư
vào nghiên cứu và phát triển, với
điều kiện họ có khả năng chuyển
đổi các nghiên cứu và phát triển
trở thành những tài sản thực sự
như bằng sáng chế, nhãn hiệu,
bản quyền mà có khả năng đảm
bảo vay vốn.
3. Rủi ro của việc sử dụng tài
sản trí tuệ làm tài sản đảm bảo
Thứ nhất, về vấn đề định giá tài
sản trí tuệ
Rất khó định giá IP do IP thường
là tài sản đứng một mình, không
có tài sản tương đương trên thị
trường, do vậy cũng rất khó xác
định được tỷ lệ chiết khấu đối
với IP. Điều này sẽ là trở ngại
lớn nhất của các NHTM Việt
Nam. Hiện nay các NHTM Việt
Nam đang cho vay dựa trên việc
định giá tài sản đảm bảo làm căn
cứ xác định mức cho vay. Nếu
không xác định được giá trị tài
sản đảm bảo thì các NH sẽ không
có căn cứ để xác định được giới
hạn cho vay tối đa theo giá trị
tài sản đảm bảo. Thông thường,
các nhà đầu tư vào IP nhắm đến
thu nhập kỳ vọng trong tương
lai, thay vì định giá dựa trên giá
trị thị trường như các loại tài sản
khác. Thêm vào đó, đối thủ cạnh
tranh có thể tấn công vào IP được
bảo hộ làm mất đòn bẩy thực thi
quyền của chủ sở hữu IP hoặc thị
trường có thể nhận định giá trị sử
dụng mà IP mang lại là rất nhỏ.
Đây chính là lý do tại sao các nhà
đầu tư tiềm năng và NH chưa sẵn
sàng đầu tư vào IP.
Trên thực tế hiện nay có 3
phương pháp định giá tài sản.
Tuy nhiên với cả 3 phương pháp
định giá này đều có nhược điểm
và việc áp dụng các phương pháp
này ở Việt Nam hiện nay có thể
đem lại kết quả không chính xác
về giá trị tài sản bảo đảm. Cụ thể
như sau:
- Phương pháp dựa vào thu nhập:
Phương pháp này tập trung vào
nguồn thu nhập ước tính mà chủ
thể quyền sở hữu trí tuệ mong
muốn nhận được trong thời gian
hiệu lực của quyền sở hữu trí tuệ.
Vì vậy, phương pháp này sử dụng
khấu hao tiền mặt để tạo ra giá
trị hiện tại cho nguồn thu nhập
trong tương lai. Có thể ước tính
được thu nhập khi nhìn vào số
tiền mà doanh nghiệp thu được từ
li-xăng1 nếu doanh nghiệp thực
1 Li- xăng có nguồn gốc từ một danh
hiện li-xăng một quyền sở hữu
trí tuệ cụ thể. Tuy nhiên, nhược
điểm của phương pháp này khi
áp dụng ở Việt Nam chính là sự
phức tạp của nó. Ví dụ như việc
xây dựng mô hình định giá không
phù hợp, không phản ánh đúng
thực tế hoặc có ý kiến chủ quan
của người định giá khi đưa ra các
con số dự đoán hoặc khi dữ liệu
đầu vào không đúng thì kết quả
đầu ra sẽ không chính xác
- Phương pháp dựa vào chi phí:
Phương pháp này được sử dụng
để ước tính các lợi ích trong
tương lai của IP bằng cách tính
số tiền cần để thay thế IP được
đề cập. Nhược điểm của phương
pháp này chính là cơ hội dẫn
đến kết quả nhầm lẫn cao. Sở dĩ
như vậy là do trong hầu hết các
trường hợp, chi phí liên quan đến
phát triển một thứ gì đó không
nhất thiết liên quan trực tiếp đến
giá trị của nó. Điều này đặc biệt
đúng trong hoạt động nghiên cứu
và triển khai đối với IP ở Việt
Nam.
từ La-tinh là licentia, nghĩa là việc tổ
chức, cá nhân nắm độc quyền sử
dụng một đối tượng sở hữu trí tuệ
(Bên chuyển quyền sử dụng- thường
được gọi là bên giao) cho phép tổ
chức cá nhân tổ chức khác (Bên nhận
quyền sử dụng- thường được gọi là
Bên nhận) sử dụng đối tượng sở hữu
trí tuệ đó.
Rất khó định giá tài sản trí tuệ (IP) do IP thường là tài sản đứng một mình, không có tài sản tương đương trên thị trường, do vậy cũng rất khó xác định được tỷ lệ chiết khấu cho vay đối với IP. Thông
thường, các nhà đầu tư vào IP nhắm đến thu nhập kỳ vọng trong tương lai, thay vì định giá dựa trên giá
trị thị trường như các loại tài sản khác. Thêm vào đó, đối thủ cạnh tranh có thể tấn công vào IP được bảo
hộ làm mất đòn bẩy thực thi quyền của chủ sở hữu IP hoặc thị trường có thể nhận định giá trị sử dụng
mà IP mang lại là rất nhỏ. Đây chính là lý do tại sao các nhà đầu tư tiềm năng và ngân hàng chưa sẵn
sàng đầu tư vào IP vì họ biết không rõ về cách thức thị trường sẽ phản ứng với các tài sản trong tương lai.
50 SOÁ 170 - THAÙNG 7.2016
- Phương pháp dựa vào thị
trường: Phương pháp này dựa
vào việc bên thứ ba sẵn sàng chi
để mua hoặc thuê tài sản. Phương
pháp này cũng có thể được sử
dụng bổ sung cho phương pháp
thu nhập. Một số doanh nghiệp
coi đây là phương pháp tốt nhất
vì tính đơn giản và khả năng sử
dụng thông tin thị trường. Tuy
nhiên nhược điểm của phương
pháp này là không cung cấp được
thông tin về cách xử lý các đặc
điểm riêng biệt của từng giao
dịch cụ thể.
Như vậy, với mỗi phương pháp
khác nhau có thể đưa ra kết quả
giá trị của cùng một IP khác
nhau. Việc lựa chọn phương pháp
để định giá của các DN tham
gia định giá cũng rất khác nhau,
cùng một loại tài sản nhưng mỗi
nơi có một phương pháp riêng
và thường sẽ cho ra kết quả khác
nhau. Điều đó phần nào cũng
làm giảm uy tín của các tổ chức
định giá đối với khách hàng. Một
khó khăn nữa là những phương
pháp định giá IP không được
công bố rộng rãi trên các phương
tiện tra cứu thông thường, nên
việc hiểu và áp dụng để định giá
IP càng trở nên phức tạp.
Thứ hai, vấn đề duy trì giá trị
của tài sản trí tuệ
Việc duy trì giá trị này khác nhau
đối với các loại tài sản khác nhau
của IP. Điều này đòi hỏi sự am
hiểu của người quản lý và việc
theo dõi sát sao với từng loại hình
IP cũng trở nên phức tạp hơn các
loại tài sản thông thường khác. Ví
dụ, tên thương mại và bằng sáng
chế cần phải được bảo vệ khỏi sự
xâm phạm. Tương tự bất kỳ tài
sản nào khác, việc duy trì để giữ
nguyên giá trị thường bị bỏ qua
khi một công ty hoạt động kém,
do đó làm mất giá trị của IP.
Một khó khăn khác là sự lỗi thời,
nếu có một sản phẩm mới với
công nghệ mới được đưa vào thị
trường, giá trị của tài sản trí tuệ
kết hợp với các sản phẩm của nó
đang giao dịch trên thị trường
sẽ giảm. Đây là một khó khăn
của việc quản lý giá trị IP. Một
sai lầm thường thấy là nhà đầu
tư thường quá lạc quan vào sản
phẩm, cho đến khi thị trường
đánh giá lại.
Thứ ba, vấn đề giám sát tài sản
trí tuệ
Nhiều vấn đề khác liên quan
đến IP. Chẳng hạn, ai có quyền
sở hữu tài sản? Loại tài sản này
có được bảo hộ hay không? Khi
nào IP đó phát sinh thu nhập? Lộ
trình phát triển kinh doanh mà
người vay đưa ra liệu có phi thực
tế và thiếu khách quan?
Bên cạnh đó vấn đề giám sát
IP, như mã nguồn của các phần
mềm, đôi khi chỉ thay một vài
dòng lệnh trong số ngàn hàng
dòng lệnh cũng đã có thể được
cấp bản quyền khác. Giống như
những khoản cho vay khác ở
ngân hàng, các khoản cho vay IP
này cũng có nợ xấu, một khi ngân
hàng định giá sai.
Thứ tư, tài sản trí tuệ có thể gặp
khó khăn do vấn đề pháp lý
Hai ví dụ điển hình là (1) Rủi ro
về sự xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ và (2) Hết thời hạn bảo hộ.
Rủi ro về sự xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ thường xảy ra với
những sản phẩm mới, khi nó chưa
được biết đến rộng rãi nhưng có
một sản phẩm tương tự nhái lại
trên thị trường đã được tung ra
trước với giá thấp hơn giá của IP
này. Lúc này khi IP được đưa ra
thị trường muộn hơn, dù được
bảo hộ bởi Nhà nước nhưng cũng
đã giảm mất giá trị hoặc là không
còn giá trị trên thị trường.
Rủi ro về hết thời hạn bảo hộ đối
với IP xảy ra khi người cho vay
không xác định rõ ràng những
đăng kí bảo hộ hoặc gia hạn bảo
hộ của chủ sở hữu IP với các cơ
quan có thẩm quyền liên quan.
Nếu các IP này không còn thời
hạn bảo hộ, thì sẽ khó khăn trong
việc giao dịch, chuyển nhượng
hoặc thanh lý, dẫn tới giảm giá
trị.
4. Giải pháp cho việc sử dụng
tài sản trí tuệ làm tài sản đảm
bảo
Thứ nhất, đối với ngân hàng
Các NH cần chấp nhận nó như
một tài sản có thể bảo đảm cho
vay để mở rộng thị trường và
gián tiếp giúp nâng cao nhận
thức đối với IP. Cán bộ tín dụng
phải có cập nhật nhanh chóng
với thị trường IP, cũng như cách
xác định giá trị IP cho mục đích
đảm bảo cho vay phù hợp với thị
trường cho vay của Việt Nam và
sự an toàn của NH.
Cần bổ trợ kiến thức về thẩm
định tài sản vô hình nói chung
và IP nói riêng cho các cán bộ
tín dụng. IP thường có thị trường
giao dịch rất nhỏ và khá đặc thù.
Theo lẽ thường, với loại giao dịch
này, chỉ cần có bên mua và bên
bán đồng ý thì giao dịch sẽ diễn
ra mà không cần hoạt động định
giá độc lập và chuyên nghiệp.
Tuy nhiên, hoạt động định giá
đối với các NH trước khi quyết
định tài trợ vốn cho DN dựa trên
51THAÙNG 7.2016 - SOÁ 170
tài sản đảm bảo là IP lại rất quan
trọng và đòi hỏi sự cẩn trọng, tỉ
mỉ. Mục đích việc định giá IP