Tổng quan: Theo tiêu chuẩn của hệ thống
Bethesda, tế bào học tuyến giáp có một tác động
tích cực trong việc nghiên cứu và quản lý bệnh
nhân có nhân giáp. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một
số khó khăn trong chẩn đoán các trường hợp "tổn
thương dạng nang" nói chung và "tổn thương
dạng nang với tế bào không điển hình có ý nghĩa
không xác định" nói riêng.
Phương pháp: Theo y văn, cần đánh giá lại
các bất thường ở mức độ phân tử của tổn thương
tuyến giáp. Một số dấu ấn có giá trị để phân biệt
những trường hợp không điển hình từ các mẫu
chọc hút tế bào bằng kim nhỏ cần được đặt ra. Cụ
thể a) mẫu không được chẩn đoán; b) những
trường hợp tế bào không điển hình có ý nghĩa
không xác định và c) tổn thương dạng nang. Cần
kiểm tra độ nhạy của các xét nghiệm phân tử
tương ứng.
Kết quả: Đánh giá đột biến gen RAS trong các
mẫu tế bào học nang tuyến giáp không ghi nhận đột
biến. Kết quả này có giá trị phát hiện các tổn thương
dạng nang (trong đó có carcinôm). Những trường
hợp tế bào không điển hình có ý nghĩa không xác
định, bao gồm cả carcinôm dạng nhú có thể được
phát hiện qua một số xét nghiệm phân tử như BRAF,
RET/PTC, PAX8/PPAR và RAS. Một số dấu ấn
khác có độ nhạy cao cũng được kiểm tra.
Kết luận: Kết hợp tế bào học tuyến giáp và
các xét nghiệm phân tử góp phần làm tăng tần
suất chẩn đoán bệnh lý tuyến giáp. Tuy nhiên,
một số trường hợp tế bào không điển hình âm tính
với các dấu ấn phân tử có thể dẫn đến bỏ sót một
số trường hợp ác tính.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 20 trang
20 trang | 
Chia sẻ: thuylinhqn23 | Lượt xem: 713 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Chọc hút tuyến giáp bằng kim nhỏ và xét nghiệm phân tử có giá trị trong chẩn đoán và điều trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 15 * Phụ bản Soá 2 * 
2011 
Toång quan
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 1 
CHỌC HÚT TUYẾN GIÁP BẰNG KIM NHỎ VÀ XÉT NGHIỆM PHÂN TỬ 
CÓ GIÁ TRỊ TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ 
THYROID FINE NEEDLE ASPIRATION AND REFLEX MOLECULAR 
TESTING OPTIONS OF POTENTIAL VALUE IN DIAGNOSIS 
AND MANAGEMENT 
Lewis A. Hassell, S. Terence Dunn, Elizabeth M. Gillies** 
Tổng quan: Theo tiêu chuẩn của hệ thống 
Bethesda, tế bào học tuyến giáp có một tác động 
tích cực trong việc nghiên cứu và quản lý bệnh 
nhân có nhân giáp. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một 
số khó khăn trong chẩn đoán các trường hợp "tổn 
thương dạng nang" nói chung và "tổn thương 
dạng nang với tế bào không điển hình có ý nghĩa 
không xác định" nói riêng. 
Phương pháp: Theo y văn, cần đánh giá lại 
các bất thường ở mức độ phân tử của tổn thương 
tuyến giáp. Một số dấu ấn có giá trị để phân biệt 
những trường hợp không điển hình từ các mẫu 
chọc hút tế bào bằng kim nhỏ cần được đặt ra. Cụ 
thể a) mẫu không được chẩn đoán; b) những 
trường hợp tế bào không điển hình có ý nghĩa 
không xác định và c) tổn thương dạng nang. Cần 
kiểm tra độ nhạy của các xét nghiệm phân tử 
tương ứng. 
Kết quả: Đánh giá đột biến gen RAS trong các 
mẫu tế bào học nang tuyến giáp không ghi nhận đột 
biến. Kết quả này có giá trị phát hiện các tổn thương 
dạng nang (trong đó có carcinôm). Những trường 
hợp tế bào không điển hình có ý nghĩa không xác 
định, bao gồm cả carcinôm dạng nhú có thể được 
phát hiện qua một số xét nghiệm phân tử như BRAF, 
RET/PTC, PAX8/PPAR và RAS. Một số dấu ấn 
khác có độ nhạy cao cũng được kiểm tra. 
Kết luận: Kết hợp tế bào học tuyến giáp và 
các xét nghiệm phân tử góp phần làm tăng tần 
suất chẩn đoán bệnh lý tuyến giáp. Tuy nhiên, 
một số trường hợp tế bào không điển hình âm tính 
với các dấu ấn phân tử có thể dẫn đến bỏ sót một 
số trường hợp ác tính. 
Background: The Bethesda system for standardized 
reporting of thyroid cytology has had a significant 
positive impact in improving clarity of communication 
and management of patients evaluated for thyroid 
nodules. Problematic areas still exist in the triage of 
some of these samples, particularly those in the 
categories of “follicular lesion with atypia of uncertain 
significance” and “follicular lesion” categories. 
Methods: The literature on molecular and genetic 
abnormalities in thyroid lesions is reviewed. Potentially 
useful markers or abnormalities for distinguishing 
currently problematic categories of FNA cytology 
samples have been identified for several settings, 
specifically a) non-diagnostic samples; b) atypia of 
uncertain significance; and c) follicular lesions. The 
sensitivity of the respective molecular analyses in these 
settings is examined. 
Results: Evaluation for RAS mutation in samples 
with negative or suboptimal follicular cytology may be 
useful in detecting potentially significant follicular 
lesions (carcinomas.) Cytologic samples with atypia of 
uncertain significance, which may include the 
possibility of papillary carcinomas may be fruitfully 
evaluated using a panel of molecular tests for BRAF, 
RET/PTC, PAX8/PPAR and RAS. The potential 
utility of other markers to further enhance sensitivity are 
presented. 
Conclusion: We conclude that an era of combined 
modality testing in thyroid cytology is emerging where 
classical cytologic findings can be coupled with 
molecular data to increase the predictive power of our 
diagnostic interpretations, but that there remains a 
group of atypical cytologic samples negative for known 
molecular markers in which the risk of malignancy is too 
high to ignore completely. 
Toång quan Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 15 * Phụ bản Soá 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 2 
* Đại học Oklahoma - USA 
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 15 * Phụ bản Soá 2 * 
2011 
Toång quan
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 3 
GIỚI THIỆU VÀ BỐI CẢNH 
Tần suất ung thư tuyến giáp ngày càng 
tăng ở một số khu vực trên thế giới, có lẽ do 
sự gia tăng phát hiện các trường hợp ung thư 
tuyến giáp dạng vi nhú. Tuy nhiên, tỷ lệ tử 
vong do ung thư này ở Mỹ không thay đổi 
đáng kể theo thời gian. Cách đánh giá và xử 
trí các nhân giáp cũng có sự thay đổi rõ rệt 
trong suốt ba mươi năm qua. Hai tiến bộ 
đáng kể trong chẩn đoán minh chứng cho sự 
thay đổi này. Đầu tiên là sự ra đời của kỹ 
thuật xạ hình tuyến giáp cho phép phân loại 
chức năng tuyến giáp bao gồm nhân “nóng” 
(gia tăng bắt xạ), nhân "lạnh" và nhân không 
bắt xạ. Sử dụng đơn thuần một kỹ thuật này 
có thể loại trừ nhân “nóng”. Nhân “lạnh” 
thường gặp trong các u tuyến giáp và cả 
những thực thể lành tính. 
Bước tiến quan trọng thứ hai trong quản 
lý và theo dõi bệnh nhân trong những năm 
cuối của thập niên 20 là sự phổ biến của 
phương pháp chọc hút tuyến giáp bằng kim 
nhỏ (FNA). Kỹ thuật này tương đối đơn giản, 
có thể phân loại các tổn thương tuyến giáp 
lành tính và ác tính. Tuy nhiên, như đã nói ở 
trên, vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong chẩn 
đoán các trường hợp không điển hình, trung 
gian giữa lành tính và ác tính. 
Về chẩn đoán hình ảnh, siêu âm kiểm tra 
và chọc hút tế bào tuyến giáp bằng kim nhỏ 
đã dần dần thay thế xạ hình tuyến giáp, các 
kỹ thuật này trở nên có giá trị để tiếp tục 
chuẩn hóa và hệ thống hóa thực hành. Phục 
vụ chẩn đoán tế bào học tuyến giáp được nhất 
quán và lý tưởng để tiếp tục theo dõi hoặc 
điều trị ở những trường hợp không trực tiếp 
điều trị bằng phẫu thuật. 
INTRODUCTION AND BACKGROUND 
The incidence of thyroid cancer has been 
observed to be increasing in some areas of the 
world, presumably due to increased detection of 
small papillary thyroid carcinomas. US mortality 
rates due to this cancer however have not shifted 
significantly over time(1). Evaluation and 
management of thyroid nodules has changed 
dramatically over the past thirty years. Two 
significant diagnostic advances have catalyzed 
this change. The first was the introduction of 
radionuclide scanning technology using which 
allowed a functional classification of thyroid 
nodules into those considered “hot” (i.e. taking up 
or trapping the radionuclide) and those that were 
“cold” or failed to trap the radiotracer. This step 
alone was useful in excluding many hot nodules 
from the need for further evaluation(2). However, 
the remaining cold nodules, while containing an 
enriched proportion of neoplastic lesions, still 
included many benign entities. The popularization 
of thyroid fine needle aspiration (FNA) biopsy 
during the last few decades of the 20th century was 
the second important step forward in patient 
management. This happened because a wealth of 
evidence demonstrated that this relatively simple, 
readily available technique could further 
categorize thyroid lesions into some that were 
clearly malignant and some that were clearly 
benign. Again however, there remained a large 
group of cases that fell in between, where the 
malignant features could not be reliably 
distinguished from the benign proliferations(3,4,5). 
As experience accumulated with thyroid FNA, 
and as ultrasound examination gradually 
supplanted radionuclide scintigraphy in the 
imaging evaluation of the thyroid, it became 
valuable to further standardize and codify 
cytopathologic practices to ensure consistent 
communication and ideally, to further ensure 
appropriate patient follow-up or treatment in 
those categories not leading directly to surgical 
treatment. 
Toång quan Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 15 * Phụ bản Soá 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 4 
Viện ung thư quốc gia (NCI) tổ chức hội 
nghị vào tháng Mười năm 2007 đưa ra hệ 
thống phân loại các mẫu FNA tuyến giáp, 
với đầy đủ dữ liệu nhằm phân tích kết quả 
và đưa ra quyết định xử trí, theo dõi bệnh 
nhân. Áp dụng hệ thống Bethesda trong 
thực hành lâm sàng cũng hữu ích trong 
quản lý các bệnh nhân có nhân giáp. 
Tuy nhiên, hệ thống phân loại này 
không phải tối ưu. Nhiều trường hợp có thể 
trải qua phẫu thuật "không cần thiết". 
Tương tự như vậy, nhiều trường hợp được 
phân loại trong nhóm nguy cơ thấp và chẩn 
đoán cuối cùng là tổn thương ác tính. Phối 
hợp với xét nghiệm phân tử có thể giúp 
giảm bớt các yêu cầu về phẫu thuật không 
cần thiết, hoặc gia tăng số lượng các trường 
hợp có nguy cơ thấp hoặc trung gian cho 
đến khi bệnh được xác định chắc chắn là 
lành tính hoặc ác tính. 
Những biến đổi di truyền-phân tử trong 
ung thư tuyến giáp dạng nang 
Carcinôm tuyến giáp dang nang là ung 
thư biểu mô tuyến giáp phổ biến thứ hai. 
Bệnh có nhiều yếu tố ảnh hưởng, bao gồm 
thiếu iốt, tiếp xúc với bức xạ ion hóa, có 
kèm bệnh lành tính của tuyến giáp tồn tại 
từ trước (nhân đơn độc/u tuyến, phình 
giáp) và một số hội chứng gia đình (bệnh 
Cowden, hội chứng Werner, hội chứng 
Carney). 
Bệnh Cowden là một bệnh hiếm, do rối 
loạn gen trội trên NST thường gây ra bởi 
đột biến dòng tế bào mầm trong gen PTEN 
nằm trên nhiễm sắc thể 10q22-23. Những 
tổn thương tuyến giáp thường gặp ở bệnh 
nhân bệnh Cowden, xấp xỉ 10-20% tổn 
thương tuyến giáp tiến triển thành ung thư. 
The outcome of a National Cancer Institute 
(NCI) consensus conference held in October of 
2007, was a tiered classification system of thyroid 
FNA samples, linked with sufficient follow-up 
data to provide clinicians and patients a structure 
under which to interpret the reported findings and 
make management decisions(6). Application of the 
Bethesda system in clinical practice has already 
been reported to have a salutary impact on patient 
management(7,8). 
But despite these advances, there are still 
several situations in which the best efforts at 
evaluation yield inconclusive results. While it is 
encouraging that we can identify groups of 
patients with elevated risk of harboring a 
malignancy in the thyroid, for a patient in a high 
risk group who undergoes “needless” surgery for 
a lesion ultimately found to be benign, the 
classification system has not provided the best 
outcome. Similarly for patients in low risk groups 
who ultimately are found to have a malignancy, 
the evaluation protocols have been suboptimal. It 
is into this abyss that the molecular diagnostician 
enters with the intent of providing additional 
information that may reduce the requirement for 
needless surgery, or increase the number of low or 
intermediate risk individuals who endure 
uncertainty until their disease can fully declare 
itself benign or malignant. 
Molecular-genetic alterations in thyroid 
follicular carcinomas 
Follicular carcinomas are the second most 
common type of thyroid malignancy. They 
appear to be associated with several potential 
etiologic or predisposing factors, including 
iodine deficiency, exposure to ionizing 
radiation, pre-existing benign thyroid disease 
(solitary nodule/adenoma, goiter) and some 
familial syndromes (Cowden disease, Werner 
syndrome, Carney complex)(9). 
Cowden disease is a rare autosomal 
dominant disease caused by a germline 
mutation in the PTEN gene located on 
chromosome 10q22-23. Thyroid lesions are 
common in these patients, with approximately 
10-20% developing carcinomas(10). 
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 15 * Phụ bản Soá 2 * 
2011 
Toång quan
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 5 
Hội chứng Werner cũng là một rối loạn 
hiếm gặp. Bệnh có đột biến gen lặn trên 
NST thường, đột biến dòng tế bào mầm trên 
gen WRN thuộc NST 8p11-12, tần suất kết 
hợp với carcinôm tuyến giáp dạng nang 
khoảng 3%. Bất thường về gen được tìm 
thấy trong phần lớn các carcinôm tuyến 
giáp dạng nang, liên quan đến nhiễm sắc 
thể 7, 8, 11, 17, 18 và một số hiện diện ở vị 
trí gen PAX8, PPAR hoặc cả hai. Chúng có 
thể được phát hiện bằng phương pháp lai tại 
chỗ gắn huỳnh quang. 
Đột biến sinh dưỡngthường gặp nhất 
trong carcinôm tuyến giáp dạng nang (chiếm 
40-50% trường hợp) liên quan với protein 
truyền tín hiệu từ gen NRAS, HRAS, đặc biệt 
tại các axit amin 12, 13 và 61. Thật vậy, có đến 
30% trong tất cả các ung thư ở người có đột 
biến gen RAS. Trong u tuyến giáp, đột biến 
gen NRAS thường gặp nhất, tiếp theo là gen 
HRAS và KRAS. Đột biến gen Ras phá vỡ 
hoạt động của men GTP và kích hoạt protein 
MPAK (kích thích hoạt động phân bào) và 
phosphatidylinositol-3 kinase (PI3K) trong 
con đường hoạt hóa tín hiệu tế bào, dẫn đến 
rối loạn cơ chế điều hòa về gen, thúc đẩy tế 
bào tuyến giáp tăng sinh và biệt hóa. Tuy 
nhiên, kích hoạt gen Ras đột biến không đặc 
hiệu trong carcinôm tuyến giáp dạng nang, 
có thể gặp trong u tuyến và tổn thương khác 
như phình giáp tăng sản, đột biến gen RAS 
giữ vai trò trong sự tiến triển của khối u và 
sự nhạy cảm với yếu tố sinh ung. Đột biến 
gen Ras thường gặp ở những u tiến triển và u 
không biệt hóa. Đột biến thường gặp thứ hai 
được tìm thấy trong carcinôm tuyến giáp 
dạng nang, với xuất độ 30-40% và chỉ chiếm 
một tỷ lệ nhỏ trong các u loại phồng bào, liên 
quan đến gen phối hợp PAX8 và PPAR, theo 
sau chuyển vị t (2, 3) (q13; p25). Prôtein được 
tạo ra từ gen phối hợp PAX8/PPAR, tạo ra 
tác động âm tính trên chức năng bình thường 
của gen PPAR, đây là gen ức chế sự phát 
triển và biệt hóa tế bào nang tuyến giáp. 
Werner syndrome is a rare autosomal 
recessive disorder with a germline mutation in the 
WRN gene on 8p11-12, and associated with 
thyroid follicular carcinoma in about 3% of 
patients(11). Conventional cytogenetic 
abnormalities are found in a majority of follicular 
carcinomas, and involve a variety of chromosomes 
(7, 8, 11, 17, 18) and some of these appear to 
involve either the PAX8 or PPAR loci or both. 
Fusion of these two can be detected using 
fluorescent in-situ hybridization (FISH) probes. 
The most common somatic mutations seen in 
follicular carcinomas (40-50% of cases) involve the 
N-ras, H-ras and N-ras signalling proteins, 
especially those located in amino acids 12, 13, and 
61. Indeed, up to 30% of all human cancers have 
RAS mutations. NRAS mutations are most 
frequent in thyroid tumors, followed by HRAS 
and KRAS. The general outcome of mutation of 
these Ras genes is disruption of their intrinsic 
GTPase activity and constituitive activation of the 
Raf-MEK-mitogen-activated protein kinase 
(MAPK) and phosphatidylinositol-3-kinase 
(PI3K)/AKT cell signalling pathways, leading to 
dysregulation of specific genes that promote 
thyroid proliferation and differentiation. 
Activating Ras mutations, however, are not 
specific for follicular thyroid carcinoma, and have 
been observed in follicular adenomas, and lesions 
classified as hyperplastic nodules, suggesting that 
they play a role in tumor progression and 
susceptibility to carcinogenesis(12). Ras mutations 
have also been associated with increased 
aggressiveness and are found more frequently in 
undifferentiated tumors. The second most 
common mutation found in follicular thyroid 
carcinomas, identified in30-40% of cases, although 
only in a small proportion of oncocytic type 
tumors, involves fusion of the promoter of PAX8 
with the PPARgene following t(2;3)(q13;p25) 
rearrangement. The PAX8/PPARfusion protein 
appears to have a dominant-negative effect on the 
normal functioning of PPAR, which normally 
inhibits follicular growth and promotes 
Toång quan Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 15 * Phụ bản Soá 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 6 
differentiation. 
Về vi thể, khối u có kèm chuyển vị này 
thường có cấu trúc đặc, tỷ lệ xâm nhập 
mạch máu cao, hiếm khi có kèm đột biến 
gen Ras, điều này cho thấy chúng đi theo 
con đường bệnh sinh khác. Đột biến này ít 
khi được quan sát trong u tuyến do xu 
hướng xâm nhập mạch máu sớm và vì vậy 
thường gặp ở lứa tuổi trẻ. Về vi thể, cấu trúc 
thường gặp là nang tuyến nhỏ, dạng đặc 
hoặc bè, vỏ bao sợi dày, hóa mô miễn dịch 
dương tính với galectin-3 và / hoặc HBME-
1, dấu ấn miễn dịch này rất hữu dụng trong 
việc phân biệt u tuyến giáp lành tính hay ác 
tính. 
Một số đột biến gen khác được mô tả 
trong carcinôm tuyến giáp dạng nang, các 
đột biến này có thể ảnh hưởng đến con 
đường tín hiệu PI3K kiểm soát sự sống, 
phát triển và di cư của tế bào. Con đường 
tín hiệu này đóng vai trò quan trọng trong 
tiến triển của u hơn là cơ chế bệnh sinh. 
Đột biến gen PIK3CA thường gặp trong 6-
13% carcinôm tuyến giáp dạng nang và số 
lượng bản sao gen gia tăng lên đến 25%. 
Đột biến gen RAS và PTEN có thể hoạt 
động thông qua con đường này. 6-12% 
carcinôm tuyến giáp dạng nang có đột biến 
gen PTEN làm giảm chức năng của protein 
PTEN, dẫn đến kích hoạt AKT và dòng 
thác tín hiệu của nó. Những thay đổi nêu 
trên được áp dụng chủ yếu trong chẩn đoán 
carcinôm tuyến giáp dạng nang. Mặc dù 
một số u tuyến dạng phồng bào có đột biến 
gen RAS và các đột biến khác, tuy nhiên 
tiêu chuẩn cụ thể vẫn chưa được xác định. 
Gần đây ghi nhận những khối u này có đột 
biến gen GRIM19. Đây là gen ức chế tế bào 
chết theo lập trình, giữ vai trò trong bệnh 
sinh của u. Chưa có vai trò rõ ràng của đột 
biến DNA ti thể, được tìm thấy ở phồng 
bào, trong cả 2 trường hợp là u và không 
phải u. 
Tumors with this translocation have a more 
solid growth pattern and a higher rate of 
vascular invasion than tumors without this 
rearrangement(13). Only rarely do they also show 
Ras mutations, suggesting that they follow a 
different path of oncogenesis. This mutation is 
rarely observed in follicular adenomas due to 
their propensity for early vascular invasion and 
therefore presentation at an early age. When 
found, they often demonstrate a morphologic 
phenotype of microfollicular, solid/trabecular 
growth, thick fibrous capsule and 
immunophenotype-positive for galectin-3 
and/or HBME-1(14), markers that have been 
reported to be occasionally useful in 
differentiating benign and malignant thyroid 
tumors. 
Several other gene mutations are described in 
follicular thyroid carcinomas, and several of these 
influence PI3K signaling that oversees cell 
survival, proliferation and migration. It appears 
this pathway may be more important in tumor 
progression than tumorogenesis(15). The PIK3CA 
gene is mutated in 6-13% of follicular thyroid 
carcinomas, and gene copy numbers are increased 
in up to 25% of such tumors(16,17). Additionally, 
mutations in RAS and PTEN may act via this 
pathway. PTEN mutations are indentified in 6-12% 
of follicular carcinomas, and act to decrease the 
function of PTEN, resulting in activation of AKT 
and its downstream targets(18). The changes 
mentioned above apply primarily to traditional 
follicular carcinomas. Although some oncocytic 
follicular tumors have RAS and other mutations, a 
consistent pattern has not been identified. 
Recently, mutations in the GRIM19 gene have been 
identified in a number of these tumors(19). This 
anti-apoptotic gene could play a role in 
tumorigenesis. Any role for mitochondrial DNA 
mutations, which can be found in both neoplastic 
and non-neoplastic oncocytic cells, has not been 
firmly identified. 
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 15 * Phụ bản Soá 2 * 
2011 
Toång quan
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 7 
Biến đổi phân tử trong carcinôm tuyến 
giáp dạng nhú 
Carcinôm tuyến giáp dạng nhú là ung 
thư tuyến giáp thường gặp nhất, đặc biệt ở 
các nước phương Tây. Tần suất của bệnh 
cao và do nhiều yếu tố, bao gồm phát hiện 
qua siêu âm tuyến giáp, gia tăng chẩn đoán 
các biến thể nang và nhú, tiếp xúc với bức 
xạ ion hóa trong môi trường, chế độ ăn 
giàu iốt. Ngoài ra, bằng chứng cho thấy các 
bệnh lành tính của tuyến giáp như viêm 
tuyến giáp Hashimoto, u tuyến nang và 
bệnh Grave có thể phát triển thành 
carcinôm tuyến giáp dạng nhú. 
Yếu tố di truyền phả hệ cũng liên quan 
trong một số trường hợp. Bệnh nhân có 
bệnh đa polip gia đình (FAP), rối loạn gen 
t