Độc quyền trong kinh doanh dù hình thành và tồn tại bằng cách nào cũng đều gây hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế. Độc quyền trong kinh doanh dẫn đến hình thành giá cả độc quyền, giá cả lũng đoạn ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Ở hầu hết các nước đều tồn tại các loại độc quyền tự nhiên, độc quyền nhà nước. Ở nước ta, với xuất phát điểm thấp và một số đặc điểm nội tại của nền kinh tế- xã hội nên vẫn còn một số ngành và lĩnh vực tồn tại độc quyền nhà nước. Tuy nhiên nhà nước cũng đang dần hoàn thiện các cơ chế pháp luật để kiểm soát nhằm hạn chế hiện tượng cửa quyền, lũng đoạn, lạm dụng vị trí độc quyền để tránh gây hậu quả xấu cho xã hội.
Mặc dù nhà nước ta thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế và khẳng định quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật nhưng khi thực hiện, nhiều cơ quan nhà nước đã không thực sự tuân thủ quy định nầy. Tình trạng phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp khu vực tư nhân là phổ biến. Bên cạnh đó, do quyền lợi địa phương, cục bộ, một số cơ quan nhà nước bằng mệnh lệnh hành chánh của mình gián tiếp can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, tạo lợi thế cho một hay một số doanh nghiệp vẫn đang diễn ra, đây là vấn đề làm nẫy sinh độc quyền hiện nay tại nước ta.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về độc quyền ta sẽ tìm hiểu thực hư của vấn đề độc quyền ở Việt Nam hiện nay như thế nào và liệu xem chúng ta có biện pháp tích cực nào sắp tới hay không.
12 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1735 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chủ đề: vấn đề độc quyền ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ QUẢN TRỊ KINH DOANH
TIỂU LUẬN
KINH TẾ VI MÔ
Chủ đề: VẤN ĐỀ ĐỘC QUYỀN Ở VIỆT NAM
Cần Thơ, 5/2005
I-M ở đ ầu
Độc quyền trong kinh doanh dù hình thành và tồn tại bằng cách nào cũng đều gây hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế. Độc quyền trong kinh doanh dẫn đến hình thành giá cả độc quyền, giá cả lũng đoạn ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Ở hầu hết các nước đều tồn tại các loại độc quyền tự nhiên, độc quyền nhà nước. Ở nước ta, với xuất phát điểm thấp và một số đặc điểm nội tại của nền kinh tế- xã hội nên vẫn còn một số ngành và lĩnh vực tồn tại độc quyền nhà nước. Tuy nhiên nhà nước cũng đang dần hoàn thiện các cơ chế pháp luật để kiểm soát nhằm hạn chế hiện tượng cửa quyền, lũng đoạn, lạm dụng vị trí độc quyền để tránh gây hậu quả xấu cho xã hội.
Mặc dù nhà nước ta thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế và khẳng định quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật nhưng khi thực hiện, nhiều cơ quan nhà nước đã không thực sự tuân thủ quy định nầy. Tình trạng phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp khu vực tư nhân là phổ biến. Bên cạnh đó, do quyền lợi địa phương, cục bộ, một số cơ quan nhà nước bằng mệnh lệnh hành chánh của mình gián tiếp can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, tạo lợi thế cho một hay một số doanh nghiệp vẫn đang diễn ra, đây là vấn đề làm nẫy sinh độc quyền hiện nay tại nước ta.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về độc quyền ta sẽ tìm hiểu thực hư của vấn đề độc quyền ở Việt Nam hiện nay như thế nào và liệu xem chúng ta có biện pháp tích cực nào sắp tới hay không.
II-Cơ sở lý luận về độc quyền
Một thị trường được xem như là độc quyền khi chỉ có một nhà cung ứng trên thị trường đó. Đường cung của nhà sản xuất cũng chính là ngành; đường cầu của thị trường chính là đường cầu đối với nhà độc quyền. Vì đường cầu có xu hướng dốc xuống về phía phải, nên để bán được nhiều hàng hoá hơn nhà độc quyền phải giảm giá bán.
Không giống như trên thị trường cạnh tranh hoàn toàn, mọi quyết định của nhà cung ứng về mặt số lượng có ảnh hưởng đến giá cả trên thị trường. Một ngành được xem là độc quyền hoàn toàn khi nó thoả mãn hai điều kiện sau:
a)Những đối thủ cạnh tranh không thể gia nhập ngành.
b)Không có những sản phẩm thay thế tương tự.
1-Các nguyên nhân xuất hiện độc quyền: Nguyên nhân chủ yếu xuất hiện độc quyền ở một ngành nào đó là do các doanh nghiệp khác không thể tồn tại hay không thể gia nhập vào ngành đó. Do vậy, những hàng rào ngăn cản sự gia nhập ngành là nguồn gốc của sự độc quyền. Chúng ta có thể phân loại ra những loại rào cản sau.
1.1.Chi phí sản xuất: Thông thường độc quyền xuất hiện trong những ngành có tính kinh tế nhờ quy mô. Trong những ngành này đường chi phí trung bình (AC) giảm dần khi sản lượng cao hơn (hình 1). Những doanh nghiệp có quy mô lớn thường là những doanh nghiệp sản xuất với chi phí thấp hơn những doanh nghiệp khác nhờ vào kinh nghiệm, tính kinh tế của quy mô, v.v. Do đó, những doanh nghiệp lớn có khả năng loại trừ những doanh nghiệp khác ra khỏi ngành bằng cách cắt giảm giá (mà vẫn có thể thu được lợi nhuận), từ đó tạo ra thế độc quyền cho mình.
Một khi vị thế độc quyền được thiết lập, sự gia nhập ngành của các doanh nghiệp khác sẽ rất khó khăn, bởi vì những doanh nghiệp mới thường sản xuất ở mức sản lượng thấp và như vậy phải chịu chi phí (trung bình) cao. Những doanh nghiệp này sẽ dễ dàng bị nhà độc quyền loại khỏi thị trường bằng cách giảm giá. Sự độc quyền hình thành từ con đường cạnh tranh bằng chi phí như vậy được gọi là độc quyền tự nhiên.
1.2. Pháp lý : Nhiều nhà độc quyền được tạo ra từ nguyên nhân pháp lý chứ không phải từ nguyên nhân kinh tế như trên. Chúng ta có thể thấy pháp luật tạo ra sự độc quyền dưới dạng hai hình thức sau:
1.2.1.Pháp luật bảo hộ bằng phát minh, sáng chế. Bằng phát minh, sáng chế được pháp luật bảo vệ là một trong những nguyên nhân tạo ra độc quyền vì luật bảo hộ bằng sáng chế chỉ cho phép một nhà sản xuất sản xuất mặt hàng vừa được phát minh và do vậy họ trở thành nhà độc quyền.
1.2.2.Pháp luật bảo hộ những ngành có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.Các ngành công nghiệp công ích như điện, nước, thông tin liên lạc, một số kênh phát thanh, truyền hình, v.v. sẽ được bảo hộ hay độc quyền bởi nhà nước vì chúng có vai trò quan trọng đối với an ninh quốc gia. Những ngành này thường là các ngành có chi phí sản xuất trung bình giảm dần khi quy mô tăng. Do vậy, chính phủ cho rằng chi phí trung bình sẽ càng thấp khi sản lượng gia tăng và nó sẽ đạt mức thấp nhất chỉ khi tổ chức ngành này như là một nhà độc quyền
1.3.Xu thế sáp nhập của các công ty lớn: Trên thế giới hiện nay đang diễn ra xu thế sáp nhập của các công ty lớn. Xu thế này diễn ra do những nguyên nhân sau:
1.3.1. Áp lực của việc tìm kiếm khách hàng. Việc sáp nhập của các công ty sẽ giúp mở rộng thị trường cho từng công ty. Các công ty, sau khi sáp nhập, sẽ tận dụng được mạng lưới phân phối có sẵn của mình và của cả những công ty trong liên minh để nâng cao thị phần của mình và chiếm lĩnh thị trường. Do vậy, việc sáp nhập có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thu tóm thị trường và hình thành vị thế độc quyền.
1.3.2. Giảm chi phí sản xuất - kinh doanh. Việc sáp nhập sẽ làm mở rộng thị trường của các doanh nghiệp nên có thể làm tăng quy mô sản xuất cho từng doanh nghiệp. Điều này có thể tạo ra tính kinh tế nhờ quy mô của quá trình sản xuất. Do vậy, sự sáp nhập có thể giúp doanh nghiệp sử dụng tài nguyền về nhân lực, tiền của, v.v. có hiệu quả hơn.
1.4.Tình trạng kém phát triển của thị trường: Sự kém phát triển của thị trường sẽ dẫn đến hàng hoá không được lưu thông một cách thông suốt. Do hàng hoá không lưu thông tốt trên thị trường cho nên nhà cung ứng nào có điều kiện cung ứng hàng hoá cho một thị trường nào đó mà các nhà cung ứng khác không thể với tới thì sẽ trở thành độc quyền trên thị trường đó. Đây là hình thức độc quyền có tính cục bộ và xảy ra ở quy mô nhỏ. Sự độc quyền như vậy thường xuất hiện ở những vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hay hải đảo, v.v. .
2.Đường cầu và đường doanh thu biên: Là do người cung ứng duy nhất một hàng hoá nào đó, nhà độc quyền đối diện với đường cầu của thị trường, và đường cầu thị trường có xu hướng dốc xuống từ trái sang phải. Khác với một doanh nghiệp cạnh tranh phải chấp nhận giá thị trường, nhà độc quyền là người định giá. Nhà độc quyền có thể chọn sản xuất tại bất kỳ một mức sản lượng nào trên đường cầu thị trường nhưng phải đánh đổi giữa sản lượng và giá bán sản phẩm. Nhà độc quyền cung ứng càng nhiều thì giá cả sẽ càng giảm. Ta có thể mô tả sự đánh đổi giữa giá và sản lượng của một doanh nghiệp độc quyền ở hình 2.
Để tối đa hoá lợi nhuận, nhà độc quyền sẽ chọn sản xuất mức sản lượng mà tại đó . Sau đó, nhà độc quyền kiểm tra xem ở mức sản lượng này giá cả (hay doanh thu bình quân) có trang trải được các chi phí hay không. Hình 4 biểu diễn nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận của nhà độc quyền.
Nhà độc quyền sẽ chọn mức sản lượng tối ưu q1, tại đó đường MR cắt đường MC. Với đường cầu D, nhà độc quyền sẽ định mức giá là P1, tương ứng với điểm B, để bán hết sản lượng q1 được sản xuất ra.
3.Chỉ số Lerner:Khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nhà độc quyền là người ấn định giá. Sau khi đã quyết định sản xuất q1, nhà độc quyền niêm yết giá P1 vì biết rằng người tiêu dùng sẽ tiêu thụ đúng q1. Chúng ta cũng nên lưu ý rằng trong khi doanh nghiệp cạnh tranh định giá bằng với chi phí biên thì nhà độc quyền định giá cao hơn chi phí biên do giá cả của nhà độc quyền lớn hơn doanh thu biên. Do vậy, để đo lường sức mạnh độc quyền các nhà kinh tế xem xét mức độ chênh lệch giữa giá độc quyền và chi phí biên ở tại mức sản lượng mà nhà độc quyền có lợi nhuận là tối đa. Cụ thể, sức mạnh độc quyền được biểu hiện bằng chỉ số Lerner (tại điểm tương ứng với lợi nhuận tối đa của nhà độc quyền) như sau:
.
trong đó: L là chỉ số Lerner. Chỉ số Lerner luôn có giá trị nằm giữa 0 và 1. Đối với doanh nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, ở mức sản lượng tương ứng với lợi nhuận tối đa thì nên . Đối với nhà độc quyền, L luôn dương vì . Nếu L càng lớn, sức mạnh độc quyền càng lớn vì khi đó giá bán càng lớn hơn MC
4.Lợi nhuận độc quyền: Lợi nhuận độc quyền có thể được xem như là phần trả công cho các nhân tố hình thành nên sự độc quyền như: phát minh, sáng chế, vị trí thuận lợi hay sự năng động của nhà độc quyền. Chính vì vậy, một số doanh nghiệp khác sẽ sẵn sàng trả một số tiền để sang nhượng bản quyền các phát minh, sáng chế, v.v. nhằm kiếm được lợi nhuận tiềm năng của vị thế độc quyền. Một khi quyền độc quyền được sang nhượng thấp hơn giá trị thị trường thực tế, người được sang nhượng sẽ được hưởng lợi. Tuy nhiên, vị thế độc quyền không bảo đảm cho doanh nghiệp chắc chắn thu được lợi nhuận. Điều này còn phụ thuộc vào mối quan hệ giữa chi phí trung bình và đường cầu đối với sản phẩm của nhà độc quyền. Hình 4 cho thấy nhà độc quyền có thể thu được lợi nhuận độc quyền khi chọn mức sản lượng tối đa hoá lợi nhuận. Tại mức sản lượng này, đường AC của nhà độc quyền nằm dưới đường cầu. Bây giờ, chúng ta sẽ xem xét trường hợp nhà độc quyền không thể thu được lợi nhuận độc quyền do đường AC nằm trên đường cầu (hình 5).
5.Không có đường cung trong độc quyền: Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, đường cung của doanh nghiệp chính là đường chi phí biên. Tổng hợp đường cung của từng doanh nghiệp ta có đường cung của ngành. Trong độc quyền, cách xây dựng đường cung như trên không thể thực hiện được. Mức cung của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào đường cầu và doanh thu biên. Với một đường cầu cố định, "đường cung" độc quyền chỉ là một điểm, điểm kết hợp giữa giá và sản lượng tại đó MR = MC (điểm B trong các hình 4 và 5). Nếu đường cầu dịch chuyển, đường MR sẽ dịch chuyển theo và một mức sản lượng tối đa hoá lợi nhuận mới sẽ được chọn. Tuy nhiên, nối các điểm cân bằng này lại để hình thành một "đường cung" sẽ không có ý nghĩa. Hình dạng đường này sẽ rất kỳ lạ, phụ thuộc vào độ co giãn của đường cầu thị trường khi nó dịch chuyển. Như vậy, doanh nghiệp độc quyền không có một "đường cung" xác định (hình 6).
5. Độc quyền và vấn đề phân bổ nguồn tài nguyên xã hội Sự xuất hiện của độc quyền có thể làm giảm đi tính hiệu quả của việc phân bổ nguồn tài nguyên xã hội bởi vì nhà độc quyền có thể giảm sản lượng để có giá cao hơn. Việc giảm sản lượng có thể làm cho doanh nghiệp có lợi hơn nhưng người tiêu dùng sẽ bị thiệt hại. Bây giờ, chúng ta hãy so sánh giá cả và sản lượng của doanh nghiệp độc quyền và ngành cạnh tranh để từ đó xác định "chi phí xã hội của độc quyền".
Để có thể so sánh, chúng ta giả định rằng một thị trường độc quyền có thể vận hành như một ngành cạnh tranh. Giả sử thị trường cạnh tranh và nhà độc quyền có cùng một đường chi phí biên (MC). Trong thị trong cạnh tranh, giá bằng với chi phí biên, tương ứng với giá cạnh tranh PC và sản lượng QC, tại đó đường MC cắt đường cầu (P = MC) (hình 7). Khi xuất hiện độc quyền, nhà độc quyền chọn mức sản lượng qM mà tại đó MR = MC, nên giá độc quyền PM sẽ cao hơn chi phí biên hay giá cạnh tranh. Sức mạnh độc quyền dẫn đến giá cao hơn và sản lượng bị giảm còn QM. Do giá cao hơn nên người tiêu dùng giảm lượng mua từ QC xuống còn QM và như vậy, thặng dư tiêu dùng bị mất đi một khoảng tương đương với diện tích (A+B) trên hình 7.
Ngoài ra, xã hội còn có thể phải chịu chi phí khác ngoài phần thiệt hại xã hội B và C. Đó là, doanh nghiệp còn có thể phải chi thêm một khoản chi phí lớn không hiệu quả về mặt xã hội để dành duy trì hoặc để thể hiện sức mạnh độc quyền của mình. Chi phí này có thể bao gồm chi phí quảng cáo, vận động hành lang và những tranh thủ pháp lý để tránh sự điều tiết của chính phủ hay chống "Luật chống độc quyền". Nhà độc quyền cũng có thể lắp đặt thêm những nhà máy thừa công suất để tận dụng tính kinh tế nhờ quy mô, v.v.
6.Độc quyền và vấn đề phân biệt giá cả:Khác với thị trường cạnh tranh, một nhà độc quyền có khả năng ấn định các mức giá khác nhau đối với nhiều người tiêu dùng khác nhau. Ta gọi trường hợp này là phân biệt giá. Sự phân biệt giá có thể làm tăng lợi nhuận của nhà độc quyền so với việc định một mức giá duy nhất cho tất cả sản phẩm của mình.
6.1.Chính sách phân biệt giá hoàn toàn: là chính sách mà trong đó nhà độc quyền ấn định cho mỗi (nhóm) khách hàng một mức giá tối đa mà người đó có thể trả. Mức giá đó gọi là giá sẵn sàng trả hay giá đặt trước của người tiêu dùng.
Nếu nhà độc quyền có thể xác định rõ nhu cầu của từng khách hàng hay từng nhóm khách hàng của mình, họ có thể định giá cao nhất mà (nhóm) khách hàng của mình có thể trả. Với cách định giá này, nhà độc quyền sẽ “bòn rút” hết thặng dư tiêu dùng của người tiêu dùng bởi vì nhà độc quyền định cho mỗi khách hàng mức giá tối đa mà họ có thể trả.
+ Bán Q1 sản phẩm với giá P1, (Q2 – Q1) sản phẩm với giá P2, ...
+ MR = P nhưng không phải giảm giá cho các đơn vị sản phẩm trước đó.
+ Đường MR cũng chính là đường cầu.
+ Q4: sản lượng tương ứng với LNmax.
+ Lợi nhuận tăng lên so với trường hợp không phân biệt giá.
6.2.Chính sách phân biệt giá đối với hai thị trường riêng biệt
Nhà độc quyền sẽ định giá cao hơn ở các thị trường có hệ số co giãn thấp hơn (thị trường 1).
7.Chính sách hạn chế độc quyền :là việc làm cần thiết vì độc quyền gây ra thiệt hại đối với nền kinh tế. Hạn chế độc quyền là một trong những vấn đề quan trọng trong kinh tế học ứng dụng. Các ngành công nghiệp phục vụ tiện ích như điện lực, viễn thông, v.v. thường bị khống chế bằng luật pháp để nhằm buộc các ngành này hoạt động trong phương thức có lợi nhất về phương diện xã hội để hạn chế phần thiệt hại do độc quyền. Ta có một số cách để hạn chế độc quyền như sau:
8.Điều tiết giá: Do xã hội bị tổn thất, các quốc gia phải sử dụng một phương cách để hạn chế sức mạnh độc quyền, trong đó có phương thức điều tiết giá. Chính phủ ấn định một mức giá trần nào đó thấp hơn mức giá độc quyền. Chính sách này có thể làm giảm được tổn thất do sức mạnh độc quyền.
9.Điều tiết trong thực tế:Những quy định về độc quyền thường dựa trên tỷ lệ lãi thu được từ vốn. Cơ quan điều tiết cho phép nhà độc quyền định một mức giá nhất định để đạt được một mức lãi sao cho mức lãi này, theo nghĩa nào đó, là “cạnh tranh” hay “công bằng”. Phương pháp này gọi là điều tiết theo lợi tức. Mức giá cao nhất được phép dựa trên mức lãi đầu tư kỳ vọng mà doanh nghiệp sẽ thu được. Chẳng hạn, chính phủ cho phép nhà độc quyền định giá sản phẩm của mình để đạt một mức lợi nhuận bằng 10% số vốn đầu tư của doanh nghiệp vì chính phủ cho đó là mức lãi trung bình của các ngành trong nền kinh tế.
10.Luật chống độc quyền:Một biện pháp đơn giản và hữu hiệu để chống độc quyền là ban hành các quy định, luật lệ nhằm ngăn cản ngay từ đầu các doanh nghiệp trong việc giành được sức mạnh thị trường quá mức. Một số nước trên thế giới có nền kinh tế thị trường phát triển đã ban hành “Luật chống độc quyền” như Mỹ, các nước EU, v.v. một cách hoàn chỉnh.
III-Thực tiễn ở Việt Nam
Vấn đề là độc quyền hiện nay ở Việt Nam chủ yếu là độc quyền nhà nước, các công ty tư nhân chưa có khả năng và tiềm lực kinh tế để chiếm vị trí thống lĩnh hay độc quyền trong các ngành kinh tế chính. Bên cạnh đó, cùng với quá trình mở cửa thị trường thông qua việc ký kết và gia nhập các hiệp định thương mại song phương và đa phương, đã và sẽ xuất hiện các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam. Những công ty nầy, với sức mạnh kinh tế của mình, có khả năng tạo lập được vị thế độc quyền và trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp nội địa Việt Nam với tiềm lực hạn chế đang bị loại dần khỏi đời sống kinh tế. Tình trạng loại bỏ đối thủ để chiếm đoạt thị trường thiết lập vị thế độc quyền như có những công ty đem hàng trăm tấn sản phẩm để biếu hoặc bán phá giá làm cho không một doanh nghiệp trong nước nào có đủ tiềm lực kinh tế để duy trì hoạt động sản xuất bình thường.
Thực trạng vấn đề độc quyền ở Việt nam hiện đang nỗi lên vấn đề lạm dụng độc quyền để trục lợi, biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp; hành xử "độc quyền", mang tính ban phát; độc quyền điện, nước, xăng dầu, viễn thông, hàng không… tự quy định giá cả bắt buộc các doanh nghiệp phải đẩy chi phí kinh doanh lên cao, hậu quả duy trì ưu đãi các dự án không có hiệu quả kinh tế đã dẫn tới hậu quả tỉ lệ tăng trưởng kinh tế tính trên vốn đầu tư của VN suy giảm khoảng 25% trong các năm gần đây. Chúng ta có thể tham khảo qua các bài báo để hiểu rõ hơn:
“Dự luật cạnh tranh đang được Quốc hội thảo luận. Dự luật này cũng được các doanh nghiệp, chuyên gia kinh tế chú ý. Ý kiến dưới đây bàn thêm về hiệu quả quản lý hoạt động cạnh tranh với những tập đoàn, tổng công ty nhà nước độc quyền.
Theo các Quyết định 90 và 91-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chủ trương thành lập các tập đoàn kinh doanh, Chính phủ đã cho thành lập một loạt các tổng công ty và tập đoàn kinh doanh nhà nước: Tổng công ty Bưu chính viễn thông, Dầu khí, Dệt may, Hoá chất, Điện lực, Than, Thép, Ximăng.. . Nhiều tổng công ty trong số này là các doanh nghiệp (DN) độc quyền hoặc được ưu đãi đặc biệt của Chính phủ. Như vậy, về cơ bản hiện trạng độc quyền ở VN chủ yếu là độc quyền nhà nước. Các công ty tư nhân chưa có khả năng và tiềm lực kinh tế để chiếm vị trí thống lĩnh hay độc quyền trong các ngành kinh tế chính . Thật ra vấn đề không có gì khó hiểu - độ lớn, tầm ảnh hưởng và vị trí của các DN độc quyền nhà nước được xây dựng trên chủ trương của Chính phủ và phí độc quyền do người tiêu dùng - không có lựa chọn nào khác - trả chứ không phải trên hiệu quả quản lý và khả năng cạnh tranh của các DN độc quyền nhà nước . Khi ra thị trường quốc tế, các biện pháp bảo hộ kiểu “chăn êm nệm ấm” như vậy không thể áp dụng được nữa. Muốn tồn tại, các DN phải có khả năng cạnh tranh thật sự thể hiện qua khả năng quản lý và tổ chức kinh doanh, khả năng giảm giá thành, tăng năng suất, giao hàng đúng hẹn, đảm bảo chất lượng và nhanh nhạy linh hoạt đáp ứng yêu cầu thị trường . Tình trạng duy trì ưu đãi cho các DN nhà nước và tài trợ cho các tập đoàn kinh doanh quốc doanh đầu tư vào các dự án không có hiệu quả kinh tế đã dẫn tới hậu quả là trong khi tỉ lệ tăng trưởng GDP của VN ở mức 7,4% thì tỉ lệ tăng trưởng kinh tế tính trên vốn đầu tư của VN (chỉ số đánh giá hiệu quả đầu tư) suy giảm khoảng 1/4 hay 25% trong các năm gần đây. Theo UNDP, trong vài năm tới nếu tiếp tục tập trung vốn đầu tư cho các DN nhà nước các ngành độc quyền thì VN không thể có đủ khả năng cung cấp các dịch vụ công cộng cho thành phố và nông thôn . Cách xây dựng các tổng công ty - tập đoàn kinh doanh không có gì là mới và có thể thấy ở nhiều nơi mà điển hình ở châu Á có thể thấy tại Singapore và Hàn Quốc. Tuy nhiên tính hiệu quả và mức độ thành công trong cạnh tranh của các công ty này thì mỗi nơi mỗi khác tuỳ thuộc phương pháp quản lý của chính phủ các quốc gia . Kinh nghiệm thực tế ở VN cũng như các quốc gia khác cho thấy các công ty độc quyền sẽ không bao giờ tự nguyện từ bỏ các đặc quyền, đặc lợi của mình trừ khi chúng bị luật pháp kiểm soát chặt chẽ và người tiêu dùng giám sát . Dự luật cạnh tranh qui định hoạt động của các công ty độc quyền nhà nước sẽ chịu sự quản lý về giá cả, khối lượng và chất lượng của Nhà nước; tuy nhiên về mặt hiệu quả kinh tế, đây chưa hẳn là biện pháp tối ưu do để quản lý được hết các hoạt động độc quyền nhà nước cần một cơ quan quản lý cạnh tranh cực lớn, hệ thống pháp luật hết sức phức tạp và thường xuyên có những lĩnh vực cơ quan quản lý không thể quán xuyến hết nổi. VN chưa ở mức độ phát triển này, song việc tính toán hiệu quả của việc quản lý nhà nước vào hoạt động cạnh tranh cần được duy trì ở mức hạn chế, tránh tình trạng để cơ quan quản lý cạnh tranh trở nên quá tải do can thiệp quá sâu vào thị trường, hay quay trở lại phương pháp quản lý bao cấp với các hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trường. ( Phùng Tuấn, Báo Tuổi trẻ,2-11-2004 )
“Đã và đang xuất hiện tình trạng lạm dụng độc quyền Nhà nước để biến thành độc quyền doanh nghiệp, một số quan chức và chuyên