Ở nước ta, từ trước đến nay có một luồng ý kiến cho rằng chủ nghĩa hiện đại bắt
đầu từ chủ nghĩa ấn tượng. Ý kiến này đã xuất hiện từ lâu và nó vẫn tồn tại dai dẳng
cho đến ngày nay. Ví dụ như từ năm 1983, cuốn Từ điển văn học (Nxb. KHXH, tập 1),
đã định nghĩa chủ nghĩa hiện đại là “Tên gọi chung của mọi khuynh hướng suy đồi, bế
tắc trong văn học nghệ thuật tư sản phương Tây ngày nay. Có thể kể từ chủ nghĩa ấn
tượng, chủ nghĩa tượng trưng cuối thế kỷ XIX, đến chủ nghĩa lập thể, chủ nghĩa vị lai,
chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa trừu tượng, v.v. của thế kỷ XX.” (Tr. 135). Đến năm
2009, cuốn sách Lý luận văn học (nhiều tác giả, Nxb. Đại học Sư phạm, tập 3) vẫn ghi:
“Nói rộng ra cả về chủ nghĩa hiện đại như về chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa ấn
tượng v.v.” (Tr. 329). Và gần đây nhất, trong bài báo “Đôi điều về các trường phái
văn chương hiện đại” (Văn nghệ, số 28-2013), tác giả Anh Chi cũng đã liệt kê chủ
nghĩa ấn tượng là chủ nghĩa hiện đại đầu tiên, và cùng với các chủ nghĩa hiện đại khác,
chúng làm nên phong trào nghệ thuật tiên phong thế kỷ XX
8 trang |
Chia sẻ: anhquan78 | Lượt xem: 820 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chủ nghĩa hiện đại trong văn học nghệ thuật bắt đầu từ đâu?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHỦ NGHĨA HIỆN ĐẠI TRONG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
BẮT ĐẦU TỪ ĐÂU?
PGS.TS. NGUYỄN VĂN DÂN
Ở nước ta, từ trước đến nay có một luồng ý kiến cho rằng chủ nghĩa hiện đại bắt
đầu từ chủ nghĩa ấn tượng. Ý kiến này đã xuất hiện từ lâu và nó vẫn tồn tại dai dẳng
cho đến ngày nay. Ví dụ như từ năm 1983, cuốn Từ điển văn học (Nxb. KHXH, tập 1),
đã định nghĩa chủ nghĩa hiện đại là “Tên gọi chung của mọi khuynh hướng suy đồi, bế
tắc trong văn học nghệ thuật tư sản phương Tây ngày nay. Có thể kể từ chủ nghĩa ấn
tượng, chủ nghĩa tượng trưng cuối thế kỷ XIX, đến chủ nghĩa lập thể, chủ nghĩa vị lai,
chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa trừu tượng, v.v... của thế kỷ XX.” (Tr. 135). Đến năm
2009, cuốn sách Lý luận văn học (nhiều tác giả, Nxb. Đại học Sư phạm, tập 3) vẫn ghi:
“Nói rộng ra cả về chủ nghĩa hiện đại như về chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa ấn
tượng v.v...” (Tr. 329). Và gần đây nhất, trong bài báo “Đôi điều về các trường phái
văn chương hiện đại” (Văn nghệ, số 28-2013), tác giả Anh Chi cũng đã liệt kê chủ
nghĩa ấn tượng là chủ nghĩa hiện đại đầu tiên, và cùng với các chủ nghĩa hiện đại khác,
chúng làm nên phong trào nghệ thuật tiên phong thế kỷ XX.
Tuy nhiên, như chúng tôi đã nói (xem bài “Chủ nghĩa hiện đại trong văn học nghệ
thuật - bản chất và đặc trưng”, Văn học nước ngoài số 10-2011), bản chất chung của
phong trào nghệ thuật tiên phong là khước từ chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự nhiên,
khước từ chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa ấn tượng, và nói chung là khước từ mọi quy
tắc, mọi quy phạm của nghệ thuật truyền thống và nghệ thuật chính thống. Ở đây, chủ
nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự nhiên (trong đó có chủ nghĩa tả thực của Italia) và chủ
nghĩa lãng mạn có thể được coi là nghệ thuật truyền thống của thế kỷ XIX - một thế kỷ
của cách mạng tư sản; còn chủ nghĩa ấn tượng được coi là nghệ thuật chính thống của
xã hội tư sản sau khi giai cấp tư sản phương Tây giành được chính quyền và phản bội
lại giai cấp vô sản. Chủ nghĩa ấn tượng có thể được coi là loại nghệ thuật xoa dịu và ru
ngủ của giai cấp tư sản sau cách mạng, một loại nghệ thuật xa rời hiện thực, đặc biệt là
hiện thực của đời sống nhân dân. Đây chính là những đối tượng bị công kích của các
chủ nghĩa hiện đại thuộc phong trào tiên phong.
Phong trào tiên phong công kích các trào lưu nghệ thuật truyền thống và chính
thống nói trên để hướng tới cái mới, đề xuất sự phá cách nhằm làm thay đổi triệt để bộ
mặt của nghệ thuật để có thể gọi nó là nghệ thuật hiện đại. Tuy nhiên, nghệ thuật tiên
phong vẫn không chối bỏ hiện thực, nhưng từ đây nó thể hiện hiện thực theo một nhãn
quan nghệ thuật hoàn toàn khác: đó là nhãn quan khúc xạ và bóp méo hiện thực. Nó
2
khước từ cái hiện thực khủng hoảng của xã hội tư sản chứ không chối bỏ hiện thực bản
thể của con người. Đây là nguyên tắc sẽ còn đeo đẳng lâu dài nền nghệ thuật thế giới
trong suốt thế kỷ XX và cho đến cả đầu thế kỷ XXI này. Ở đây chúng tôi xin đơn cử
một số trường phái để thấy chủ nghĩa hiện đại chống lại chủ nghĩa ấn tượng như thế
nào.
Cụ thể, năm 1905, các nghệ sĩ Pháp đã tổ chức một cuộc Triển lãm Mùa Thu hàng
năm tại Paris, chủ yếu trưng bày các tác phẩm nghệ thuật của các họa sĩ đương thời
người Pháp như: Henri Matisse, André Derain, Maurice de Vlaminck,... Nằm trong
phản ứng chung chống lại các trào lưu nghệ thuật thế kỷ XIX như chủ nghĩa tân cổ
điển, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn, và chống lại cả những giá trị hiện thực
nông cạn của chủ nghĩa ấn tượng, các nghệ sĩ hiện đại trên đây quan niệm rằng nghệ
thuật phải sử dụng các phương tiện mạnh mẽ để biểu lộ trực tiếp tư tưởng, tình cảm.
Theo họ, nghệ thuật không chỉ ghi lại những “ấn tượng” vụn vặt về hiện thực, mà nó
còn phải “biểu hiện”, phải bộc lộ mạnh mẽ những tâm tư của người nghệ sĩ. Để làm
được như vậy, người nghệ sĩ phải dùng đến những gam màu bốc lửa, chói mắt. Đó
chính là phương châm và phong cách sáng tác của các họa sĩ tham gia cuộc Triển lãm
Mùa Thu 1905. Từ quan niệm nghệ thuật của họ như thế, trào lưu này về sau đã được
các nhà phê bình đặt tên cho là “chủ nghĩa biểu hiện”.
Trong cuộc Triển lãm Mùa Thu nói trên, người ta thấy còn có tranh của cả một
họa sĩ hậu ấn tượng người Pháp Henri Rousseau, trong đó có bức tranh Sư tử đói vồ
linh dương của ông (1905). Nói chung, Henri Rousseau thường vẽ các cảnh hoang dã
theo phong cách ngây thơ và nguyên thủy, ví như bức tranh hoang dã đầu tiên của ông
cũng vẽ về sư tử: Sư tử trong cơn bão nhiệt đới (1891). Tranh của các họa sĩ biểu hiện
trên đây, cùng với tranh của Henri Rousseau, đã tạo ra một không khí sôi động và hỗn
sắc cho cuộc triển lãm. Đặc biệt là trong phòng triển lãm người ta còn trưng bày cả
một loạt bức tượng theo phong cách Phục Hưng, làm cho người xem càng cảm thấy
một sự tương phản mạnh mẽ giữa nghệ thuật truyền thống với hội họa của các nghệ sĩ
hiện đại trên kia. Đó chính là bối cảnh làm cho nhà phê bình người Pháp Louis
Vauxcelles khi ấy phải thốt lên: “Donatello lạc giữa bầy dã thú!”. Donatello là một
trong những nhà điêu khắc tiêu biểu của Italia thời Phục Hưng. Đặt các nhà nghệ sĩ
hiện đại như thế bên cạnh những bức tượng cân đối hài hòa của Donatello thì đúng là
một sự tương phản chát chúa nhất. Và tên gọi “dã thú” thốt ra từ miệng một nhà phê
bình đã thể hiện rõ nhất tình trạng tương phản này.
Ngày 17 tháng 10 năm đó, lời bình phẩm của Vauxcelles đã được in lại trên tờ báo
hằng ngày Gil Blas, để từ đó tên gọi “dã thú” nhanh chóng trở thành phổ biến và cái
tên “trường phái dã thú” chính thức ra đời trong khuôn khổ của chủ nghĩa biểu hiện.
3
Chủ nghĩa vị lai cũng là một sự phản ứng chống lại nghệ thuật chính thống (đại
diện là chủ nghĩa ấn tượng), nhưng đồng thời nó cũng chống lại cả chủ nghĩa tả thực
nhân đạo. Mục tiêu của nó là hướng tới một tính hiện đại triệt để, một nền nghệ thuật
mang những đặc tính của thời hiện đại. Nhưng quan điểm hiện đại của chủ nghĩa vị lai
lại thiên về tính kỹ trị chứ không chú trọng đến số phận của con người như các trào lưu
nghệ thuật hiện đại khác. Ở đây, yếu tố công nghệ và kỹ thuật đã được suy tôn đến
mức tuyệt đối, làm cho chủ nghĩa vị lai có một bộ mặt đặc biệt so với các trào lưu hiện
đại của phong trào tiên phong thế kỷ XX. Tuy nhiên, do không quan tâm đến số phận
con người, cho nên chủ nghĩa vị lai Italia đã tuyên bố ủng hộ chiến tranh như là một
“công việc vệ sinh duy nhất [để làm sạch] thế giới”.
Ngày 20 tháng 2 năm 1909, nhà văn mang hai quốc tịch Italia - Pháp Filippo
Tommaso Marinetti đã cho đăng trên tờ báo Le Figaro tại Paris bản tuyên ngôn đầu
tiên của chủ nghĩa vị lai in bằng tiếng Pháp nhan đề: Sự sáng lập và bản tuyên ngôn
của chủ nghĩa vị lai. Trong bản tuyên ngôn này, lần đầu tiên chủ nghĩa vị lai được giới
thiệu như là một trào lưu hoàn toàn mới lạ, độc đáo và tân tiến nhất, hoàn toàn đoạn
tuyệt với nghệ thuật quá khứ và với tất cả các phương thức nghệ thuật chính thống
hoặc theo lối truyền thống. Bản tuyên ngôn này sau đó được đăng lại trên tờ tạp chí
Poesia [“Thơ ca”] tại thành phố Milano, Italia. Một năm sau xuất hiện thêm hai bản
tuyên ngôn vị lai nữa của một nhóm nghệ sĩ người Italia và cũng được đăng trên
Poesia. Về sau còn xuất hiện thêm nhiều bản tuyên ngôn của chủ nghĩa vị lai. Nhưng
chỉ có ba bản tuyên ngôn nói trên, cộng với bản tuyên ngôn Điêu khắc vị lai của
Umberto Boccioni in năm 1912, là những văn kiện quan trọng nhất phác họa đầy đủ
diện mạo và đường lối hành động của chủ nghĩa vị lai. Thậm chí người ta còn nói
chính những bản tuyên ngôn đó mới là những cái làm cho chủ nghĩa vị lai nổi tiếng
chứ không phải là những sáng tác của họ.
Quả thực, những lời tuyên bố trong bản tuyên ngôn thứ nhất đã thực sự làm cho
người đọc bị sốc, thậm chí còn sốc hơn cả so với trường hợp của bản tuyên ngôn Đađa
sau này, bởi lẽ đó là những lời lẽ liên quan trực tiếp đến vận mệnh của loài người. Qua
những lời lẽ đó, chủ nghĩa vị lai hiện ra với những đường nét dữ dội và quyết liệt. Tinh
thần cốt lõi của nó là hành động và tốc độ! Vì thế nó cũng có thể được coi là một
phong trào nghệ thuật cách mạng.
Nếu như chủ nghĩa vị lai mới chỉ nhân danh khoa học và kỹ thuật để xây dựng
một nền nghệ thuật mới mà chưa có thời gian để áp dụng khoa học một cách kỹ lưỡng,
thì chủ nghĩa lập thể chính là một trường phái đã có ý thức nghiên cứu và áp dụng yếu
tố khoa học để biến mỗi tác phẩm nghệ thuật thành một công trình thử nghiệm.
Đây là một trong những trào lưu xuất hiện sớm từ đầu thế kỷ XX. Trong không
4
khí đổi mới của nghệ thuật đầu thế kỷ, các nghệ sĩ ngày càng quan tâm đến vai trò của
khoa học. Họ cho rằng muốn đổi mới nghệ thuật thì không thể chỉ thuần túy dựa vào
bản thân nghệ thuật, mà họ cần phải dựa vào nhiều yếu tố xã hội và văn hóa khác nữa.
Trong các yếu tố đó, khoa học và kỹ thuật là những yếu tố quan trọng. Ở đầu thế kỷ
XX này, các nghệ sĩ cho rằng nghệ thuật muốn phát triển theo hướng hiện đại thì
không thể bỏ qua khoa học.
Tất nhiên trong những thời kỳ nhất định, khoa học vẫn hiện diện trong nghệ thuật
ở một mức độ nào đó. Người ta đã nói nhiều đến việc các họa sĩ và các nhà điêu khắc
trong mọi thời đại đều cần phải có kiến thức về khoa học giải phẫu cơ thể để thực hiện
các bức chân dung nghệ thuật; hay ở thời kỳ gần với thời của phong trào tiên phong
đầu thế kỷ XX, các họa sĩ ấn tượng và hậu ấn tượng chủ nghĩa cũng cần có các kiến
thức về quang học và về kỹ thuật phân giải màu sắc để tạo ra các bức tranh đa ấn
tượng và tạo hiệu quả tác động trực tiếp đến võng mạc của người xem... Đấy là những
ngành khoa học ít nhiều đều có liên quan thực tế đến nghệ thuật tạo hình. Nhưng, các
nghệ sĩ được gọi là lập thể lại nghiên cứu một ngành khoa học có vẻ như xa vời với
nghệ thuật: đó là hình học - một bộ môn của toán học!
Tiếp thu ý tưởng của các lý thuyết khoa học của thời đại - như thuyết trực giác của
Bergson, học tập kinh nghiệm của các nghệ sĩ thuộc các trường phái hiện đại khác, đặc
biệt là trường phái vị lai, chủ nghĩa lập thể đã kết hợp các kiến thức đó với các thành
tựu nghiên cứu của khoa hình học không gian hiện đại để thử nghiệm một kiểu sáng
tác mới là mổ xẻ các hình khối rồi lại sắp xếp lại chúng để tái tạo một hiện thực mới
cho xã hội và nhân loại. Những lý thuyết đó đều là những lý thuyết khoa học rất mới
và chúng mở ra cho các nghệ sĩ nhiều cơ hội để họ sáng tạo nên một nền nghệ thuật
hoàn toàn hiện đại khác biệt hẳn với nghệ thuật truyền thống.
Qua phản ứng của các nghệ sĩ hiện đại đầu thế kỷ XX, có thể thấy rằng nghệ thuật
ấn tượng chủ nghĩa là bức tường thành cuối cùng của nghệ thuật truyền thống mà họ
phải vượt qua. Và để vượt qua bức tường thành đó, các nghệ sĩ hiện đại cần phải cầu
viện đến nhiều phương tiện, trong đó có khoa học. Trong một cuộc triển lãm tranh của
các họa sĩ ấn tượng vào thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX, họa sĩ Picasso đã nhìn quanh
và thốt lên: “Ở đây người ta thấy có trời mưa, người ta thấy có trời nắng, nhưng người
ta không hề thấy hội họa.” Năm 1908, khi giới thiệu họa sĩ Braque, nhà thơ Pháp
Guillaume Apollinaire, người ủng hộ nhiệt tình phong trào đổi mới nghệ thuật và là
người khởi xướng nền thơ ca hiện đại, đã nhắc đến giai đoạn của chủ nghĩa ấn tượng
như là “một thời kỳ dốt nát và cuồng nhiệt”.1
Từ đó, Picasso, Braque và Léger là ba trong số những người đầu tiên tìm cách
thoát khỏi chủ nghĩa ấn tượng bằng một con đường riêng ngoài các con đường mà các
5
trào lưu hiện đại khác đang mầy mò thử nghiệm. Họ đã tìm thấy lối thoát ở phương
pháp sáng tác của nhà họa sĩ hậu ấn tượng người Pháp Paul Cézanne.
Paul Cézanne là họa sĩ tiêu biểu nhất của trào lưu hậu ấn tượng. Ông cho rằng các
họa sĩ ấn tượng chủ nghĩa sử dụng màu sắc để tạo ánh sáng tác động trực tiếp đến đôi
mắt người xem, từ đó tạo ra các ấn tượng về đối tượng được mô tả. Nhưng những ấn
tượng do chủ nghĩa ấn tượng tạo ra chỉ là những ấn tượng nông cạn, tạm thời. Và
Cézanne chính là người xuất thân từ chủ nghĩa ấn tượng để rồi ông sẽ phải vượt qua
nó. Ông cho rằng muốn hiểu hiện thực thì phải vượt qua ấn tượng để thâm nhập sâu
vào bản chất của nó. Muốn thế, cần phải tiếp cận hiện thực từ các góc cạnh. Vậy là
Cézanne đã tìm cách sử dụng màu sắc để tạo hình khối cho đối tượng. Ông tuyên bố
rằng: “Phong cảnh được nhân hóa, được phản ánh và suy nghĩ trong tôi.”2 Có nghĩa là
đối với ông, hội họa là một hoạt động tư duy nội tâm. Chính vì thế mà danh họa
Picasso đã nói: “Tôi quan tâm đến nỗi lo âu của Cézanne, đến những nỗi đau của Van
Gogh, tức là đến bi kịch của con người. Những cái còn lại không quan trọng.”3
Tuy nhiên, để diễn đạt phong cảnh nhân hóa, Cézanne quan tâm rất kỹ đến hình
khối và đến việc dùng màu sắc để tạo hình khối. Ông đã nói: “Trong thiên nhiên, tất cả
đều được tạo dáng theo ba công thức cơ bản: hình cầu, hình nón và hình trụ. Cần phải
vẽ các hình khối cực kỳ đơn giản này, sau đó anh có thể làm bất cứ điều gì anh
muốn.”4 Đây chính là những công thức mở đường cho các nghệ sĩ lập thể sau này, và
theo chúng tôi, Picasso không chỉ quan tâm đến nỗi lo âu đơn thuần của Cézanne, mà
chủ yếu là ông quan tâm đến ba cái công thức vẽ cơ bản trên đây của Cézanne. Hình
khối ba chiều sẽ chiếm đoạt tâm trí Cézanne suốt cả cuộc đời, hội họa của ông sẽ
chứng tỏ là một nguồn kích thích trí tuệ cho các nghệ sĩ sau này được gọi là nghệ sĩ lập
thể.
Năm 1906-1907, Picasso vẽ bức tranh nổi tiếng Các tiểu thư ở Avignon. Đây được
coi là bức tranh nguyên mẫu của chủ nghĩa lập thể và mang tính điển hình cho bản tính
sáng tạo của Picasso. Toàn bộ cảnh quan của bức tranh đã được tác giả phá vỡ thành
các hình khối trong một nhịp không gian hoàn toàn xa lạ với không gian hội họa truyền
thống. Mặt khác, trong xu hướng phục cổ lúc bấy giờ, Picasso cũng quan tâm sâu sắc
đến nghệ thuật tạo hình dân gian nguyên thủy da đen. Và ngay trong bức tranh mở đầu
cho chủ nghĩa lập thể này, ông cũng đã kịp thổi vào đó linh hồn của nghệ thuật nguyên
thủy da đen.
Sau những thử nghiệm ngập ngừng, đến mùa hè năm 1907, họa sĩ người Pháp
Georges Braque cũng bắt đầu vẽ tranh theo phong cách Các tiểu thư ở Avignon. Một
năm sau, một số bức tranh của Braque đã được trưng bày tại cuộc Triển lãm Mùa Thu
ở Paris. Nhân dịp này, nhà phê bình nghệ thuật Louis Vauxcelles - cũng chính là người
6
mà trước đó ba năm đã gợi ý về tên gọi “dã thú” cho một trào lưu nghệ thuật - nay lại
có một lời bình luận mở đầu cho một trào lưu hiện đại mới của Picasso và Braque và
cũng đăng trên tờ báo Gil Blas. Năm 1908, ông đã viết về Braque như sau: “Braque
(...) đang quy giản tất cả - phong cảnh, nhà cửa, con người - thành những sơ đồ hình
học, thành những hình khối lập phương.”5 Thế là giới nghệ sĩ lúc bấy giờ liền lấy ngay
cái từ “lập phương” [tiếng Pháp: “cube”] do Vauxcelles đưa ra để đặt tên cho trào lưu
mới vừa được Picasso và Braque khởi xướng: cubisme, và thuật ngữ này đã được
người Việt Nam dịch là “chủ nghĩa/trường phái lập thể”. Vauxcelles quả là người có
duyên trong việc gợi ý tên gọi cho các trào lưu nghệ thuật hiện đại. Lập tức, chủ nghĩa
lập thể đã có thêm nhiều người gia nhập và làm thành một trào lưu có tầm ảnh hưởng
lớn trong phong trào tiên phong, trong số những người gia nhập đó, đặc biệt ta phải kể
đến nhà họa sĩ người Pháp Fernand Léger. Với tư tưởng chống lại chủ nghĩa ấn tượng,
trước khi gặp gỡ với Picasso và Braque vào năm 1910, Léger đã có xu hướng phân giải
hình khối từ năm 1909 với bức tranh Những phụ nữ khỏa thân trong rừng. Về sau ông
cho biết: “Với tất cả khả năng của tôi, tôi đã đi ngược lại chủ nghĩa ấn tượng. Tôi bị
ám ảnh một điều là tôi muốn chia tách các hình thể. (...) Tôi muốn cố hết sức nhấn
mạnh các hình khối.”6 Và cũng giống như Picasso với Braque, Léger cũng tôn sùng
Cézanne là “sư phụ”.
Về cơ sở lý thuyết của chủ nghĩa lập thể, các nghệ sĩ theo xu hướng này muốn đưa
tư duy khoa học vào quá trình sáng tạo nghệ thuật. Theo họ, chủ nghĩa ấn tượng mới
chỉ xử lý các yếu tố khoa học ở mức độ trực giác chứ chưa ở mức tư duy. Họ cho rằng
các họa sĩ ấn tượng chủ nghĩa chỉ sáng tạo bằng võng mạc chứ chưa hề vận dụng đến
bộ óc, rằng các họa sĩ ấn tượng chỉ ghi nhận một cách đơn giản các dữ liệu thị giác chứ
chưa tổ chức chúng lại thành một sự tổng hợp trí tuệ với sự lựa chọn để rút ra những
dữ liệu cốt yếu.7 Đây là quan niệm nghệ thuật mà các nghệ sĩ theo xu hướng lập thể sẽ
tuân thủ triệt để.
Là người bạn và người cổ cũ nhiệt tình cho xu hướng sáng tác mới này, nhà thơ
Pháp Guillaume Apollinaire - người chủ xướng đổi mới thơ ca hiện đại - năm 1913 đã
xuất bản một cuốn sách nhan đề Suy ngẫm mỹ học. Các họa sĩ lập thể [“Méditations
esthétiques. Les peintres cubistes”], trong đó chương đầu bàn về Hội họa lập thể và về
sau nó được coi là bản tuyên ngôn của chủ nghĩa lập thể trong nghệ thuật tạo hình.
Trong chương sách nói trên, Apollinaire đã trình bày những suy nghĩ trong tinh
thần của chủ nghĩa lập thể nói riêng và của phong trào tiên phong nói chung. Ông nói
rất đúng đến cái chủ trương chung của phong trào tiên phong là “Nói chung, nghệ
thuật hiện đại bác bỏ đa số các phương tiện đã được các nghệ sĩ lớn thời quá khứ sử
dụng để tạo khoái cảm thẩm mỹ. Nếu như mục đích của hội họa, như trước đây người
7
ta vẫn quan niệm, là tất cả sự thích thú dành cho đôi mắt, thì giờ đây người thưởng
ngoạn cần phải tìm thấy được ở hội họa một sự thích thú khác với sự thích thú mà bức
tranh thiên nhiên có thể cung cấp cho anh ta một cách dễ dàng. Như vậy, chúng ta
đang hướng tới một loại nghệ thuật hoàn toàn mới, nó đối với hội họa - như từ trước
đến nay người ta quan niệm - giống như âm nhạc đối với văn học. Nó sẽ là một loại
hội họa thuần túy giống như âm nhạc là văn học thuần túy.”8
Thế nào là hội họa thuần túy? Apollinaire đã dẫn câu chuyện giai thoại về sự tranh
tài giữa hai nhà danh họa kỳ phùng địch thủ thời Hy Lạp cổ đại tên là Apelles và
Protogenes (thế kỷ IV trước Công nguyên). Nhà triết học Plinius Già (thế kỷ I) đã kể
lại rằng: Nghe tiếng tăm của Protogenes, một hôm Apelles đến nhà ông này ở đảo
Rhodos để làm quen. Đến nơi, ông không gặp Protogenes ở nhà mà chỉ thấy một bà gia
nhân già. Người gia nhân hỏi danh tính của ông để trình lại chủ nhà. Apelles không nói
mà bước tới một giá vẽ của Protogenes, cầm bút lông vẽ một đường chỉ màu thật mảnh
lên tấm vải vẽ và bảo người hầu: “Đây là danh tính của ta”, rồi ông cáo lui. Khi về đến
nhà, nhìn thấy đường chỉ màu, Protogenes hiểu ngay rằng chỉ có Apelles mới có thể
thực hiện được một công việc hoàn hảo như vậy. Ông liền lấy bút vẽ chấm vào một lọ
màu khác rồi vạch một đường còn mảnh hơn nằm bên trên đường chỉ màu của Apelles.
Hôm sau, Apelles quay lại và lại gặp lúc Protogenes vắng nhà, nhìn thấy đường chỉ
màu của Protogenes, lo sợ bị thua, ông liền lấy bút vẽ một đường chỉ màu thứ ba còn
mảnh hơn nằm giữa hai đường chỉ màu kia. Khi trở về, nhìn thấy đường chỉ màu thứ
ba, Protogenes chấp nhận thua cuộc và đi tìm Apelles để làm quen.
Apollinaire kết luận: đó chính là hội họa thuần túy. Và theo ông, các họa sĩ trẻ
tuổi của phong trào tiên phong cũng đang muốn sáng tạo ra một loại hội họa hoàn toàn
mới là hội họa thuần tuý. Trong số các họa sĩ trẻ tuổi đó, Apollinaire chú ý đặc biệt
đến các họa sĩ lập thể.
Apollinaire cho rằng người ta đang trách cứ các họa sĩ mới là họ quá quan tâm
đến hình học, nhưng theo ông, hình học chính là cơ sở của họa hình; rằng “hình học
đối với nghệ thuật tạo hình cũng giống như ngữ pháp đối với một nhà văn.”9 Thế
nhưng cái hình học mà Apollinaire nói tới không phải là một khoa hình học truyền
thống Euclide, mà đó là hình học mới của Bernhard Riemann, nhà toán học hiện đại
người Đức (1826-1866).
Cùng với hình học Lobachevski (Nga), hình học Riemann là một khoa học hoàn
toàn mới, nó đề xuất một không gian đa chiều, mở ra cho ngành toán học và vật lý học
hiện đại nhiều hướng nghiên cứu mới, trong đó có cả thuyết tương đối c