Chuyên đề Biến đổi cơ cấu kinh tế-Xã hội Việt Nam 1954 -1995

Cùng với sự phát triển của Cách mạng Việt Nam, chế độ kinh tế nước ta đã có những thay đổi rất sâu sắc. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám và sự thành lập của nhà nước dân chủ nhân dân đã tạo những điều kiện để chúng ta cải biền nền kinh tế mang nặng tính chất thuộc địa và nửa thuộc địa phong kiến thành một nền kinh tế độc lập và dân chủ. Nhiệm vụ kinh tế đó chưa thực hiên được bao nhiêu thì dân tộc ta lại phải tiến hành cuộc kháng chiến gian khổ và lâu dài chống bọn đế quốc xâm lược để bảo vệ nền độc lập mới giành được, để bảo vệ nhà nước dân chủ nhân dân non trẻ. Trong tình hình như vậy mà phải chuyển nền kinh tế còn mang nhiều tàn tích thực dân, phong kiến và rất thấp kém thành một nền kinh tế kháng chiến, một nền kinh tế có khả năng phục vụ cho nhu cầu to lớn của cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc, thật là một sự nghiệp cực kỳ khó khăn. nhưng nhờ vào sự lãnh đạo tài tình của Đảng và nhà nước dân chủ nhân dân kết hợp với lòng yêu nước cao độ, lòng hy sinh vô bờ bến và tinh thần phấn đấu tự lực cánh sinh của nhân dân cả nước, một nền kinh tế kháng chiến đẫ vững vàng như ý chí chiến đấu cứu nước của nhân dân ta đã xây dựng được và lớn mạnh dần theo đà phát triển của cuộc kháng chiến thần thánh cứu nước. Nền kinh tế được xây dựng nên trong thời kỳ khói lửa ấy, tuy không thể nói là phồn thịnh, nhưng đã đảm bảo cho quân và dân ta có đủ cơm ăn áo mặc để theo đuổi cuộc đấu tranh vũ trang đến thắng lợi.

doc68 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2171 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Biến đổi cơ cấu kinh tế-Xã hội Việt Nam 1954 -1995, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA: LỊCH SỬ  Đề tài: Biến đổi cơ cấu kinh tế miền Bắc 1954 - 1960 (Chuyên đề: Biến đổi cơ cấu kinh tế-xã hội Việt Nam 1954-1995) LỜI NÓI ĐẦU Cùng với sự phát triển của Cách mạng Việt Nam, chế độ kinh tế nước ta đã có những thay đổi rất sâu sắc. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám và sự thành lập của nhà nước dân chủ nhân dân đã tạo những điều kiện để chúng ta cải biền nền kinh tế mang nặng tính chất thuộc địa và nửa thuộc địa phong kiến thành một nền kinh tế độc lập và dân chủ. Nhiệm vụ kinh tế đó chưa thực hiên được bao nhiêu thì dân tộc ta lại phải tiến hành cuộc kháng chiến gian khổ và lâu dài chống bọn đế quốc xâm lược để bảo vệ nền độc lập mới giành được, để bảo vệ nhà nước dân chủ nhân dân non trẻ. Trong tình hình như vậy mà phải chuyển nền kinh tế còn mang nhiều tàn tích thực dân, phong kiến và rất thấp kém thành một nền kinh tế kháng chiến, một nền kinh tế có khả năng phục vụ cho nhu cầu to lớn của cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc, thật là một sự nghiệp cực kỳ khó khăn. nhưng nhờ vào sự lãnh đạo tài tình của Đảng và nhà nước dân chủ nhân dân kết hợp với lòng yêu nước cao độ, lòng hy sinh vô bờ bến và tinh thần phấn đấu tự lực cánh sinh của nhân dân cả nước, một nền kinh tế kháng chiến đẫ vững vàng như ý chí chiến đấu cứu nước của nhân dân ta đã xây dựng được và lớn mạnh dần theo đà phát triển của cuộc kháng chiến thần thánh cứu nước. Nền kinh tế được xây dựng nên trong thời kỳ khói lửa ấy, tuy không thể nói là phồn thịnh, nhưng đã đảm bảo cho quân và dân ta có đủ cơm ăn áo mặc để theo đuổi cuộc đấu tranh vũ trang đến thắng lợi. Nền kinh tế kháng chiến không phải chỉ là một nền kinh tế dân tộc mà nó còn mang ngày càng nhiều tính chất dân chủ: cuộc cách mạng ruộng đất đã được thực hiện từng bước ngay trong thời kỳ kháng chiến, một phần lớn ruộng đất trước đây tập trung trong tay bọn thực dân và phong kiến, lần lượt được chuyển về tay dân cày, và cuối cùng, những đợt triệt để cải cách ruộng đất tiến hành trước và sau ngày hoà bình được lập lại đã hoàn toàn xoá bỏ những tàn tích phong kiến trong nền kinh tế miền Bắc nước ta. Cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân ta đã thu được thắng lợi to lớn, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng khỏi ách đế quốc và phong kiến. Chính đảng Mác Lê nin chủ trương cách mạng không ngừng. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành ở miền Bắc có nghĩa là là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) phải bắt đầu. Nhiệm vụ cơ bản đặt ra trước mắt chúng ta là phải làm thế nào cải biến nền kinh tế có nhiều thành phần thành nền kinh tế XHCN thuần nhất, đồng thời xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho CNXH. Vận dụng một cách sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác Lê nin về cách mạng XHCN và xây dựng CNXH, xuất phát từ tình hình và đặc điểm cụ thể của nước ta và kết hợp chặt chẽ với hệ thống CHXN thế giới hùng cường, Đảng ta đã kiên quyết lãnh đạo nhân dân lao động đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh lên CNXH, và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội nói chung ở thời kỳ (1954-1960) nhất là biến đổi trong kinh tế ở thời kỳ này có vai trò và ý nghĩa rất to lớn đối với sự nghiệp cách mạng XHCN ở miền Bắc nói riêng và đối với cả nước nói chung. nó là giai đoạn mở đầu của sự nghiệp cách mạng mới ở miền Bắc- cách mạng XHCN và làm nhiệm vụ hậu phương lớn quyết định cho tuyền tuyến miền Nam tiến tới thống nhất cả nước. Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng như vậy, đã có không ít những nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu đánh giá và tổng kết ở nhiều góc độ khác nhau về sự biến đổi cơ cấu kinh tế này. còn riêng với bản thân tôi, với tư cách là một sinh viên năm thứ tư khoa lịch sử, trong bài chuyên đề này, tôi chỉ xin góp một chút hiểt biết của mình về sự biến đổi cơ cấu kinh tế – xã hội của miền Bắc từ 1954 - 1960 thông qua việc tìm hiểu sự biến đổi cơ cấu kinh tế trong giai đoạn này, dựa vào việc đọc một số tài liệu của các đồng chí đã từng giữu những chức vụ quan trọng của Đảng và nhà nước trong những năm tháng hào hùng đó như: Của đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Trường Chinh, của đồng chí Phạm Văn Đồng, …của viện kinh tế học, của tác giả Nguyễn Đình Lê, Trương Thị Tiến, và một số những bài viết trên tạp chí kinh tế chủ yếu là những năm từ 60 –65, tạp chí nghiên cứu lịch sử. Bài chuyên đề này của tôi gồm có 3 phần: Phần 1: Tình hình kinh tế miền Bắc trước và sau khi tiếp quản. Phần 2: Biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội miền Bắc 1954-1960 Do phạm vi chuyên đề nhỏ, do việc tiếp cận với tài liệu trong thời gian ngắn và trình độ hiểu biết còn hạn chế nên trong bài viết này không tránh khỏi những khuyết điểm thiếu xót. Em kính mong thầy và các bạn bổ xung, giúp đỡ. Nhân đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo người đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình hoàn thành bài viết này. Em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG Phần 1. Tình hình kinh tế miền Bắc trước và sau khi tiếp quản Cách mạng tháng Tám thành công lập nên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhưng chưa được bao lâu thì với sự giúp đỡ của đế quốc Mỹ ngày 23/9/1945 thực dân Pháp lại quay trở lại xâm lược đất nước ta một lần nữa. Nhân dân ta tiếp tục bắt tay vào thực hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp can thiệp Mỹ. Do bối cảnh trong lịch sử như vậy nên nền kinh tế thời kỳ này là nền kinh tế kháng chiến với những đăc điểm nổi bật: kinh tế diễn ra ở hai khu vực, khu vực tự do và vùng bị chiếm đóng. Trong đó ở vùng tự do thì hầu hết là những nơi hẻo lánh, giao thông rất khó khăn. Nền kinh tế chỉ là kinh tế đóng, đóng là do bị phong toả, không có khả năng mở với thế giới chứ không phải do chủ trương “bế quan toả cảng”. Cho đến năm 1950 vùng kháng chiến bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Đối với vùng Pháp chiếm đống, những ranh giới đồng thời là chiến tuyễn, nên quan hệ kinh tế rất hạn chế. Do đó nền kinh tế kháng chiến về căn bản là dựa vào nội lực. Từ năm 1951, 1952 có một chút quan hệ ngoại thương và viện trợ của Trung Quốc, nhưng nó không đóng vai trò quan trọng lắm đối với kinh tế chung. Kinh tế về cơ bản là kinh tế tư nhân. Nông nghiệp nằm trong tay nông dân với hình thức gia đình, sản xuất nhỏ. Ngoài công nghiệp quốc phòng thì công nghiệp hầu như không có gì, phần lớn chỉ là sản xuất tiểu thủ công và thủ công để cung cấp những mặt hàng thiết yếu cho đời sống. Thương nghiệp cũng nằm trong tay những người buôn bán nhỏ là chính. Kinh tế mang nặng tính chất tự cấp, tự túc. Thị trường còn kém phát triển. Những thị trấn và phố xá không có vai trò quan trọng lắm về kinh tế. Mậu dịch quốc doanh từ khi thành lập cho tới khi kết thúc chiến tranh chủ yếu chỉ cung cấp cho khu vực nhà nước, chưa có khả năng cung cấp cho toàn dân. thị trường bên ngoài gần như không có (trừ việc mua bán một số yếu phẩm cần thiết cho kháng chiến từ vùng Pháp chuyển ra). Thị trường nhỏ bé, và chủ yếu chỉ là thị trường thôn quê truyền thống. Đã thế, vùng kháng chiến dân không đông, nhu cầu rất thấp. Tuỳ theo các chiến dịch, dân số vùng kháng chiến xê xích trong vòng 5,7,10 triệu người. Phần lớn dân cư đã quen sống gian khổ, cầu không lớn, sức mua rất kém. Như vậy, do chính sách cai trị của thực dân Pháp, cùng với tác động của chiến tranh làm cho kinh tế miền Bắc kiệt quệ. Cơ cấu kinh tế miền Bắc là sản xuất nông nghiệp, lạc hậu; sản xuất nông nghiệp nhỏ, manh mún; công nghiệp hầu như không đáng kể. Cơ sở hạ tầng cực kỳ nghèo nàn. Với chiến thắng Đông-xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, đã buộc thực dân Pháp phải ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ, rút quân về nước, lập lại hoà bình trên cơ sở thừa nhận những chủ quyền chủ yếu của ba dân tộc Đông Dương, kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ. Do so sánh lực lượng và tình hình chính trị thế giới phức tạp lúc đó, theo hiệp định Giơ-ne-vơ đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền Nam- Bắc vơi hai chế độ chính trị khác nhau: miền bắc hoàn toàn được giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), còn miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và các lực lượng tay sai thống trị. Sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ của nhân dân trên cả nước còn chưa hoàn thành. Nhân dân miền Bắc vừa phải lo hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, vừa phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thực hiện thống nhất nước nhà. Do đó, ngay khi hoà bình lập lại, nhân dân miền bắc bắt tay ngay vào tiếp quản, thực hiện cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn miền Bắc. Lợi dụng 300 ngày chuyển quân tập kết theo quy định của hiệp định Giơ-ne-vơ, thực dân Pháp phối hợp với đế quốc Mỹ ra sức phá hoại miền Bắc. Chúng cài lại gián điệp, đốt phá kho tàng, phá hoại những công trình công cộng, những di tích lịch sử và văn hoá( như phá chùa Một Cột, cầu Phủ Lạng Thương, nhà máy điện Uông Bí…). Chúng vơ vét tài sản, vật tư, tháo rỡ máy móc thiết bị, mang theo hoặc huỷ hoại hồ sơ, tài liệu hòng gây khó khăn cho ta trong việc kiểm kê, điều hành công việc và hoạt động sau này. Chúng đóng cửa nhà máy, hãng buôn, công sở, trường học làm cho sinh hoạt ở thành phố, thị xã ngừng trệ. Chúng còn tung tin xuyên tạc, bôi nhọ chế độ miền Bắc, biạ đặt tin “chính phủ Việt Nam cấm đạo”, “chúa đã vào Nam”…để ra sức lôi kéo, dụ dỗ, cưỡng bức gần một triệu đồng bào công giáo di cư vào Nam. chúng ra sức lôi kéo, mua chuộc các chuyên gia vào Nam. Lợi dụng nếp sống lạc hậu, mê tín dị đoan của đồng bào miền núi, chúng bịa ra việc “xưng vua”, “đón vua”, xúi giục đồng bào chống lại chính sách của chính phủ, bỏ sản xuất, gât mất trật tự an ninh . nhân dân miền Bắc nhất là nhân dân những vùng sắp giải phóng, đã tiến hành các cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại âm mưu trên của địch. Phong trào đấu tranh bảo vệ máy móc, tài sản của công nhân đã diễn ra mạnh mẽ ở nhiều nơi. Hàng nghìn cán bộ đảng viên và các đoàn thể quần chúng đã lăn lộn, đi sâu vào từng gia đình ở thành phố, thị xã, nông thôn để vận động quần chúng chống địch cướp phá tài sản, vận động binh lính người Việt trong quân đội “liên hiệp Pháp” trở về với gia đình và chống địch cưỡng ép đồng bào di cư vào nam. Miền Bắc lần lượt được giải phóng. Việc tiếp quản vùng mới giải phóng, nhất là các thành thị, hoàn toàn tốt đẹp. Ngày 16/5/1955 toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi đảo Cát Bà, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Sau khi tiếp quản xong, dân số miền Bắc thay đổi không đáng kể so với thời kỳ trước (13.574000 người). Nhưng kinh tế thì lại gặp rất nhiều khó khăn. Hồ Chủ Tịch đã nói về cảnh tượng của miền Bắc lúc đó như sau: “ chiến tranh xâm lược của bọn thực dân đã làm cho nền kinh tế nước ta kiệt quệ. 1/7 ruộng đất bị bỏ hoang, 1/3 ruộng đất không có nước tưới để cày cấy, các công trình thuỷ lợi đều bị phá huỷ, 1/4 số trâu bò bò bị bắn giết. Hàng chục vạn nóc nhà, hàng trăm thị trấn lớn nhỏ bị đốt trụi. Số nhà máy đã ít ỏi lại đều bị giặc tàn phá, máy móc bị tháo rỡ mang đi, sản xuất bị bế tắc. Đường sá, cầu cống, xe cộ phần lớn bị phá hoại. ở thành phố, hàng chục vạn công nhân thất nghiệp. Nạn đói đe doạ khắp nơi.”1 Trong nông nghiệp, ngành kinh tế chủ yếu của miền Bắc, bị thiệt hại nặng nề: 1.430.000 ha ruộng đất bị bỏ hoang, hàng vạn trâu bò bị giết hại, nông cụ bị đốt huỷ, 8 công trình thủ nông lớn và nhiều công trình thuỷ nông vừa và nhỏ bị phá huỷ. Phần lớn ruộng đất chỉ làm một vụ, năng suất rất thấp. Kỹ thuật canh tác thô sơ, thiên tai nặng nề. Sức kéo chủ yếu là trâu bò, nhưng thiếu nghiêm trọng do hàng vạn trâu bò bị giết trong chiến tranh. Những đồng bào công giáo bị dụ dỗ cưỡng ép di cư vào Nam đã để lại hàng chục nghìn ha ruộng đất bị bỏ hoang. Trên 1 triệu người bị đói, làng mạc bị đốt phá trơ trụi, xơ xác…vv. Nông nghiệp miền Bắc lúc này chỉ còn lại là một nền kinh tế sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu. Và trên thực tế nông nghiệp miền Bắc đã gặp phải rất nhiều khó khăn trong sản xuất. Trong công nghiệp, phần lớn nhà máy xí nghiệp không hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng. Nguyên liệu, nhiên liêu máy móc thiếu nghiêm trọng. Gần 50% kho tàng, công sở bị phá hoại. Tại Hà Nội, Hải Phòng, khi ta vào tiếp quản chỉ có nhà máy điện và nhà máy nước hoạt động. Sản lượng mỏ than Hồng gai chỉ còn 986000 tấn, giảm 40% so với năm 1939. vài năm sau khi tiếp quản giá trị sản lượng công nghiệp còn rất thấp, chiếm chưa đầy 10% tổng số giá trị sản lượng công nông nghiệp. Trong giao thông vận tải mạch máu của nền kinh tế quốc dân bị phá huỷ nghiêm trọng. Hàng nghìn km đường sắt bị tàn phá, chỉ có hơn 100 km tuyến đường sắt hà Nội-Hải Phòng hoạt động; 3500 cầu cống bị phá huỷ, phương tiện vận tải thiếu thốn, việc giao lưu giữa các vùng gặp rất nhiều khó khăn. Thương nghiệp bị đình đốn, các hoạt động đầu cơ, nâng giá lũng đoạn thị trường diễn ra phổ biến. Nhà nước mới chỉ nắm được 40,5% khối lượng hàng hoá bán buôn và 22,5% hàng bán lẻ. Sản xuất ngừng trệ, lưu thông phân phối khó khăn, hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng. Tiền tệ chưa thống nhất, nền kinh tế quốc dân ở miền Bắc mất cân đối gay gắt. Hàng chục vạn người thất nghiệp, kể cả hàng vạn binh lính nguỵ bỏ ngũ, về các địa phương. Nạn đói lan tràn khắp nơi. Tháng 9/1954 miền Bắc có gần nửa triệu người bị đói. Do chính sách ngu dân cuả thực dân Pháp và do hoàn cảnh chiến tranh, nền giáo dục miền Bắc ở trong tình trạng thấp kém, hàng triệu người bị mù chữ. Năm 1955, cả miền Bắc chỉ có 30 kỹ sư và cán bộ kỹ thuật. Mạng lưới y tế lạc hậu, nhiều dịch bệnh như sốt rét, lao phổi, hoa liễu, đau mắt hột…hoành hành phổ biến. Thực dân Pháp còn lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để gây thêm những khó khăn phúc tạp chia rẽ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tình hình kinh tế sau tiếp quản đã đặt ra cho nhân dân miền Bắc rất nhiều khó khăn trong việc bắt tay vào làm nhiệm vụ kinh tế mới và làm hậu phương vững chắc cho tuyền tuyến miền Nam. Tuy vậy, Đảng và nhà nước ta đã xác định những khó khăn đó chỉ là những khó khăn tạm thời, trước mắt. Sự thực là bên cạnh những khó khăn, thì miền Bắc cũng có rất nhiều những thuận lợi để làm nhiệm vụ đó. Trước hết là, khi kết thúc quá trình tiếp quản chúng ta có nhà nước dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ của chuyên chính vô sản, làm đòn bẩy cho mọi cuộc cải tạo kinh tế và xã hội. Chúng ta có nền kinh tế quốc doanh xây dựng từ trong kháng chiến và được củng cố sau khi hoà bình. Trong khu vực sản xuất công nghiệp nhà nước, lực lượng cán bộ kỹ thuật tuy không nhiều, nhưng ngay trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã đào tạo những cán bộ khoa học kỹ thuật thuộc thế hệ đầu tiên. cho nên ngay những năm đàu sau giải phóng miền Bắc đã có khoảng 300 cán bộ tốt nghiệp đại học và cao đẳng và gần 1000 cán bộ kỹ thuật trong biên chế cán bộ công nhân viên. Nhất là chúng ta có Đảng lao động Việt Nam, Đảng của giai cấp công nhân, trải qua 30 năm giữ bá quyền lãnh đạo cách mạng và kháng chiến thắng lợi, có uy tín hết sức lớn lao, có kinh nghiệm già dặn. Còn nhân dân lao động thì rất phấn khởi và tin tưởng vào tương lai của mình sau khi thắng được bọn đế quốc mạnh hơn. Giai cấp tư sản dân tộc thì đã từng hoặc ít nhiều ủng hộ cách mạng và kháng chiến. Về mặt kinh tế họ phụ thuộc vào nhà nước dân chủ nhân dân. Sau khi cách mạng thành công đã quét sạch những trở ngại của tư bản ngoại quốc và chế độ phong kiến bảo thủ, các nhà tư sản dân tộc sẵn sàng bỏ vốn mua máy móc, mở mang kinh doanh đó là lẽ tất nhiên của khuynh hướng phát triển chủ nghĩa tư bản dân tộc khi có điều kiện. Mặc dù cải cách ruộng đất mới chỉ đang thực hiện nhưng trải qua các cuộc cải cách ruộng đất từng phần đó, người nông dân lao động đã một phần có ruộng đất trong tay, họ đã có đựơc sống dễ chịu và khá giả hơn. Đặc biệt thuận lợi hơn nữa là khi chúng ta bắt tay vào làm cách mạng XHCN và xây dựng CNXH ở miền Bắc thì các nước XHCN đã trở thành một hệ thống thế giới vững mạnh đứng đầu là Liên Xô. thế cân bằng giữa CNXH và CNTB đã dần được xác lập. Liên Xô và các nước Đông Âu đang bắt tay vào công cuộc xây dựng kinh tế. Trung Quốc tiếp tục thực hiện cải cách ruộng đất, hợp tác hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Với những tiềm lực đó các nước XHCN anh em đã viện trợ cho chúng ta rất nhiều cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Có thể nói rằng tất cả những thuận lợi đó chính là những điều kiện giúp chúng ta nhanh chóng vượt qua những khó khăn ở trên. Nước ta bị chia cắt đất nước, điều đó tất nhiên làm mất chỗ bổ sung giữa hai miền; nhưng đó không phải là trở ngại không thể vượt qua. Trái lại việc đất nước bị chia cắt càng kích động lòng yêu nước của nhân dân ta vượt mọi khó khăn xây dựng miền Bắc vững mạnh, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Phần 2. Biến đổi cơ cấu kinh tế miền Bắc từ 1954-1960 Xuất phát từ hoàn cảnh quốc tế và trong nước đã trình bày ở trên, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã đề ra nhiệm vụ của miền Bắc là chuyển sang làm nhiệm vụ cách mạng XHCN. Lê nin nói: “cách mạng dân chủ tư sản thành công, chúng ta không dừng lại nửa đường mà sẽ lập tức tiến lên cách mạng XHCN, dựa vào lực lượng của giai cấp vô sản có tổ chức và có giác ngộ”. tập trung đầu tư xây dựng lại nền kinh tế mới, kinh tế XHCN. Từ đó Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng nền kinh tế mới. Đầu năm 1955, chính phủ đã đề ra trương trình khôi phục kinh tế mà những nét lớn đã được kỳ họp thứ 4 của quốc hội (tháng 3/ 1955) thông qua. Tại kỳ họp thứ 4 (tháng 3/1955), Quốc hội nhấn mạnh : “ nhiệm vụ chung của thời kỳ khôi phục kinh tế là dựa vào sức lực của nhân dân ta, đồng thời dựa vào sự giúp đỡ của các nước bạn-sức ta là chính-nhằm khôi phục sản xuất nông nghiệp, tiểu công nghiệp và công nghiệp; khôi phục thương nghiệp và bình ổn giá cả, củng cố nền tài chính quốc gia; khôi phục giao thông vận tải”2 2.1. Trong nông nghiệp Xuất phát từ đặc điểm của công nghiệp hoá XHCN ở nước ta là tiến thẳng lên CNXH không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là chúng ta đi lên CNXH xuất phát từ nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm cơ sở để thực hiện công nghiệp hoá XHCN. Nắm vững quan điểm đó, ngay sau khi hoà bình lập lại, trong lĩnh vực kinh tế điều quan trọng trước tiên đựơc Đảng quan tâm là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Nghị quyết của bộ chính trị Trung ương Đảng tháng 9/1954 đã chỉ rõ:“ sau đình chiến, chúng ta đứng trước một nhiệm vụ to lớn trong công tác kinh tế là hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, giảm bớt những khó khăn về đời sống của nhân dân, phát triển kinh tế một cách có kế hoạch và làm từng bước, mở rộng việc giao lưu kinh tế giữa thành thị và thôn quê…trong thời kỳ phục hồi, trước hết cần nắm vững việc phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp. Đó là vấn đề then chốt, cơ sở của việc cải thiện đời sống của nhân dân, phồn thịnh kinh tế, mở rộng việc giao lưu hàng hoá”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân vừa kết thúc ở miền Bắc thì giai đoạn cách mạng XHCN được tiếp nối ngay. Trước hết là hoàn thành cuộc cải cách ruộng đất: cuộc cải cách được bắt đầu từ trong những năm cuối của cuộc kháng chiến và đã kết thúc thắng lợi vào cuối năm 1957. Cải cách ruộng đất thực hiện thắng lợi đã đưa lại cho hơn 2 triệu gia đình nông dân lao động 810.000 ha ruộng đất, hơn một trăm nghìn trâu bò, 1,8 triệu nông cụ tịch thu của giai cấp địa chủ. Thắng lợi này tạo tiền đề củng cố, phát triển miền Bắc về mọi mặt. Ước mơ ngàn năm của người nông dân về “mảnh ruộng của mình” đã được thực hiện. Thắng lợi của cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc là kết quả của quá trình đấu tranh cách mạng chống đế quốc và phong kiến của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua cải cách ruộng đất, giai cấp địa chủ đã bị đánh đổ toàn bộ, quan hệ sản xuất phong kiến đã bị xoá bỏ triệt để, khẩu hiệu người cày có ruộng đã hoàn toàn trở thành hiện thực. Tuy trong cải cách ruộng đất chúng ta đã phạm một số sai lầm nghiêm trọng nhưng không thể vì thế mà phủ nhận những thành quả to lớn nói trên. Đó chính là cơ sở của việc khôi phục và phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng trong những năm đầu hoà bình mới được lập lại, nó đã góp phần rất lớn vào việc bình ổn giá lương thực, ổn đ