Trong một vài năm trở lại đây Việt Nam đã có được nhiều thuận lợi trên con đường hội nhập quốc tế, đặc biệt từ khi gia nhập WTO nền kinh tế càng có bước phát triển mạnh mẽ, biểu hiện điển hình là sự sôi nổi của thị trường chứng khoán trong năm 2006 và 2007 đã đưa thị trường chứng khoán Việt Nam vượt lên xếp thứ 24 thế giới về tốc độ tăng trưởng. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi ta cũng gặp phải những khó khăn không ít. từ giữa năm 2007, lạm phát đã tác động xấu đến toàn bộ nền kinh tế của nước ta nói chung cũng như góp phần tạo nên một bức tranh đỏ ảm đạm trên Thị Trường Chứng Khoán nói riêng. Do sự phát triển quá nhanh và quá nóng đối với một thị trường còn quá non trẻ và sự thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết của những nhà đầu tư ngắn hạn đã tạo ra những rủi ro đáng tiếc, cùng với sự ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới, thị trường bất động sản, vàng, đã làm cho thị trường chứng khoán nước ta có nhiều biến động đáng kể, biểu hiện rõ ràng nhất là sự biến động về giá, bởi giá cả chính là yếu tố quyết định trong chứng khoán.
Giống như mọi hoạt động kinh tế khác, hoạt động trên trên thị trường chứng khoán cũng diễn ra theo chu kỳ tăng-giảm-tăng. Vào thời kỳ giá gia tăng, TTCK gọi nó là “ bull market”. Bull là con bò tót. Người ta cũng dùng tiếng lóng ‘’bull” để chỉ người lạc quan thường đẩy cho giă cả tăng. Thời kỳ giá giảm sút được gọi là “bear market”. “Bear” là con gấu. Người ta gọi “bear” nhìn tình hình bi quan và làm cho giá giảm xuống. Giá cả ở TTCK là một cuộc đấu tranh giữa hai loại người này. Vậy tại sao lại có sự lên xuống của giá cả? Những nhân tố nào đã làm nên sự thay đổi này ? Đây chính là mối quan tâm nhất của nhiều nhà đầu tư tham gia vào TTCK và cũng là lý do chọn đề tài “CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ CHỨNG KHOÁN” với mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ về các nhân tố ảnh hưởng tới Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam trong thời gian qua để các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán có thể khắc phục hay làm giảm sự ảnh hưởng đó đến mức tối thiểu đối với việc quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp.
Do đề tài còn mới mẻ, thời gian nghiên cứu hạn hẹp,nghiên cứu trên quy mô tổng thể nói chung nên việc phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán một cách toàn diện và xác thực là điều rất khó khăn rất mong được sự góp ý của các thầy (cô) giáo cùng các bạn, để đề tài được hoàn thiện hơn.
46 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1886 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Các nhân tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở Đầu
Đặt vấn đề:
Trong một vài năm trở lại đây Việt Nam đã có được nhiều thuận lợi trên con đường hội nhập quốc tế, đặc biệt từ khi gia nhập WTO nền kinh tế càng có bước phát triển mạnh mẽ, biểu hiện điển hình là sự sôi nổi của thị trường chứng khoán trong năm 2006 và 2007 đã đưa thị trường chứng khoán Việt Nam vượt lên xếp thứ 24 thế giới về tốc độ tăng trưởng. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi ta cũng gặp phải những khó khăn không ít. từ giữa năm 2007, lạm phát đã tác động xấu đến toàn bộ nền kinh tế của nước ta nói chung cũng như góp phần tạo nên một bức tranh đỏ ảm đạm trên Thị Trường Chứng Khoán nói riêng. Do sự phát triển quá nhanh và quá nóng đối với một thị trường còn quá non trẻ và sự thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết của những nhà đầu tư ngắn hạn đã tạo ra những rủi ro đáng tiếc, cùng với sự ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới, thị trường bất động sản, vàng,… đã làm cho thị trường chứng khoán nước ta có nhiều biến động đáng kể, biểu hiện rõ ràng nhất là sự biến động về giá, bởi giá cả chính là yếu tố quyết định trong chứng khoán.
Giống như mọi hoạt động kinh tế khác, hoạt động trên trên thị trường chứng khoán cũng diễn ra theo chu kỳ tăng-giảm-tăng. Vào thời kỳ giá gia tăng, TTCK gọi nó là “ bull market”. Bull là con bò tót. Người ta cũng dùng tiếng lóng ‘’bull” để chỉ người lạc quan thường đẩy cho giă cả tăng. Thời kỳ giá giảm sút được gọi là “bear market”. “Bear” là con gấu. Người ta gọi “bear” nhìn tình hình bi quan và làm cho giá giảm xuống. Giá cả ở TTCK là một cuộc đấu tranh giữa hai loại người này. Vậy tại sao lại có sự lên xuống của giá cả? Những nhân tố nào đã làm nên sự thay đổi này ? Đây chính là mối quan tâm nhất của nhiều nhà đầu tư tham gia vào TTCK và cũng là lý do chọn đề tài “CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ CHỨNG KHOÁN” với mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ về các nhân tố ảnh hưởng tới Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam trong thời gian qua để các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán có thể khắc phục hay làm giảm sự ảnh hưởng đó đến mức tối thiểu đối với việc quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp.
Do đề tài còn mới mẻ, thời gian nghiên cứu hạn hẹp,nghiên cứu trên quy mô tổng thể nói chung nên việc phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán một cách toàn diện và xác thực là điều rất khó khăn rất mong được sự góp ý của các thầy (cô) giáo cùng các bạn, để đề tài được hoàn thiện hơn.
Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tíc các ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế, xã hội, chính trị pháp luật đến giá chứng khoán
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng các phương pháp phân tích giá chứng khoán lá phương pháp phân tích cơ bản và phương pháp phân tích kỹ thuật với những số liệu thực tế, các bảng biểu cũng như các đồ thị minh hoạ.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Các nhân tố kinh tế vĩ mô, chính trị xã hội, pháp luật và một số chứng khoán tiêu biểu minh họa sự ảnh hưởng từ các nhân tố đã phân tích(thêm phân tích kt).
Chương 1 -Cơ Sở Lý Luận Về Thị Trường Chứng Khoán
Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán:
Khái niệm:
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp.
Bản chất:
Thị trường chứng khoán phản ánh các quan hệ trao đổi, mua bán quyền sở hữu tư liệu sản xuất và vốn bằng tiền, tức là mua bán quyền sở hữu vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn được lưu thông như một loại hàng hóa có giá trị và giá trị sử dụng. Thị trường chứng khoán là hình thái phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa.
Đặc điểm và vai trò của Thị trường chứng khoán
Đặc điểm:
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính, được chuyên môn hóa về mua bán các chứng khoán trung và dại hạn. Thị trường chứng khoán ra đời là một tất yếu khách quan.
Vai trò :
Thị trường chứng khoán là phương tiện huy động vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Thị trường chứng khoán là công cụ khuyến khích dân cư tiết kiệm và sử dụng tiền tiết kiệm này vào đầu tư, từ đó xã hội hóa việc đầu tư.
Thị trường chứng khoán thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả.
Thị trường chứng khoán góp phần điều hòa vốn giữa các ngành trong nền kinh tế, tạo nên sự phát triển nhanh và đồng đều trong nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài.
Phân loại Thị trường chứng khoán:
Căn cứ vào phương tện pháp lý của hình thức thị trường tổ chức thị trường:
Thị trường chứng khoán chính thức ( The stock exchange ) hay còn gọi là thị trường chứng khoán tập trung, là thị trường chứng khoán hoạt động theo các quy định pháp luật, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng ký. TTCK chính thức có địa điểm và thời gian ,ua bán rõ rệt, giá cả được định theo thể thức đấu giá công khai, có sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán. TTCK được thực hiện bằng các Sở giao dịgh chứng khoán.
TTCK phi chính thức ( Over the counter market – OTC ) hay còn gọi là TTCK phi tập trung là TTCK mua bán chứng khoán ngoài Sở giao dịch, không có địa điểm tập trung những người môi giói, những người kinh doanh chứng khoán như ở Sở giao dịch chứng khoán, không có sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán, không có ngày giờ hay thủ tục nhất định mà do sự thỏa thuận của người mua và người bán được thực hiện bởi các công ty chứng khoán thành viên. Phương thức giao dịch thông qua mạng điện thoại và vi tính. Các chứng khaons giao dịch trên thị trường này thường là các loại chứng khoán không được đăng ký, ít người biết hay ít được mua bán.
Căn cứ vào tính chất phát hành hay lưu hành của chứng khoán:
TTCK sơ cấp: TTCK sơ cấp còn gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành các loại chứng khoán. Đây là nơi diễn ra cá loại hoạt động mua bán chứng khoán mới phát hành lần đầu, cho phép các chủ thể cần nguồn tài chính tiếp nhận được các nguồn tài chính bằng việc phát hành các chứng khoán mới, những chứng khoán bán cho người đầu tiên mua nó nhằm thu hút vốn đầu tư.
TTCK sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành. Thị trường này tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi của các nhà đầu tư về phía các đơn vị phát hành, đồng thời các chứng khoán được chuyển đến tay các nhà đầu tư lần đầu. Thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho nền kinh tế đồng thời tạo ra hàng hóa chứng khoán do thị trướng thứ cấp. Việc phát hành chứng khoán ở thị trường sơ cấp nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư, tiết kiệm vào phát triển kinh tế.
Đối tượng mua bán trên TTCK sơ cấp là quyền sử dụng các nguồn tài chính. Thị trường này chỉ được tổ chức một lần, việc phát hành chứng khoán được bắt đầu kể từ khi đơn vị phát hành chứng khoán chào bán chứng khoán ra công chúng và chấm dứt khi toàn bộ số chứng khoán của đợt phát hànhđến tay các nhà đầu tư thứ nhất.
TTCK thứ cấp: là thị trường cấp hai hay thị trường lưu thông, thị trường mua đi bán lại các loại chứng khoán đã được phát hành trên TTCK sơ cấp, làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán. Đây là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán đến tay người thứ hai, tức là thị trường diễn ra việc mua bán lại các chứng khoán đã được phát hành trên TTCK sơ cấp.
TTCK thứ cấp là một loại thị trường cạnh tranh tự do. Trên thị trường này, các nhà đầu tư, các nhà môi giới, các nhà kinh doanh chứng khoán được tự do tham gia. Mặt khác, giá cả của chứng khoán phản ánh nguyên tắc cạnh tranh và kết quả của quan hệ cung cầu chứng khoán. Thị trường thứ cấp là một thị trường hoạt động liên tục không ngừng nghỉ. Các nhà đầu tư có thể mua bán chứng khoán nhiều lần trên thị trường này.
Căn cứ vào phương thức giao dịch:
Thị trường giao ngay (Spots market) còn gọi là thị trường thời điểm, tức là thị trường thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán theo gía thỏa thuận của ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra tiếp sau đó hai ngày.
Thị trường tương lai (Future market) là thị trường mua bán chứng khoán theo một hợp đồng định sẵn, giá cả được thỏa thuận trong ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra trong một kỳ hạn nhất định trong tương lai.
Căn cứ vào đặc điểm các loại hàng hóa lưu hành trên thị trường chứng khoán:
Theo căn cứ này, TTCK được chia làm 3 loại thị trường:
Thị trường cổ phiếu
Thị trường trái phiếu.
Thị trường các công cụ và nguồn gốc chứng khoán.
Chương 2: Giới Thiệu Chung Về Giá Chứng Khoán
Khái niệm chứng khoán:
Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.
Đặc điểm và vai trò của chứng khoán:
Đặc điểm:
Chứng khoán là giá khoán động sản, tức là các công cụ vốn dài hạn.
Vai trò:
Chứng khoán là công cụ rất hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường để tạo nên một lượng vốn tiền tệ khổng tồ tài trợ dài hạn cho các mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hay các dự án đầu tư của Nhà Nước và tư nhân.
Chứng khoán là giấy tờ có giá trị kinh tế hay nói cách khác đó là công cụ tài chính có giá trị tương ứng như tiền mặt và được mua bán hoặc chuyển nhượng. Chứng khoán là một loại hàng hóa rất tiêu biểu trong cơ chế kinh tế thị trường tự do.
Phân loại chứng khoán:
Căn cứ vào nội dung chứng khoán:
Chứng khoán nợ là loại chứng khoán do Nhà Nước hoặc các doanh nghiệp phát hành cần huy động vốn cho các mục đích tài trợ dài hạn. Ví dụ: trái phiếu.
Chứng khoán vốn là giấy tờ chứng nhận sự góp vốn kinh doanh vào công ty cổ phần. Ví dụ: các loại cổ phiếu.
Căn cứ vào hình thức chứng khoán:
Chứng khoán vô danh là loại chứng khoán không có gi tên người sở hữu trên các cổ phiếu, trái phiếu. Loại chứng khoán này có thể dễ dàng mua bán hay chuyển đổi trên thị trường chứng khoán.
Chứng khoán ký danh là loại chứng khoán mà tên người sở hữu lưu giữ trong hồ sơ của chủ thể phát hành trên chứng khoán. Việc chuyển tên người sở hữu chứng khoán này có phần khó khăn hơn và phải có sự đồng ý của cơ quan phát hành chứng khoán.
Căn cứ vào lợi tức chứng khoán:
Chứng khoán có lợi tức ổn định là loại chứng khoán mà người cầm giữ loại chứng khoán này được hưởng lợi tức ổn định theo tỷ lệ lãi suất tính trên mệnh giá chứng khoán điển hình là trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi.
Chứng khoán có lợi tức không ổn định là loại chứng khoán mà các nhà đầu tư mong đợi 1 mức lợi tức cao hơn nhiều so với chứng khoán có lợi tức ổn định, lãi suất không được ghi trên chứng khoán. Các loại chứng khoán này thường mang tính chất rủi ro cao và không ổn định.
Chương 3: Phân Tích Những Yếu Tố Tác Động Đến Giá Chứng Khoán
Thị trường chứng khoán đang trở thành một điểm nóng thu hút sự quan tâm rất lớn của mọi đối tượng trong xã hội. Cùng với sự quan tâm đó, giới tham gia thị trường chứng khoán cũng bắt đầu quan tâm đến những kĩ thuật ứng dụng trong phân tích và đánh giá để đưa ra quyết định đầu tư phù hợp. Hai hệ thống kĩ thuật phân tích được nói đến nhiều nhất là phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật.
Phân tích cơ bản là việc phân tích bản cân đối tài khoản và bản báo cáo lợi tức của công ty để xem xét chất lượng của công ty cũng như việc phát triển của công ty theo thời gian, nhờ đó tiên đoán các chuyển biến giá chứng khoán. Việc phân tích cơ bản sẽ đánh giá một chứng khoán dưới giá trị hay trên giá trị hiện hành.
Phân tích kỹ thuật là phương pháp dựa vào biểu đồ, đồ thị diễn biến giá cả và khối lượng giao dịch của cổ phiếu nhằm phân tích các biến động cung cầu đối với cổ phiếu để chỉ ra cách ứng xử trước mắt đối với giá cả, tức là chỉ cho nhà phân tích thời điểm nên mua vào, bán ra hay giữ nguyên cổ phiếu trên thị trường.
Phân tích cơ bản hoàn toàn dựa vào các yếu tố đầu vào và khả năng phân tích mang tính chủ quan. Vì vậy, cùng một cổ phiếu có thể có nhiều kết quả nhận định và phân tích khác nhau và phân tích cơ bản thường được coi là bỏ qua yếu tố tâm lý đầu tư, còn phân tích phân tích kỹ thuật chủ yếu dựa vào nghiên cứu biến động giá thị trường của cổ phiếu, và tập trung nhấn mạnh vào hành vi biến động về giá và về khối lượng giao dịch cũng như các xu hướng của hành vi giá và khối lượng đó.
3.1 Phân Tích Cơ Bản:
Các nhân tố vĩ mô tác động Đến thị trường chứng khoán:
Các ảnh hưởng của môi trường chính trị, xã hội và pháp luật:
Môi trường chính trị cũng có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường chứng khoán, xã hội luôn có những tác động nhất định đến hoạt động của TTCK. Yếu tố chính trị bao gồm những thay đổi về chính phủ và các hoạt động chính trị. Tuy nhiên ở nước ta tình hình chính trị tương đối ổn định nên ta có thể bỏ qua yếu tố này.
Môi trường xã hội và pháp luật : Hệ thống chính sách có tác động rất lớn đến bản thân TTCK và hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi thay đổi chính sách có thể kéo theo các tác động làm giá chứng khoán tăng hoặc giảm, nhất là trong những thời điểm nhạy cảm.
è Đây là những yếu tố phi kinh tế nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến giá chứng khoán trên thị trường. Nếu những yếu tố này có khả năng ảnh hưởng tích cực tới tình hình kinh doanh của DN thì giá cổ phiếu của DN sẽ tăng lên.
Các ảnh hưởng kinh tế vĩ mô:
Tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái có tác động đến TTCK trên cả 2 giác độ là môitrường tài chính và chính bản thân hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,đặc biệt là những doanh nghiệp nhập nguyên liệu hay tiêu thụ sản phẩm ởnước ngoài.
Tỷ giá hối đoái tăng cao đã tác động tới thị trường chứng khoán khá nhiều, các nguồn vốn nước ngoài được đầu tư nhiều vào thị trường chứng khoán nhưng việc tỷ giá hối đoái tăng mạnh đã làm nảy sinh lí do khiến các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi thị trường, một lượng vốn lớn nhanh chóng bị rút khỏi thị trường sẽ làm giá chứng khoán giảm và điều này sẽ tác động làm tăng lãi suất. Nếu lãi suất tăng sẽ trở thành gánh nặng cho kinh tế và ngược lại.
Lạm phát: là sự mất giá của đồng tiền, nó làm thay đổi hành vi tiêu dùng vàtiết kiệm của dân cư và doanh nghiệp. Tỷ lệ lạm phát không hợp lý sẽ gây khókhăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, ngăn cản sự tăng trưởng và đổi mớidoanh nghiệp.
Lạm phát tăng thường là dấu hiệu cho thấy, sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ không bền vững, lãi suất sẽ tăng lên, khả năng thu lợi nhuận của DN bị hạ thấp khiến giá cổ phiếu giảm. Lạm phát càng thấp thì càng có nhiều khả năng cổ phiếu sẽ tăng giá và ngược lại.
Thông thường, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển tốt và có xu hướng giảm khi nền kinh tế giảm sút. Như vậy, nếu dự đoán được xu hướng phát triển của nền kinh tế, thì có thể dự báo được xu thế phát triển chung của TTCK. Vì vậy việc dự đoán tình hình kinh tế để xem xét các ảnh hưởng của nó đến giá chứng khoán cũng rất quan trọng đến các nhà đầu tư.
Lãi suất: Lãi suất Trái phiếu Chính phủ được coi là lãi suất chuẩn, những thayđổi trong lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ làm ảnh hưởng tới giá chứng khoán,khi lãi suất chuẩn tăng làm cho giá cả của các loại chứng khoán khác giảmxuống, ngược lại lãi suất chuẩn giảm lại làm cho giá của chứng khoán tănglên.
Bình thường, lãi suất thực chất không là gì khác hơn ngoài chi phí mà một ngưòi phải trả cho việc sử dụng tiền của người khác. Thế nhưng câu chuyện về lãi suất khi nó chạy sang thị trường chứng khoán lại không dừng lại ở đó.
Mối quan hệ giữa lãi suất và giá trái phiếu là mối quan hệ trực tiếp và ngược chiều nhau. Giá của trái phiếu là giá trị hiện tại của các dòng tiền. Khi lãi suất thị trường càng cao thì các dòng tiền bị chiết khấu với lãi suất càng lớn, do vậy dẫn đến giá trái phiếu càng nhỏ. Do đó, giữa lãi suất thị trường và lãi suất trái phiếu có quan hệ tỷ lệ nghịch: khi lãi suất ngân hàng tăng cao hơn lãi suất trái phiếu, giá trái phiếu sẽ sụt giảm.
Không chỉ vậy, quan hệ quan hệ giữa lãi suất thì trường và lãi suất chứng khoán là mối quan hệ gián tiếp tác động đến giá của chứng khoán. Nếu lãi suất thị trường cao hơn lãi suất chứng khoán thì giá chứng khoán sẽ giảm, điều này khiến cho hoạt động trên thị trường chứng khoán giảm sút vì người ta thích gửn tiền vào ngân hàng hơn là mua chứng khoán.
Phân tích ngành:
Lĩnh vực kinh doanh
Trong nền kinh tế, có rất nhiều ngành khác nhau như: dược phẩm, hoá chất công nghệ thông tin, cơ khí, dịch vụ tài chính…Trong quá trình phân tích cầnxác định ngành nào có triển vọng phát triển để có quyết định đầu tư hợp lý. Doanh nghiệp đó đang sản xuất - kinh doanh sản phẩm nào là chủ yếu, thể hiện qua tỷ trọng doanh thu và lợi nhuận của sản phẩm đó trên doanh thu và lợi nhuận của DN. Biết được lĩnh vực kinh doanh chính của công ty giúp NĐT có cái nhìn rõ nét hơn về những ảnh hưởng có thể tác động tới DN như môi trường kinh tế vĩ mô, luật pháp, thiên tai, đối thủ cạnh tranh...Ngoài việc nghiên cứu chính bản thân ngành đó thì những vấn đề như : chính sách xuất, nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan, các quy định về thuế của Chính phủ đối với một ngành cụ thể nào đó cũng có ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của ngành này.
Có những ngành khi nền kinh tế đi theo chiều hướng giảm thì giá cả của các cổ phiếu ngành này cũng không bị ảnh hưởng bao nhiêu, thậm chí là tăng như ngành y dược, hay công ty kinh doang trong những lĩnh vực liên quan đến các sản phẩm thiết yếu như gạo.
Vốn và cơ cấu vốn:
Cơ cấu sở hữu vốn: Nhà nước nắm bao nhiêu phần trăm; cổ đông chiến lược, cổ đông tổ chức, cá nhân nắm số lượng lớn; cổ phiếu lưu hành, số cổ phiếu bị hạn chế chuyển nhượng. Thông thường, một cổ phiếu có nhiều cổ đông chiến lược thì tốt trong dài hạn và kỳ vọng của NĐT tăng cao dẫn đến giá của loại chứng khoán này cũng tăng cao hơn. Ngoài ra, khi DN có tỷ lệ sở hữu của Nhà nước và cổ đông chiến lược lớn thì số cổ phiếu đang giao dịch trên thị trường ít hơn nhiều so với tổng số cổ phiếu, điều này thường có lợi cho giá cổ phiếu vì lượng cung bị hạn chế.
Vốn chủ sở hữu, thặng dư vốn, lợi nhuận: nếu một DN có lợi nhuận lớn và tỷ lệ vay nợ hiện tại cao thì nhiều khả năng DN sẽ tăng vốn để giảm bớt chi phí vay. Một cấu trúc vốn tối ưu được định nghĩa là một cấu trúc vốn trong đó chi phí sử dụng vốn bình quân nhỏ nhất và giá trị doanh nghiệp đạt lớn nhất. Vấn đề cốt lõi của cấu trúc vốn tối ưu là khi doanh nghiệp vay nợ, doanh nghiệp tận dụng được lợi thế của lá chắn thuế từ nợ vay, bản chất của vấn đề này là lãi suất mà doanh nghiệp trả cho nợ được miễn thuế (vì thuế được đánh sau lãi vay). Một cách đơn giản ta có thể hình dung là giá trị của doanh nghiệp khi vay nợ sẽ bằng giá trị của doanh nghiệp không vay nợ cộng với hiện giá của lá chắn thuế từ nợ. Một điều kiện nữa của cấu trúc vốn tối ưu là còn phải xem xét đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, tức là thu nhập trước thuế và lãi vay (EBIT) phải vượt qua điểm bàng quang để doanh nghiệp có thể tận dụng được đòn cân nợ. Hơn nữa,khi đồng vốn của doanh nghiệp ngày càng được xã hội hóa, áp lực của công chúng cổ đông đối với thành tích của doanh nghiệp ngày càng tăng. Và đối với phần lớn cổ đông đại chúng thì thành tích hoạt động của doanh nghiệp cuối cùng được đo lường bằng mức cổ tức được chia cho mỗi cổ phần (EPS - Earning per share) và - hoặc là sự tăng giá của cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Nhưng vì sự tăng giá của cổ phiếu cũng phần lớn dựa trên EPS nên suy cho cùng, điều mà cổ đông đại chúng mong muốn đối với kết quả hoạt động hàng năm của doanh nghiệp là một tỷ lệ chia cổ tức cao nhưng nếu DN có vốn chủ sở hữu lớn hơn nhiều so với vốn điều lệ thì điều đó dễ dàng làm cho EPS của cổ phiếu đó tăng cao.
Quá trình tăng vốn của DN: cần tìm hiểu vốn hiện tại cũng như nhu cầu tăng vốn trong thời gian tới vì ở Việt Nam, có một thực tế là cả trước và sau khi DN tăng vốn thì giá cổ phiếu thường biến động khá mạnh, biến động theo xu hướng cùng chiều nhau.