Chuyên đề Đảm bảo xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo của Việt Nam

Một quốc gia ở mỗi thời điểm khác nhau đều có những mục tiêu phát triển khác nhau nhưng về lâu dài đều hướng đến phát triển bền vững. Vì thế phát triển bền vững là xu thế tất yếu mang tính toàn cầu và là mục tiêu phấn đấu của mọi quốc gia. Phát triển bền vững đòi hỏi sự phát triển hài hòa ở tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường. Đối với Việt Nam phát triển bền vững luôn là định hướng chiến lược quan trọng. Lý thuyết phát triển bền vững được đưa ra nhiều và ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, như chúng ta vẫn nghe thấy các cụm từ như: phát triển nông nghiệp – nông thôn bền vững, phát triển môi trường bền vững nhưng phát triển bền vững ứng dụng cho xuất khẩu được nhắc đến chưa nhiều. Là một hoạt động đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, hoạt động thương mại nói chung và xuất khẩu nói riêng cũng phải phát triển bền vững. Xuất khẩu góp phần vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội như thu nhập, việc làm,bảo vệ môi trường; bên cạnh đó xuất khẩu còn nhiều hạn chế như hoạt động sản xuất xuất khẩu thâm dụng quá mức tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, phát sinh nhiều vấn đề xã hội. Vấn đề đặt ra là cân bằng các yếu tố đó để đạt mục tiêu xuất khẩu bền vững. Cụ thể đề tài này nghiên cứu một mặt hàng điển hình là gạo. Việt Nam là nước xuất phát từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước, có truyền thống trồng lúa từ lâu đời, lúa gạo là sản phẩm lương thực thiết yếu đối với nước ta. Từ việc đảm bảo lương thực còn là một nỗi lo, Việt Nam đã vươn lên là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới và duy trì vị trí đó trong nhiều năm gần đây. Mặt hàng gạo là một trong những mặt hàng xuất khẩu truyền thống và chủ lực của Việt Nam. Kết quả đó là thành tựu to lớn đối với ngành trồng lúa nước ta, song điều đặt ra không chỉ là việc tiếp tục tăng kim ngạch xuất khẩu gạo để duy trì vị trí số hai hoặc có thể vượt Thái Lan về mặt số lượng trong trước mắt mà phải nghiên cứu làm sao để việc xuất khẩu gạo phát triển cả về lượng và chất trong lâu dài, tức là tăng trưởng và bền vững. Để đạt được điều đó không chỉ là tăng quy mô, tăng năng suất, tăng chất lượng mà cần chú ý đến những giá trị từ việc sản xuất và xuất khẩu gạo mang lại cho xã hội đồng thời không làm tổn hại đến môi trường sinh thái. Chính vì lý do trên em đã chọn nghiên cứu đề tài: “Đảm bảo xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo của Việt Nam” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình

doc89 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đảm bảo xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Bảng 2.1: Tình hình sản xuất lúa gạo cả nước giai đoạn 2000 – 2009 30 Bảng 2.2: Tỷ trọng của Việt Nam trong tổng sản lượng gạo thế giới 31 Bảng 2.3: Vị trí của Việt Nam trong xuất khẩu gạo thế giới 34 Bảng 2.4: Thị trường xuất khẩu gạo năm 2009 42 Bảng 2.5: Đóng góp của kim ngạch xuất khẩu gạo vào GDP 47 Bảng 2.6: So sánh lợi nhuận thu được từ 1 tấn gạo giữa Việt Nam và Thái Lan, bình quân giai đoạn 1999 – 2008 49 Bảng 2.7: Chuỗi giá trị gạo thơm xuất khẩu ở Cần Thơ 50 Biểu đồ 1.1: Tỷ lệ người đói theo các khu vực năm 2009 25 Biểu đồ 2.1: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam 32 Biểu đồ 2.2: Lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam, 2009 33 Biểu đồ 2.3: Diễn biến giá gạo xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 36 Biểu đồ 2.4: Diễn biến giá gạo xuất khẩu của Việt Nam năm 2009 37 Biểu đồ 2.5: Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam 2009 38 Biểu đồ 2.6: Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đi các thị trường năm 2007-2008 40 Biểu đồ 2.7: 10 thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất từ Việt Nam năm 2008 41 BẢNG TỪ VIẾT TẮT STT Chữ cái viết tắt Nghĩa 1 ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long 2 ĐBSH Đồng bằng sông Hồng 3 FAO Food and Agriculture Organization of the United Nations Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc 4 GTGT Giá trị gia tăng 5 PTNT Phát triển nông thôn 6 USDA United States Department of Agriculture Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ 7 VFA Vietnam Food Association Hiệp hội Lương thực Việt Nam LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính tất yếu của đề tài Một quốc gia ở mỗi thời điểm khác nhau đều có những mục tiêu phát triển khác nhau nhưng về lâu dài đều hướng đến phát triển bền vững. Vì thế phát triển bền vững là xu thế tất yếu mang tính toàn cầu và là mục tiêu phấn đấu của mọi quốc gia. Phát triển bền vững đòi hỏi sự phát triển hài hòa ở tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường... Đối với Việt Nam phát triển bền vững luôn là định hướng chiến lược quan trọng. Lý thuyết phát triển bền vững được đưa ra nhiều và ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, như chúng ta vẫn nghe thấy các cụm từ như: phát triển nông nghiệp – nông thôn bền vững, phát triển môi trường bền vững… nhưng phát triển bền vững ứng dụng cho xuất khẩu được nhắc đến chưa nhiều. Là một hoạt động đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, hoạt động thương mại nói chung và xuất khẩu nói riêng cũng phải phát triển bền vững. Xuất khẩu góp phần vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội như thu nhập, việc làm,bảo vệ môi trường; bên cạnh đó xuất khẩu còn nhiều hạn chế như hoạt động sản xuất xuất khẩu thâm dụng quá mức tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, phát sinh nhiều vấn đề xã hội. Vấn đề đặt ra là cân bằng các yếu tố đó để đạt mục tiêu xuất khẩu bền vững. Cụ thể đề tài này nghiên cứu một mặt hàng điển hình là gạo. Việt Nam là nước xuất phát từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước, có truyền thống trồng lúa từ lâu đời, lúa gạo là sản phẩm lương thực thiết yếu đối với nước ta. Từ việc đảm bảo lương thực còn là một nỗi lo, Việt Nam đã vươn lên là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới và duy trì vị trí đó trong nhiều năm gần đây. Mặt hàng gạo là một trong những mặt hàng xuất khẩu truyền thống và chủ lực của Việt Nam. Kết quả đó là thành tựu to lớn đối với ngành trồng lúa nước ta, song điều đặt ra không chỉ là việc tiếp tục tăng kim ngạch xuất khẩu gạo để duy trì vị trí số hai hoặc có thể vượt Thái Lan về mặt số lượng trong trước mắt mà phải nghiên cứu làm sao để việc xuất khẩu gạo phát triển cả về lượng và chất trong lâu dài, tức là tăng trưởng và bền vững. Để đạt được điều đó không chỉ là tăng quy mô, tăng năng suất, tăng chất lượng mà cần chú ý đến những giá trị từ việc sản xuất và xuất khẩu gạo mang lại cho xã hội đồng thời không làm tổn hại đến môi trường sinh thái. Chính vì lý do trên em đã chọn nghiên cứu đề tài: “Đảm bảo xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo của Việt Nam” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết về phát triển bền vững để làm rõ nội dung, bản chất của xuất khẩu bền vững và phân tích thực trạng xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo của Việt Nam để từ đó đưa ra một số kiến nghị giải pháp nhằm phát triển xuất khẩu bền vững gạo trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu là xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo của Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu là thực trạng xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo của Việt Nam từ giai đoạn 1989 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phân tích, so sánh, tổng hợp những tài liệu liên quan đến phát triển bền vững, xuất khẩu bền vững và xuất khẩu gạo. 5. Kết cấu đề tài Đề tài này gồm 3 chương: Chương 1: Sự cần thiết phải đảm bảo xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo của Việt Nam Chương 2: Phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo của Việt Nam trong thời gian qua Chương 3: Quan điểm, mục tiêu và giải pháp bảo đảm xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo của Việt Nam . Chương 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẢM BẢO XUẤT KHẨU BỀN VỮNG MẶT HÀNG GẠO 1.1. Lý luận về phát triển bền vững 1.1.1. Khái niệm Thuật ngữ “phát triển bền vững” hay “phát triển bền lâu” được xuất hiện vào những năm 1970 của thế kỉ XX nhưng mãi cho đến đầu thập niên 80 “phát triển bền vững” chính thức được sử dụng trong “Chiến lược bảo tồn Thế giới” do Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên Thế giới – IUCN , Chương trình Môi trường Liên hợp quốc - UPEP và Quỹ bảo vệ động vật hoang dã quốc tế - WWF đề xuất với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học”. Tuy nhiên khái niệm này chính thức phổ biến rộng rãi trên thế giới từ sau báo cáo Brundrland (1987) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED. Kể từ sau báo cáo Brundtland, khái niệm bền vững trở thành khái niệm chìa khoá giúp các quốc gia xây dựng quan điểm, định hướng, giải pháp tháo gỡ bế tắc trong các vấn đề trong phát triển. Đây cũng được xem là giai đoạn mở đường cho "Hội thảo về phát triển và môi trường của Liên hiệp quốc và Diễn đàn toàn cầu hoá được tổ chức tại Rio de Janeiro (1992), và Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững tại Johannesburg (2002). Theo báo cáo Brundtland: “Phát triển bền vững là sự phát triển thoả mãn những nhu cầu của hiện tại và không phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Đó là sự phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật và thực vật. Qua các bản tuyên bố quan trọng, khái niệm này tiếp tục mở rộng thêm và nội hàm của nó không chỉ dừng lại ở nhân tố sinh thái mà còn đi vào các nhân tố xã hội, con người, nó hàm chứa sự bình đẳng giữa những nước giàu và nghèo, và giữa các thế hệ; nó không chỉ là sự hòa giải mối quan hệ kinh tế và môi trường mà còn bao hàm khía cạnh về chính trị xã hội, đặc biệt là bình đẳng xã hội. Như vậy phát triển bền vững là sự kết hợp hài hòa mục tiêu kinh tế xã hội và môi trường. Khi xã hội ngày càng phát triển đặc biệt là từ khi cách mạng công nghiệp ra đời nó đã thay đổi bộ mặt thế giới, đóng góp những nguồn lực phát triển mới là kỹ thuật và khoa học công nghệ, nó làm thay đổi sâu sắc mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên. Cùng với tốc độ của công nghiệp hóa, nền kinh tế phát triển, quá trình đô thị hóa nhanh, dân số gia tăng, mọi nhu cầu đều gia tăng… tất cả các yếu tố đó làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác nhiều hơn, mức độ ảnh hưởng cũng trầm trọng hơn. Và nếu như các quốc gia chỉ quan tâm đến tăng trưởng mà không chú ý đến mức độ ảnh hưởng đến môi trường sinh thái thì đó chỉ là sự phát triển vội vã, không mang tính lâu dài, vì nếu trong tương lai khi mà môi trường đã bị phá hủy, nguồn tài nguyên đã cạn kiệt thì sẽ không còn nguồn lực để phát triển nữa. Chính vì thế các nước bây giờ đều đã quan tâm đến việc phải làm gì để phát triển có tính bền vững, tức là sự phát triển cân bằng giữa phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. 1.1.2. Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững Năm 2002, Hội nghị thưởng đỉnh của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển bền vững họp tại Johannesburg, Nam Phi. Trong hội nghị này, những nội dung cơ bản của Hội nghị Thượng đỉnh Rio de Janeiro năm 1992 được nhắc lại. Hội nghị đã đưa ra được hai văn kiện quan trọng có tính toàn cầu là “Tuyên bố chính trị” và “Kế hoạch thực hiện”. Trong các văn kiện này đã xác định ba trụ cột của phát triển bền vững đó là: bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bề vững về môi trường sinh thái. Trong điều kiện hiện đại, ba yếu tố trên vẫn là mục tiêu cần đạt đến của phát triển bền vững, và là ba nội dung hợp thành của phát triển bền vững. Điều đó có nghĩa là mục tiêu phát triển hiện nay không chỉ là một nền kinh tế thị trường phát triển mang tính toàn cầu với công nghệ khoa học kĩ thuật hiện đại mà còn phải quan tâm đến vấn đề an sinh xã hội, sự phát triển của con người đồng thời chú ý tới việc bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển bền vững giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế - xã hội – môi trường. Như vậy chúng ta sẽ căn cứ vào ba nội dung này để đánh giá sự phát triển bền vững. Người ta còn ví ba yếu tố trên như là ba chân kiềng của phát triển bền vững vì thế mà không thể thiếu bất kì một yếu tố nào trong mục tiêu cũng đánh giá sự phát triển bền vững 1.1.2.1. Phát triển bền vững về kinh tế Phát triển kinh tế là ngoài việc bao hàm quá trình gia tăng về mặt lượng của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: GNP, GNP/đầu người hay GDP, GDP/đầu người…, còn có một nội hàm phản ánh rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, đó là những biến đổi về mặt chất của nền kinh tế - xã hội, mà trước hết là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và kèm theo đó là việc không ngừng nâng cao mức sống toàn dân, trình độ phát triển văn minh xã hội thể hiện ở các tiêu chí như: thu nhập thực tế, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, trình độ dân trí, bảo vệ môi trường, và khả năng áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào phát triển kinh tế - xã hội... Về cơ bản khái niệm phát triển kinh tế đã đáp ứng được nhu cầu đặt ra cho sự phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội… Nhưng trong tình hình hiện nay thế giới phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải như ô nhiễm môi trường, thiên tai, dịch bệnh thì sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia hay cả thế giới phải được nâng cao lên một tầm mới về cả chiều rộng và chiều sâu của sự phát triển. Phát triển kinh tế bền vững hiểu ngắn gọn là phát triển kinh tế nhanh và an toàn, tức là tăng trưởng liên tục, ổn định, cơ cấu kinh tế hợp lý, chuyển dịch cơ cấu theo hướng tiến bộ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân và đồng thời không gây tổn hại suy thoái môi trường sinh thái. 1.1.2.2. Phát triển bền vững về xã hội Xã hội bền vững là một xã hội có sự phát triển kinh tế, có công bằng xã hội, phát triển con người, chất lượng cuộc sống được nâng cao không ngừng, chất lượng môi trường sống được đảm bảo. Thông thường thì sự phát triển kinh tế kèm theo nâng cao thu nhập, nâng cao mức sống cho người dân, song nó lại có nhiều tác động tiêu cực như làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo vì có thể những người giàu sẽ giàu lên nhưng những người nghèo vẫn cứ nghèo. Trong nền kinh tế thị trường, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng gây ra sự phát triển mất cân đối trong dân cư. Cùng với đó là nhiều tác động nảy sinh nhiều vẫn đề xã hội như: tệ nạn xã hội, dịch bệnh, bạo loạn… Vì vậy phát triển bền vững xã hội là cân bằng lại sự phát triển kinh tế. Để đo sự phát triển bền vững của xã hội, tiêu chí cao nhất là chỉ số phát triển con người HDI. Chỉ số phát triển con người gồm: thu nhập bình quân trên đầu người, trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ thành tựu văn minh,… 1.1.2.3. Phát triển bền vững về môi trường Tình hình kinh tế thị trường phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia ngày càng sau rộng, quan hệ thương mại ngày càng mở rộng có tác động hai mặt tới môi trường. Một mặt, thương mại phát triển các nước có nhiều cơ hội cũng như nhu cầu sử dụng các sản phẩm tốt hơn thân thiện với môi trường hơn, trao đổi học hỏi nhưng công nghệ hiện đại để đối phó, cải thiện tình hình ô nhiễm môi trường. Song mặt khác thương mại lại thúc đẩy các nước sản xuất nhiều hơn, như vậy sẽ khai thác và sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên hơn nhất là các nước đang phát triển, quá trình sản xuất còn thâm dụng tài nguyên thiên nhiên. Đối với các nước có nền công nghiệp thải ra môi trường một lượng khổng lồ các chất thải độc hại. Và còn rất nhiều tác động khác của hoạt động kinh tế và con người ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Phát triển bền vững về môi trường sinh thái là khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và không ngừng cải thiện chất lượng môi trường sống, đảm bảo tính bền vững của các hệ sinh thái. Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường là việc bảo đảm cho con người được sống trong môi trường sạch, trong lành và an toàn, bảo đảm sự hài hòa trong mối liên hệ giữa con người, xã hội và tài nguyên. Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm thỏa mãn những nhu cầu sống của các thế hệ hiện tại nhưng không làm mất cơ hội thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ mai sau về tài nguyên môi trường. Để tính được mức độ bền vững của môi trường, người ta có thể tính toán tài nguyên đã được sử dụng và bảo vệ như thế nào, cụ thể như sau: Đo lường chất lượng các thành phần của môi trường như nước, không khí, đất…. Qua đó có thể thấy chất lượng các thành phần này ở mức độ nào, còn trong mức giới hạn cho phép không ảnh hưởng đến con người cũng như sinh vật sống khác hay không. Đây cũng chính là chỉ số để theo dõi mức độ ô nhiễm của môi trường. Tính toán mức độ duy trì các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể tái tạo và việc sử dụng và khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên có thể tái tạo. Tài nguyên thiên nhiên có một số không thể tái tạo được (than, khoáng sản…) hoặc có một số có thể tái tạo được (rừng) thì cũng cần một thời gian rất dài để có thể khai thác và sử dụng. Vì thế để dảm bảo duy trì sử dụng chúng trong một thời gian dài, tức là sử dụng trong hiện tại cần cân nhắc cho việc tiêu dùng trong tương lai con người cần phải tính toán trong việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Việc này là một phần trong việc đảm bảo tính bền vững của môi trường sinh thái. Ý thức bảo vệ môi trường của con người là một yếu tố quan trong trong việc đảm bảo tính bền vững của môi trường. Nó thể hiện ở việc sử dụng tiết kiệm, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên. 1.2. Lý luận về xuất khẩu bền vững 1.2.1. Khái niệm Như trong phần lý thuyết về phát triển bền vững đã khẳng định phát triển bền vững là mục tiêu phát triển của mọi quốc gia. Và khái niệm này được ứng dụng để xây dựng mục tiêu phát triển cho nhiều ngành và lĩnh vực. Áp dụng lý thuyết về phát triển bền vững chúng ta có thể xây dựng lý thuyết về xuất khẩu bền vững. Khái niệm: Xuất khẩu bền vững là duy trì nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu cao và ổn định, chất lượng tăng trưởng xuất khẩu ngày càng được nâng cao góp phần tăng trưởng và ổn định kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường. 1.2.2. Nội dung của xuất khẩu bền vững Từ khái niệm xuất khẩu bền vững được hiểu bao hàm hai nội dung: Duy trì nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định, đảm bảo chất lượng xuất khẩu được nâng cao. Xuất khẩu đảm bảo sự hài hòa giữa các yếu tố về kinh tế, xã hội và môi trường. 1.2.2.1. Xuất khẩu duy trì nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định, đảm bảo chất lượng xuất khẩu được nâng cao Xuất khẩu tăng trưởng cao là sự gia tăng về kim ngạch, giá trị xuất khẩu. Tăng trưởng ở đây không mang tính thời vụ mà cần có sự liên tục và ổn định. Kèm theo sự tăng trưởng về số lượng là chất lượng của sự tăng trưởng. Sự tăng lên này dựa trên cơ sở gia tăng giá trị xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng hiện đại hóa phù hợp với xu hướng biến động của thế giới, sức cạnh tranh không ngừng được nâng cao. Cụ thể là sự chuyển dịch cơ cấu từ các ngành sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, lao động giá rẻ, giá trị thấp sang các ngành tạo giá trị gia tăng cao trên cơ sở tăng năng suất lao động, tiết kiệm các yếu tố đầu vào, hạn chế khai thác tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo được. Tóm lại sự xuất khẩu bền vững phải dựa trên mô hình tăng trưởng theo chiều sâu và trên cơ sở khai thác các lợi thế canh tranh do các yếu tố thể chế, chất lượng lao động, công nghệ mang lại. Năng lực duy trì nhịp độ và chất lượng tăng trưởng xuất khẩu là một trong những yếu tố để đo tính bền vững của hoạt động xuất khẩu. 1.2.2.2. Xuất khẩu đảm bảo sự hài hòa giữa các yếu tố về kinh tế, xã hội và môi trường Xuất khẩu tăng trưởng cao và ổn định trong thời gian dài là chưa đủ để đạt được mục đích xuất khẩu bền vững, mục tiêu tăng trưởng cần phải được hài hòa các yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường. Vì vậy đây là yếu tố để khẳng định xuất khẩu có bền vững hay không. Xuất khẩu ngoài việc góp phần vào tăng trưởng kinh tế, tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia, tăng vị thế của đất nước trên trường quốc tế… Hoạt động xuất khẩu cũng có rất nhiều tác động đến xã hội cũng như môi trường. Khi xuất khẩu được mở rộng tạo công ăn việc làm cho người dân, tạo thu nhập, nâng cao mức sống cho dân cư. Mặt khác nó lại nảy sinh nhiều vấn đề xã hội như tệ nạn xã hội, mất cân đối cơ cấu dân số giữa các vùng… Đối với môi trường sinh thái, như chúng ta đã biết để xuất khẩu là phải khai thác rất nhiều tài nguyên thiên nhiên sẵn có trong tự nhiên, đặc biệt là các nước đang phát triển hàng hóa còn thâm dụng tài nguyên thiên nhiên. Việc đó dẫn đến một tình trạng là nếu khai thác bừa bãi không có sự quản lý và tính toán sẽ dẫn đến làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường sinh thái, làm ảnh hưởng đến môi trường sống cũng như lợi ích của thế hệ sau. Như vậy thì xuất khẩu không thể phát triển bền vững được. Vậy xuất khẩu bền vững là sự kết hợp hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu với các mục tiêu ổn định kinh tế, xã hội và cải thiện môi trường. Tuy nhiên đối với từng quốc gia, trong từng giai đoạn phát triển mà việc đảm bảo hài hòa giữa các yếu tố là khác nhau. Một thực tế thường thấy là các quốc gia trong thời kì phát triển hướng xuất khẩu thì thúc đẩy xuất khẩu ưu tiên yếu tố kinh tế hơn, ít chú trọng đến xã hội và môi trường hơn. Nhưng đến giai đoạn đã đạt được thành tựu về tăng trưởng thì họ quan tâm nhiều hơn đến an sinh xã hội và bảo vệ môi trường, vì lúc này họ muốn xuất khẩu phát triển bền vững. 1.2.3. Các tiêu chí đánh giá xuất khẩu bền vững Từ nội dung của xuất khẩu bền vững và ứng dụng lý thuyết của phát triển bền vững, người ta cũng đưa ra ba tiêu chí để đánh giá xuất khẩu bền vững, đó là xuất khẩu bền vững về kinh tế, xuất khẩu bền vững về xã hội và xuất khẩu bền vững về môi trường. 1.2.3.1. Bền vững về mặt kinh tế Tính bền vững về kinh tế của xuất khẩu bền vững phải được thể hiện xuất khẩu tăng trưởng ổn định và chất lượng xuất khẩu tăng. Quy mô và nhịp độ tăng trưởng bình quân kim ngạch xuất khẩu, đây là tiêu chí đánh giá sự tăng trưởng về số lượng của hoạt động xuất khẩu, có thể được đo bằng kim ngạch xuất khẩu năm sau so với năm trước hoặc tỷ lệ phần trăm kim ngạch xuất khẩu tăng lên năm sau so với năm trước. Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu thể hiện ở cơ cấu xuất khẩu theo nhóm hàng, theo mức độ chế biến, cơ cấu thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu, có cấu thị trường… Ngoài ra chất lượng hoạt động xuất khẩu cũng được thể hiện qua chất lượng các hoạt động tài chính, ngân hàng, dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu, kết cấu hạ tầng cơ sở phục vụ hoạt động xuất khẩu, hệ thống phân phối hàng hóa… Xuất khẩu bền vững về kinh tế thể hiện qua sự ảnh hưởng của xuất khẩu đến tính ổn định của nền kinh tế: Mức độ đóng góp của xuất khẩu vào tăng trưởng kinh tế được đo bằng tỷ lệ phần trăm của kim ngạch xuất khẩu trên GDP. Phản ánh mức độ an