Hơn ba mươi năm trôi qua kể từ Hội nghị Liên Hiệp Quốc về môi trường tại Stockhom(Thuỵ Điển)-1972 và hơn mười năm sau Hội nghị Thượng đỉnh trái đất về Môi trường và phát triển tại Rio de Janeiro( Brazil)-1992, Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững tại Johannesburg được tổ chức để tìm sự đồng thuận của các quốc gia trên quy mô toàn cầu về sự khẩn thiết các biện pháp hữu hiệu trong công tác bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững, Chính phủ Việt Nam đang có những nỗ lực tiến kịp sự phát triển trên thế giới trong định hướng phát triển mang tính bền vững là xu thế mang tính phổ biến trên phạm vi toàn cầu. Chủ trương của chúng ta là: " Phát triển kinh tế xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự phát triển hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học".
Quá trình đô thị hoá ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra với tốc dộ nhanh chóng, đặc biệt là ở ba vùng kinh tế trọng điểm. Hải Phòng là thành phố cảng nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trong những năm gần đây, thành phố Hải Phòng đang từng ngày phát triển, nỗ lực phát huy các tiềm lực của mình, bước phát triển trở thành đô thị loại một đã chứng tỏ điều đó nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức của một thành phố lớn. Trong bối cảnh chung của một nước Việt Nam đang phát triển , Hải Phòng còn rất nhiều nhiệm vụ kinh tế xã hội cần giải quyết. Quản lí tốt rác thải rắn đô thị cũng là một trong các nhiệm vụ kinh tế xã hội của thành phố, đây cũng là chương trình hành động trọng điểm trong chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010.
Hiện nay quản lí chất thải rắn đô thị ở Hải Phòng còn chưa đạt mức hiệu qủa như mong muốn, chỉ đạt 70-75% lượng chất thải phát sinh hàng ngày, đáng chú ý là lượng chất thải này chưa được tái chế , tái sử dụng cũng như chế biến hiệu quả. Đặt trong xu thế hiện nay, kinh tế chất thải đang trở thành ngành kinh tế đáng chú trọng trong việc góp phần vào sự phát triển bền vững, thì công tác quản lí chất thải rắn đô thị ở Hải Phòng phải được chú trọng là điều tất yếu. Khai thác tốt hình thức kinh tế này không chỉ có ý nghĩa về mặt môi trường, cảnh quan đô thị mà còn có khả năng đem lại nguồn lợi nhuận khổng lồ từ các nguồn thu từ chế biến rác.
Nhận thức được vấn đề đó, Chính quyền và các cơ quan chức năng thành phố Hải Phòng đã thực hiện đầu tư có trọng điểm thông qua các dự án về quản lí chất thải rắn đô thị. Phân loại chất thải tại nguồn cũng là một trong các chương trình thu hút được nhiều dự án. Để đánh giá đúng hiệu quả từ đó nhân rộng mô hình, thành phố đã tiến hành dự án thí điểm tại phường An Biên quận Lê Chân về phân loại rác thải tại nguồn.
Qua quá trình học tập và thực tập tại Công ty Môi trường Đô thị Hải Phòng, tôi đã thực hiện chuyên đề:"Đánh giá hiệu quả của việc phân loại rác thải tại nguồn phường An Biên, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng".
Chuyên đề gồm 3 phần chính:
Chương I: Tổng quan chất thải, chất thải rắn rác thải sinh hoạt.
Chương II: Hiện trạng quản lý chất thải rắn của thành phố Hải Phòng.
Chương III: Đánh giá hiệu quả của chương trình phân loại rác thải tại nguồn thành phố Hải Phòng.
60 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1474 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá hiệu quả của việc phân loại rác thải tại nguồn phường An Biên, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đánh giá hiệu quả của việc phân loại rác thải tại nguồn phường An Biên, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng
Mở đầu
Hơn ba mươi năm trôi qua kể từ Hội nghị Liên Hiệp Quốc về môi trường tại Stockhom(Thuỵ Điển)-1972 và hơn mười năm sau Hội nghị Thượng đỉnh trái đất về Môi trường và phát triển tại Rio de Janeiro( Brazil)-1992, Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững tại Johannesburg được tổ chức để tìm sự đồng thuận của các quốc gia trên quy mô toàn cầu về sự khẩn thiết các biện pháp hữu hiệu trong công tác bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững, Chính phủ Việt Nam đang có những nỗ lực tiến kịp sự phát triển trên thế giới trong định hướng phát triển mang tính bền vững là xu thế mang tính phổ biến trên phạm vi toàn cầu. Chủ trương của chúng ta là: " Phát triển kinh tế xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự phát triển hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học".
Quá trình đô thị hoá ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra với tốc dộ nhanh chóng, đặc biệt là ở ba vùng kinh tế trọng điểm. Hải Phòng là thành phố cảng nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trong những năm gần đây, thành phố Hải Phòng đang từng ngày phát triển, nỗ lực phát huy các tiềm lực của mình, bước phát triển trở thành đô thị loại một đã chứng tỏ điều đó nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức của một thành phố lớn. Trong bối cảnh chung của một nước Việt Nam đang phát triển , Hải Phòng còn rất nhiều nhiệm vụ kinh tế xã hội cần giải quyết. Quản lí tốt rác thải rắn đô thị cũng là một trong các nhiệm vụ kinh tế xã hội của thành phố, đây cũng là chương trình hành động trọng điểm trong chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010.
Hiện nay quản lí chất thải rắn đô thị ở Hải Phòng còn chưa đạt mức hiệu qủa như mong muốn, chỉ đạt 70-75% lượng chất thải phát sinh hàng ngày, đáng chú ý là lượng chất thải này chưa được tái chế , tái sử dụng cũng như chế biến hiệu quả. Đặt trong xu thế hiện nay, kinh tế chất thải đang trở thành ngành kinh tế đáng chú trọng trong việc góp phần vào sự phát triển bền vững, thì công tác quản lí chất thải rắn đô thị ở Hải Phòng phải được chú trọng là điều tất yếu. Khai thác tốt hình thức kinh tế này không chỉ có ý nghĩa về mặt môi trường, cảnh quan đô thị mà còn có khả năng đem lại nguồn lợi nhuận khổng lồ từ các nguồn thu từ chế biến rác.
Nhận thức được vấn đề đó, Chính quyền và các cơ quan chức năng thành phố Hải Phòng đã thực hiện đầu tư có trọng điểm thông qua các dự án về quản lí chất thải rắn đô thị. Phân loại chất thải tại nguồn cũng là một trong các chương trình thu hút được nhiều dự án. Để đánh giá đúng hiệu quả từ đó nhân rộng mô hình, thành phố đã tiến hành dự án thí điểm tại phường An Biên quận Lê Chân về phân loại rác thải tại nguồn.
Qua quá trình học tập và thực tập tại Công ty Môi trường Đô thị Hải Phòng, tôi đã thực hiện chuyên đề:"Đánh giá hiệu quả của việc phân loại rác thải tại nguồn phường An Biên, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng".
Chuyên đề gồm 3 phần chính:
Chương I: Tổng quan chất thải, chất thải rắn rác thải sinh hoạt.
Chương II: Hiện trạng quản lý chất thải rắn của thành phố Hải Phòng.
Chương III: Đánh giá hiệu quả của chương trình phân loại rác thải tại nguồn thành phố Hải Phòng.
Chương I
Tổng quan chất thải, chất thải rắn,
rác thải sinh hoạt.
1. Chất thải.
1.1. Khái niệm
Chất thải là một bộ phận vật liệu phát sinh trong quá trình sản xuất và sinh hoạt của con người, không có hoặc không còn giá trị sử dụng nữa. Rác thải tồn taị ở mọi dạng vật chất như: rắn, lỏng, khí có thể xác định khối lượng rõ ràng. Một số chất thải tồn tại dưới dạng khó xác định như: nhiệt, bức xạ, phóng xạ...Dù tồn tại dưới dạng nào thì tác động gây ô nhiễm của chất thải là do các thuộc tính của chúng về lí, hoá, sinh của chúng trong đó thuộc tính hoá học là quan trọng nhất. Chất thải mang tính tích luỹ dần, nên từ một lượng nhỏ vô haị qua thời gian chúng tích luỹ thành lượng lớn gây tác hại nguy hiểm. Các hoá chất có thể chuyển từ dạng này sang dạng khác hoặc kết hợp với nhau thành các chất nguy hiểm hơn hoặc Ýt nguy hiểm hơn. Một số chát thải rắn, lỏng, khí còn có đặc thù sinh học nên thông qua các quá trình biến đổi sinh học trong cơ thể sống hoặc qua các chất thải khác mà biến đổi thành các sản phẩm tạo ra các ổ dịch bệnh nhất là các vùng có khí hậu Èm nhiệt đới thích hợp.
1.2. Nguồn gốc chất thải.
1.2.1.Do sản xuất và tiêu thụ năng lượng.
Đây là ngành chiếm vị trí hàng đầu trong việc gây ô nhiễm môi trường . các sản phẩm chính của đốt nhiên liệu là khí cacbonic. Tuy xảy ra khủng hoảng vào những năm 70 nhưng tiêu thụ năng lượng trên phạm vi toàn cầu vẫn không ngừng tăng lên. Sự giảm tiêu thụ dầu mỏ được bù lại bằng sự tăng cường sử dụng than đá, khí thiên nhiên và năng lượng hạt nhân. Vì các nguồn năng lượng mới và năng lượng hạt nhân chỉ mới chiếm một phần rất bé trong tổng số này nên nguồn năng lượng chủ yếu vẫn lấy từ đốt nhiên liệu hoá thạch. Như đã biết, một trong các sản phẩm chính của sự đốt nhiên liệu là khí cacbonic.Theo các chuyên gia , lượng khí cacbonic được giải phóng ra khi đốt khối lượng nhiên liệu này tương ứng với việc đốt 660 tỉ tấn cacbon.
Con số khổng lồ này cho thấy vai trò chính của ngành sản xuất năng lượng trong việc làm ô nhiễm sinh quyển.
1.2.2.Sản xuất công nghiệp.
Công nghiệp hoá học, công nghiệp luyện kim và cả công nghiệp điện tử hiện đại đã đưa vào sinh quyển vô số hợp chất hưũ cơ và vô cơ, thường là những chất có độc tính cao, khó phân huỷ, đôi khi không thể bị phân huỷ như thuỷ ngân, camidi, antimoan, …
Ngành công nghiệp tổng hợp hữu cơ đã và đang sản xuất ra một số lượng lớn các hợp chất mới, hoàn toàn là sự sáng tạo của con người . Hậu quả là một số lượng lớn các chất được thải vào môi trường tự nhiên và góp phần làm ô nhiễm các hệ sinh thái khác.
1.2.3.Ngành sản xuất nông nghiệp.
Nông nghiệp hiện đại cũng là một nguồn gây ô nhiễm nghiêm trọng.Việc sử dụng phân hoá học với khối lượng lớn và việc sử dụng rộng rãi thuốc trừ cỏ đã cho tăng đáng kể năng suất nông nghiệp. Tuy nhiên, rất tiếc là điều này lại kéo theo sự ô nhiễm nghiêm trọng đất canh tác và các nguồn nước, cũng nh các sản phẩm thực vật và động vật bởi rất nhiều độc tố vô cơ và hữu cơ khác nhau.
1.2.4.Giao thông vận tải.
Mét trong những nét đặc trưng của xã hội công nghiệp là sự cơ giới hoá các phương tiện giao thông vận tải. Trong các phương tiện giao thông đường bộ thì ô tô chiếm một vị trí đặc biệt. Hiện nay trên thế giới có gần 500 triệu ô tô đang hoạt động và hầu nh là đang dùng động cơ đốt trong với nhiên liệu là xăng hay dầu Diezen. Trong các khí thải của động cơ đốt trong có khí cacbonic, cacbonmono oxit, nitơ oxit…,hiđrocacbua chưa cháy, các hợp chất của chì. Tất cả các chất này đều là chất gây ô nhiễm đối với khí quyển, thuỷ quyển và thạch quyển.
1.2.Các thuộc tính của chất thải
Chất thải tồn tại ở mọi dạng vật chất nh rắn, lỏng, khí có thể xác định khối lượng rõ ràng. Một số chất thải tồn tại ở dưới dạng khó xác định như nhiệt, bức phóng xạ … Dù tồn tại dưới dạng nào thì tác động gây ô nhiễm của chất thải là do các thuộc tính về lý học, hoá học, sinh học của chúng trong đó thuộc tính hóa học là quan trọng nhất. Ta chó ý đến các thuộc tính cơ bản của chất thải về mặt hoá học.
Thuộc tính tích luỹ dần do các hoá chất bền vững và sự bảo tồn vật chất nên từ một lượng nhỏ vô hại qua thời gian chúng tích luỹ thành lượng đủ lớn gây tác hại nguy hiểm, đó là các kim loại nặng As,Hg,Zn.
Các hoá chất có thể chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác hoặc kết hợp với nhau thành chất nguy hiểm hơn hoặc Ýt nguy hiểm hơn.
2. Chất thải rắn đô thị.
2.1. Khái niệm.
Chất thải rắn đô thị(MSW- Municipal Solid Waste) là một loại chất thải rắn tổng hợp ở khu vực đô thị, bao gồm cả chất thải sinh hoạt của các hộ gia đình thải ra, chất thải rắn của hoạt động thương mại và dịch vụ, chất thải rắn của hoạt động công nghiệp, chất thải rắn từ hoạt động xây dựng, chất thải bệnh viện... Chúng có một đặc thù riêng và đang trở thành mối quan tâm đặc biệt của mỗi quốc gia trong việc thu gom, vận chuyển, tái chế tái sử dụng và chôn lấp.
Cùng với quá trình đô thị hoá, MSW gia tăng không ngừng. Ở Việt Nam chỉ tính riêng lượng chất thải sinh hoạt ở đô thị, theo số liệu thống kê từ năm 1996 đến năm 1999, lượng chất thải sinh hoạt bình quân khoảng 0,6 đến 0.8 kg/người/ngày. Một số đô thị nhỏ, lượng chất thải sinh hoạt phát sinh dao động khoảng 0,3 đến 0,5kg/người/ngày.
Việc thu gom và quản lí chất thải rắn đô thị còn rất hạn chế, theo số liệu năm 1999 thu gom MSW ở các đô thị trong cả nước mới chỉ đạt khoảng 40-70%(Hà Nội 65%, Hải Phòng 64%, Hạ Long 50%, Vinh 60%, Việt Trì 30%, Huế 60%, Đà Nẵng 66%, Biên Hoà 30%, Vũng Tàu 70%, Thành phố Hồ Chí Minh 70-75%. Nhiều thị xã, tỉ lệ thu gom chất thải rắn trung bình chỉ đạt từ 20-40%, thậm chí có nhiều thị trấn và thị xã còn chưa có tổ chức thu gom chất thải rắn , chưa có bãi tổ chức thu gom chất thải rắn và chưa có bãi đổ rác chung của cả đô thị. ở các thành phố lớn, chất thải từ các đường phố chủ yếu được công ty môi trường đô thị, dịch vụ công cộng hoặc công ty vệ sinh thu gom tới các bãi rác hoặc các xí nghiệp chế biến rác .
Trong công tác xử lí chất thải rắn đô thị người ta quan tâm tới các đặc tính của rác thải rắn đô thị, đặc biệt là nhấn mạnh tới thuộc tính có thể chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác của nó.
2.2.Ảnh hưởng của rác thải.
Cùng với sự phát triển của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá, chất lượng cuộc sống ngày càng tăng, quy mô sản xuất ngày càng mở rộng, thì con người ngày càng thải vào môi trường tự nhiên hàng triệu tấn rác thải. Rác thải nếu không được xử lí an toàn sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường, đặc biệt là môi trường không khí, môi trường đất, môi trường nước. Rác thải rắn trong quá trình phân huỷ sẽ tạo ra các khí độc như: mê tan, các dẫn xuất của nitơ, hidrocacbua, các dẫn xuất của lưu huỳnh...làm vẩn đục môi trường không khí...Quá trình chôn lấp rác thải nếu không được xử lí chặt chẽ và triệt để thì rác phân huỷ sẽ thấm vào môi trường nước làm ô nhiễm cả nguồn nước mặt lẫn mạch nước ngầm.Rác thải lẫn với đất làm cho chất lượng đất xấu đi, đất bị bạc màu, thoái hoá, biến chất, xấu hơn nữa có thể dẫn tới hiện tượng hoang mạc hoá.
Môi trường không khí, môi trường nước bị ô nhiễm là nguyên nhân chính gây ra các căn bệnh về đường hô hấp, tuần hoàn, đường ruột, lao, ung thư...đặc biệt con số những người mắc bệnh ung thư đang ngày một tăng lên trở thành vấn nạn cho loài người.
2.3.Các biện pháp xử lí rác thải rắn đô thị.
Rác thải rắn đô thị đang trở thành vấn đề quan tâm của thế giới nói chung, của mỗi quốc gia nói riêng. Nếu chúng ta không có hành vi can thiệp kịp thời thì chỉ trong nay mai thôi rác sẽ ngập đầy trái đất, làm mất mĩ quan, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng, thậm chí còn đe doạ tính mạng con người. Vì thế, cùng với quá trình phát triển của mình, chúng ta cần có thái độ đối xử công bằng với môi trường. Tuỳ theo khả năng phát triển kinh tế, ý thức và trình độ nhận thức về môi trường, thành phần chính của rác thải mà mỗi quốc gia, mỗi vùng có biện pháp xử lí rác thải rắn khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay trên thế giới đang tồn tạiphổ biến các biện pháp chính sau:
-Chôn lấp.
-Thiêu đốt.
-Chế biến phân hữu cơ.
-Hoá rắn.
2.3.1.Chôn lấp.
Chôn lấp rác trong các bãi thải đã được chuẩn bị trước(có thể được lót thành xung quanh và đày bằng các vật liệu chống thấm nh đất sét, chất dẻo) là phương pháp truyền thống xưa nay. Rác được đổ thành từng lớp có chiều dày khoảng 0,5 đến 1 mét, sau đố đầm nén chặt và phủ lên trên lớp đất hay cát. Độ cao đổ rác trong bãi chôn lấp tuỳ thuộc vào thiết kế, thông thường ở nước ta chiều cao đổ rác từ 5 đến 10 m.
Chọn phương pháp chôn lấp rác thải trước hết phải dựa vào đặc tính của chất thải . Thành phần, cấu tạo chất thải phát sinh ở các nước đang phát triển cho thấy cần phải có cáh tiếp cận thích hợp.
Dành sẵn các khu đất là điều kiện tiên quyết đối với tất cả các hình thức chôn lấp chất thải rắn. Do vẫn còn chất cặn thừa trong mọi loại hình xử lí, cho nên đối với đất đai cần giảm đảng kể các chất cặn thừa bằng các phương pháp xử lí dùng năng lượng và các phương pháp xử lí có chi phí lớn.
Hầu hết các phương pháp xử lí và chôn lấp chất thải ở các nước đang phát triển là chôn lấp hợp vệ sinh, làm phân ủ, thiêu đôt(nhiệt phân) và huỷ kị khí.
2.3.2.Thiêu đốt.
Đốt rác trong các loại lò đốt thường sử dụng nhiên liệu là dầuvà kết hợp với việc thu nhiệt khi đốt rác để sản xuất ra nhiệt năng hay điện năng...Tro và các thành phần không cháy đựơc sau khi đốt đem đi chôn lấp.
Tuy nhiên thiêu đốt không phải là một giải pháp quan trọng về kinh tế và phù hợp về kỹ thuật đối với các thành phố ở các nước đang phát triển, xét về khía cạnh giá trih calo thấp và nồng độ hơi nước cao trong chất thải, Trong nhiều trường hợp , công đoạn cuối cùng của quá trình thiêu đốt cần phải có thêm nhiên liệu bổ xung. Hơn nữa, thiêu đốt là quá trình cần phải có vốn cũng như chi phí vận hành dễ vượt quá khả năng của hầu hết các thành phố ở các nướ đang phát triển.
2.3.3.Chế biến phân hữu cơ.
Rác được ủ thành đống hay luống, nhờ các vi sinh vật có trong rác hay được bổ xung từ bên ngoài vào để phân huỷ các chất gluxit, lipit và prôtêin trong rác thành mùn hữu cơ. Tuỳ thuộc vào việc phân huỷ vi sinh vật hiếu khí hay kị khí mà có bố trí việc cung cấp không khí cho các bãi hay luống rác hay không .
Điều kiện thích hợp để ủ phân nh là một phương pháp chôn lấp chất thải phụ thuộc vào ba yếu tố chính là:
*Đặc tính của chất thải.
*Điều kiện có thể áp dụng hệ thống ủ.
*Tiềm năng của thị trường địa phương đối với phân Compot.
Những vùng có tiềm năng ủ phân bao gồm các vùng trồng cây cảnh, trồng nho, làm vườn, nông nghiệp, rừng, trồng trọt ở vùng đất hoang. Tiềm năng thị trường ở các nước đang phát triển là đáng kể. Giới cầm quyền địa phương đã chuẩn bị các bước để tuyên truyền vấn đề này, thông qua thông tin đại chúng, hội thảo, hợp tác giữa các chủ trang trại.
Chất thải ở các nước đang phát triển, chứa tới 70 đến 80 % chất thực vật dễ thối rữa, lại có tiềm năng thị trường đáng kể đối với Compot nhờ có các phương pháp canh tác nông nghiệp phong phú và giá cả phân hữu cơ cao, có sức lao động rẻ, thuận tiện và tiết kiệm trong việc ủ phân
2.3.4.Một số công nghệ đúc Ðp hoá rắn.
Công nghệ đúc Ðp hoá rắn nhưhyđromex, pasta là công nghệ sử dụng việc nén Ðp các chất polime và rác thải thành các tấm hay khối...có thể sử dụng làm vật liệu xây dựng.
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu về vật liệu xây dựng càng lớn. Nguồn nguyên liệu để sản xuất ra các sản phảm này là đá vôi, đất sét, cao lanh.. trước đây cứ tưởng là vô tận thì nay cũng cạn kiệt dần, đó là chưa kể việc khai thá đất sét làm thu hẹp diện tích trồng trọt và do đó sảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế một cách tiêu cực. Trong nhiều trường hợp chất thải của các xí nghiệp công nghiệp có thành phần hoá học và thành phần khoáng gần như các nguyên liệu tự nhiên, trong một số trường hợp thậm chí còn tốt hơn nữa, do đó nhiều nhà khoa học khảng định có thể dùng chất thải công nghiệp này để thay thế một phần cho cá nguyên liệu nói trên, và trong thực tế điều này đã được thực hiện ở một số xí nghiệp vật liệu xây dựng với kết quả tốt đẹp.
3.Chất thải sinh hoạt.
3.1.Khái niệm.
Thuật ngữ chất thải sinh hoạt dùng để chỉ tất cả các loại chất thải còn lại xuất phát từ moị khía cạnh của hoạt động của con người trong cuộc sống hàng ngày, từ phân, nước tiểu của các hoạt động sinh lÝ tự nhiên đến thức ăn thừa, rác quét nhà... cho đến xác ô tô hỏng, đồ gỗ bị thay thế...
3.2.Ảnh hưởng của chất thải sinh hoạt.
Do trong chất thải sinh hoạt có chứa những chất hữu cơ có thể lên men, là môi trường phát triển của các vi sinh vật gây bệnh nên đây được coi là loại chất thải nguy hiểm nhất. Các chất thải còn lại chỉ ảnh hưởng đến môi trường ở khía cạnh mỹ quan và lấn chiếm đất canh tác. Trong nhiều trường hợp chất thải sinh hoạt còn gọi là rác thải.
Sự ô nhiễm môi trường bởi các chất thải sinh hoạt liên quan chủ yếu đến các thành phố và khu công nghiệp đông dân cư, ở đó dân số đông, mật độ dân số cao, do đó lượng chất thải lớn và tập trung.Vấn đề ô nhiễm môi trường bởi các chất thải sinh hoạt đã có từ thời tiền sử. Nó là nguyên nhân chính của các vụ dịch bệnh từ trước đến nay trên thế giới.
II. Kinh tế chất thải.
1.Khái niệm.
Kinh tế chất thải bao gồm tất cả các khía cạnh của hoạt động kinh tế liên quan đến phát sinh, thu gom, phân loại, tái chế, tái sử dụng,vận chuyển, chôn lấp hoặc thiêu đốt chất thải.
2.Mô hình thị trường cho dịch vụ quản lí chất thải.
Trong thị trường cho dịch vụ MSW, các hàng hoá có liên quan thực sự là kết hợp của một vài hoạt động đặc trưng riêng biệt -bao gồm thu gom, vận chuyển và phân huỷ rác thải đô thị. Dựa trên cơ sở đầu ra này, mô hình thị trường các dịch vụ MSW đã được xác định, trong đó sử dụng đường cầu giả thuyết(D) hoặc đường lợi Ých cá nhân cận biên(MPB) và đường cung (S) hoặc đường cung chi phí cá nhân cận biên(MPC). Hai đường này xác định giá cân bằng cạnh tranh hoặc chi phí cho dịch vụ MSW, Pc và lượng cân bằng Qc.
P
S'=MPC'
S=MPC
Pc'
Pc
D=MPB
Qc' Qc
Lîng cña dÞch vô MSW)Qc)
Hình2.1: Mô hình thị trường cho các dịch vụ rác thải đô thị.
2.1.Đường cung thị trường.
Đường cung thị trường của dịch vụ MSW là đường đại diện các quyết định về sản xuất của công ty theo hợp đồng đã kí với các thành phố hoặc thị trấn hoặc chính quyền các khu đô thị nơi cung cấp các dịch này trực tiếp cho cộng đồng. Trong thị trường này, các chi phí cho sản xuất phản ánh bao gồm chi phí thu gom rác, vận hành đội xe chở rác, quản lí bãi rác hoặc thiêu huỷ rác và tất cả các chi phí về nhân công. Theo giả định thông thường về sản xuất và hoàn trả giảm dần, đường MPC có dạng dốc lên. Trong các yếu tố chi phí giá cả có ảnh hưởng tới đường cung trong thị trường này có cả diện tích đất và các quy định của Chính Phủ.
Ví dụ, do diện tích đất chôn lấp rác bị hạn chế, các khu đô thị, thành phố lớn phải cắt giảm các bãi chôn lấp hoặc chuyển đi xa, do vậy giá cả cho việc chôn lấp buộc phải tăng lên, hình 2.1 cho thấy kết quả thể hiện trên mô hình và việc dịch chuyển của đường MPC đã làm tăng mức giá lên điểm Pc' và giảm lượng cân bằng xuống Qc'.
2.2.Đường cầu các dịch vụ MSW.
Đường cầu của thị trường các dịch vụ MSW đại diện các quyết định trả giá của các cơ sỏ tạo rác thải MSW. Trong bối cảnh này, lượng cầu phản ánh các thay đổi về giá cả sẽ có một ý nghĩa rất quan trọng cho thấy rác thải đưọc quản lí như thế nào. Để hiểu được điều này, chúng ta xem xét lại việc giảm lượng cầu từ Qc đến Qc', do vậy việc tăng giá gây ra bởi quy định của chính quyền thành phố như đã nêu ở trên. Vậy làm thế nào để các cơ sở tạo rác thải có khả năng thay đổi hành vi của họ để đạt được việc giảm lượng rác thải về mức này? Một khả năng có thể tạo ra là họ vẫn tạo ra một lượng rác thải như vậy nhưng cần Ýt dịch vụ hơn bởi vì họ sẽ tái chế rác thải.Cuối cùng, họ cũng có thể duy trì được mức sản sinh rác như cũ như cùng một mức độ tái chế, nhưng lại có thể tiến hành tiêu huỷ rác thải không đúng theo quy định của pháp luật nhằm trành phải chi trả giá cao cho dịch vụ MSW, hiện tượng này đã tững sảy ra ở một số doanh nghiệp ở Việt Nam là việc đốt rác trong bức tường rào của doanh nghiệp sản xuất. Vậy giải pháp nào được chọn phụ thuộc vào tính sãn có của nó đối với cơ sở sản sinh ra rác thải và các mức giá của giải pháp đó tương đương hay ngang bằng với mức giá các dịch vụ MSW. Nhận ra được phản ứng thị trường tự nhiên của các cơ sở có nhu cầu đối với các dịch vụ MSW giá cao hơn, chính quyền địa phương có thể khuyến khích tái chế bàng cáh đưa ra một chương trình chi phí hiệu quả cho dân cư ở khu vức đó. Nếu thiếu một chương trình như vậy, một số cơ sở sản xuất sinh ra rác thải có thể có đọng cơ tiêu huỷ rác thải của họ một cách bất hợp pháp.
Đường cầu D hay MPB của các dịch vụ rác thải đô thị cũng có phản ứng đối với sự thay đổi giá cả nhất định. Ví dụ, những cá nhân giàu có ở dô thị có xu hướng sản sinh ra một lượng rác thải lớn hơn, vì họ mua nhều hàng hóa hơn và thay đổi thường xuyên hơn.