Trong thời đại toàn cầu hóa hoạt động kinh tế như hiện nay, yêu cầu cấp bách được đặt ra là mỗi lĩnh vực, ngành nghề kinh tế phải được cải tổ cho phù hợp với đời sống kinh tế mới. Trong nền kinh tế phát triển, hoạt động và dịch vụ ngân hàng thương mại đi vào tận những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người. Ngược lại, một nền kinh tế muốn phát triển thì phải có một hệ thống ngân hàng mạnh. Chính vì vậy, ưu tiên hàng đầu chính là ưu tiên và phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Nếu như nói đến Tín dụng là chỉ nói đến sự chuyển giao vốn giữa các chủ thể với nhau, thì Tín dụng Tiêu dùng làm người ta nghĩ ngay đến mục đích của việc chuyển giao đó. Có thể nói đây là mảng nghiệp vụ của ngân hàng tiếp cận gần nhất với cuộc sống của người lao động, nhằm hỗ trợ họ trong việc nâng cao và cải thiện đời sống vật chất lẫn tinh thần. Nhu cầu của con người ngày càng được tăng lên cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, kèm theo đó là hàng loạt các đòi hỏi cần được thoả mãn. Khả năng tài chính trở thành yếu tố rất quan trọng để tài trợ cho những nhu cầu đó, nhưng trong nhiều trường hợp nhu cầu tiêu dùng thường xuất hiện trước khi quỹ đầu tư cá nhân được hình thành. Tức là có sự tách biệt về yếu tố thời gian đối với nhu cầu tiêu dùng và khả năng tài chính của con người. Khi đó người ta sử dụng Tín dụng Tiêu dùng như là sự ứng trước của quỹ đầu tư cá nhân sẽ được hình thành trong tương lai để thoả mãn các nhu cầu trong hiện tại. Chính vì mục đích đó nên ngay từ khi Ngân hàng Nhà nước đưa ra chủ trương kích cầu bằng cho vay tiêu dùng và được thực hiện bởi các Ngân hàng Thương mại, thì loại hình này đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ phía người lao động.
Tín dụng Tiêu dùng không những đem lại lợi nhuận cho ngân hàng mà còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, góp phần cải thiện đời sống của người lao động ngày một tốt hơn; đồng thời nó là sợi dây gắn kết giữa người lao động với cơ quan, doanh nghiệp, nơi họ làm việc, từ đó có thể tăng năng lực lao động và khả năng cống hiến cho xã hội. Hơn thế nữa, cùng với xu thế đa dạng hoá trong hoạt động của Ngân hàng Thương mại, và với sự cạnh tranh gay gắt trong việc giải quyết đầu ra cho nguồn vốn của các ngân hàng thì mảng Tín dụng Tiêu dùng được các ngân hàng sử dụng như là nghiệp vụ nhằm hướng đến một thị trường mới mẻ đầy tiềm năng mà trước đây chưa được khai thác.
Xuất phát từ những vấn đề trên cùng với tình hình thực tế về Cho Vay Tiêu Dùng tại ngân hàng Đông Á ¬- chi nhánh Đà Nẵng và qua thời gian thực tập tại ngân hàng. Vì vậy, em đã chọn đề tài: “Đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Đông Á - Đà Nẵng năm 2009”. Qua đó em xin đưa ra một số kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay góp phần hoàn thiện hơn công tác Cho vay Tiêu Dùng của Ngân hàng.
Nội dung đề tài gồm 3 chương như sau:
Chương I: Cơ sở lí luận về nghiệp vụ cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Đông Á - Đà Nẵng năm 2009.
Chương III: Các giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Đông Á chi nhánh Đà Nẵng
82 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2207 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Đông Á - Đà Nẵng năm 2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại toàn cầu hóa hoạt động kinh tế như hiện nay, yêu cầu cấp bách được đặt ra là mỗi lĩnh vực, ngành nghề kinh tế phải được cải tổ cho phù hợp với đời sống kinh tế mới. Trong nền kinh tế phát triển, hoạt động và dịch vụ ngân hàng thương mại đi vào tận những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người. Ngược lại, một nền kinh tế muốn phát triển thì phải có một hệ thống ngân hàng mạnh. Chính vì vậy, ưu tiên hàng đầu chính là ưu tiên và phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Nếu như nói đến Tín dụng là chỉ nói đến sự chuyển giao vốn giữa các chủ thể với nhau, thì Tín dụng Tiêu dùng làm người ta nghĩ ngay đến mục đích của việc chuyển giao đó. Có thể nói đây là mảng nghiệp vụ của ngân hàng tiếp cận gần nhất với cuộc sống của người lao động, nhằm hỗ trợ họ trong việc nâng cao và cải thiện đời sống vật chất lẫn tinh thần. Nhu cầu của con người ngày càng được tăng lên cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, kèm theo đó là hàng loạt các đòi hỏi cần được thoả mãn. Khả năng tài chính trở thành yếu tố rất quan trọng để tài trợ cho những nhu cầu đó, nhưng trong nhiều trường hợp nhu cầu tiêu dùng thường xuất hiện trước khi quỹ đầu tư cá nhân được hình thành. Tức là có sự tách biệt về yếu tố thời gian đối với nhu cầu tiêu dùng và khả năng tài chính của con người. Khi đó người ta sử dụng Tín dụng Tiêu dùng như là sự ứng trước của quỹ đầu tư cá nhân sẽ được hình thành trong tương lai để thoả mãn các nhu cầu trong hiện tại. Chính vì mục đích đó nên ngay từ khi Ngân hàng Nhà nước đưa ra chủ trương kích cầu bằng cho vay tiêu dùng và được thực hiện bởi các Ngân hàng Thương mại, thì loại hình này đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ phía người lao động.
Tín dụng Tiêu dùng không những đem lại lợi nhuận cho ngân hàng mà còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, góp phần cải thiện đời sống của người lao động ngày một tốt hơn; đồng thời nó là sợi dây gắn kết giữa người lao động với cơ quan, doanh nghiệp, nơi họ làm việc, từ đó có thể tăng năng lực lao động và khả năng cống hiến cho xã hội. Hơn thế nữa, cùng với xu thế đa dạng hoá trong hoạt động của Ngân hàng Thương mại, và với sự cạnh tranh gay gắt trong việc giải quyết đầu ra cho nguồn vốn của các ngân hàng thì mảng Tín dụng Tiêu dùng được các ngân hàng sử dụng như là nghiệp vụ nhằm hướng đến một thị trường mới mẻ đầy tiềm năng mà trước đây chưa được khai thác.
Xuất phát từ những vấn đề trên cùng với tình hình thực tế về Cho Vay Tiêu Dùng tại ngân hàng Đông Á - chi nhánh Đà Nẵng và qua thời gian thực tập tại ngân hàng. Vì vậy, em đã chọn đề tài: “Đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Đông Á - Đà Nẵng năm 2009”. Qua đó em xin đưa ra một số kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay góp phần hoàn thiện hơn công tác Cho vay Tiêu Dùng của Ngân hàng.
Nội dung đề tài gồm 3 chương như sau:
Ø Chương I: Cơ sở lí luận về nghiệp vụ cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Ø Chương II: Đánh giá thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Đông Á - Đà Nẵng năm 2009.
Ø Chương III: Các giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Đông Á chi nhánh Đà Nẵng
Phạm vi nghiên cứu của bài viết: lý thuyết chung về cho vay tiêu dùng trong ngân hàng thương mại, thực trạng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Đông Á Đà Nẵng.
Phương pháp nghiên cứu: lý luận chung của các học thuyết kinh tế về cho vay tiêu dùng đồng thời sử dụng các phương pháp thống kê phân tích, tổng hợp và so sánh các tài liệu thu thập được về thực trạng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Đông Á Đà Nẵng, từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm góp phần nâng cao và mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại NH.
Vì thời gian thực tập có hạn và kiến thức thực tế còn ít ỏi nên không tránh khỏi những thiếu sót, hy vọng sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến của cán bộ ngân hàng, các thầy cô các anh chị và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Đà Nẵng, tháng 5 năm 2010
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Diễm Kiều
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NGHIỆP VỤ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. TỔNG QUAN VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG
1. HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm về Cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình và phương tiện đi lại... Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế và du lịch cũng có thể được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng.
Các khoản cho vay tiêu dùng giúp cho người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá và dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ cơ hội có thể hưởng một mức sống cao hơn và tiện nghi hơn.
1.2. Đặc điểm của Cho vay Tiêu dùng
1.2.1. Quy mô và nhu cầu cho vay tiêu dùng
Đối với cho vay tiêu dùng ta có thể thấy một đặc điểm là số lượng khách hàng vay thì rất lớn nhưng giá trị mỗi khoản vay thì thường là nhỏ, đặc điểm này là do đối tượng của cho vay tiêu dùng là cá nhân và hộ gia đình, chỉ để đáp ứng cho các mục đích tiêu dùng khi mà tích luỹ chưa đủ khả năng chi trả. Ngân hàng thường tốn nhiều thời gian, chi phí, sức lực mà khối lượng cho vay lại rất ít do đó chi phí bình quân cho một hợp đồng cho vay tương đối cao.
Bên cạnh đó, các khách hàng vay vốn đều có nhu cầu vay nhạy cảm theo chu kỳ kinh tế. Khi nền kinh tế có sự tăng trưởng cao và ổn định, người tiêu dùng sẽ có thái độ lạc quan hơn, họ kỳ vọng sẽ có được khoản thu nhập nhiều hơn trong tương lai. Do đó chi tiêu của người tiêu dùng ở hiện tại sẽ được thúc đẩy, nhu cầu vay tiêu dùng của người tiêu dùng sẽ xuất hiện và tăng lên nhanh chóng. Và ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái người dân có xu hướng giảm chi tiêu, không kỳ vọng nhiều vào nền kinh tế, không muốn đến Ngân hàng để vay vốn nữa, và cho vay tiêu dùng sẽ gặp nhiều khó khăn.
1.2.2. Lãi suất cho vay tiêu dùng
Ngân hàng có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để xác định mức lãi suất phù hợp với khoản vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng mà phần lớn lãi suất được xác định dựa trên lãi suất cơ bản, phần lợi nhuận cận biên và phần bù đắp rủi ro, công thức tính tổng quát như sau:
Lãi suất CVTD
=
Chi phí huy động vốn
+
Chi phí huy động khác
+
Rủi ro tổn thất chủ kiến
+
Phần bù khấu hao với các khoản cho vay dài hạn
+
Lợi nhuận cận biên
Lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn so với lãi suất các loại cho vay trong các lĩnh vực khác. Ngoài ra chi phí của nó cũng thường cao hơn so với các khoản cho vay khác do phải bù đắp rủi ro có thể xảy ra đối với khoản vay.
Cho vay tiêu dùng từ khi ra đời và phát triển đã đem lại cho các ngân hàng lợi nhuận lớn, lãi suất cho vay tiêu dùng thường được cố định chứ không thả nổi như những hình thức tín dụng khác. Còn hiện nay, trong môi trường cạnh tranh đã buộc các Ngân hàng thay đổi lãi suất của cho vay tiêu dùng, đã có sự thả nổi nhưng đấy là sự thả nổi chưa hoàn toàn. Khi đưa ra mức lãi suất cho vay cố định đó, các ngân hàng thường phải dự tính đến yếu tố lãi suất huy động đầu vào sẽ thay đổi như thế nào để làm căn cứ đưa ra lãi suất cho vay tiêu dùng. Vì vậy lãi suất cho vay tiêu dùng không linh hoạt như các khoản cho vay kinh doanh khác. Đây cũng là yếu tố tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng khi lãi suất huy động tăng.
Ngoài ra ta có thể thấy nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng hầu như ít co giãn với lãi suất. Đối với đối tượng khách hàng này, điều khiến họ quan tâm hơn hết là số tiền mà họ phải trả hàng tháng hơn là lãi suất mà họ phải chịu, mặc dù rõ ràng chính lãi suất trong hợp đồng tín dụng ảnh hưởng đến quy mô số tiền phải trả này.
1.2.3.Đối tượng cho vay tiêu dùng
Trong cho vay tiêu dùng thì đối tượng chính là các cá nhân và hộ gia đình. Đối tượng cho vay tiêu dùng có thể được phân chia theo mức độ tài chính của khách hàng.
+ Đối với khách hàng có thu nhập thấp thì thường nhu cầu vay để tiêu dùng không cao do hạn chế bởi thu nhập.
+ Đối với khách hàng có thu nhập trung bình thì nhu cầu vay vốn có xu hướng tăng mạnh thậm chí họ còn mong muốn được chi tiêu vượt quá thu nhập của mình, việc vay vốn của Ngân hàng sẽ giúp họ nhận được cuộc sống đầy đủ ở hiện tại mà chỉ khả năng thanh toán trong tương lai mới đáp ứng được.
+ Đối với khách hàng có thu nhập cao thì nhu cầu nảy sinh làm tăng thêm khả năng thanh toán và những nhóm người này thường xuyên cần chi tiêu trong mục đích tiêu dùng với số tiền lớn, vì vậy các ngân hàng thương mại thường quan tâm và chú ý đến nhóm khách hàng này hơn.
Các cá nhân được đề cập ở đây là những cá nhân có đầy đủ năng lực pháp lý, thuộc nhiều thành phần khác nhau (công chức Nhà nước, viên chức trong các đơn vị ngoài quốc doanh, các lao động tự do…) và hơn hết phải đáp ứng được điều kiện vay vốn của Ngân hàng.
1.2.4. Mức độ rủi ro cho vay tiêu dùng
Xuất phát từ bản thân khách hàng của cho vay tiêu dùng, có thể nhận định rằng cho vay tiêu dùng có mức độ rủi ro cao hơn bất kỳ một hình thức tín dụng nào khác. Đúng vậy, đối với mỗi cán bộ tín dụng, quá trình thẩm định và quyết định cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng thường gặp rất nhiều khó khăn về vấn đề thông tin khách hàng. Các thông tin này thường là không đầy đủ, thậm chí là nhiều lúc còn không chính xác, không rõ ràng. Bên cạnh đó nguồn trả nợ chủ yếu (thu nhập) của người đi vay hoặc các biến động từ nền kinh tế và do những nguyên nhân chủ quan (ốm đau, bệnh tật, chết,…); việc trả nợ hay không phụ thuộc rất lớn vào thiện chí trả nợ của khách hàng. Còn có những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh… cũng ảnh hưởng tới thu nhập của người tiêu dùng và như một phản ứng dây chuyền sẽ ảnh hưởng tới quá trình thu hồi vốn vay của Ngân hàng.
1.2.5. Mức thu nhập và trình độ học vấn
Thu nhập và tiêu dùng có mối quan hệ tỉ lệ thuận với nhau. Khi thu nhập tăng lên thì con người có xu hướng tăng thêm cho tiêu dùng và ngược lại khi thu nhập giảm xuống thì nhu cầu tiêu dùng theo đó cũng giảm xuống.
Cũng như thu nhập, trình độ học vấn có mối quan hệ thuận chiều với nhu cầu vay tiêu dùng. Thực tế ở Việt Nam cho thấy nhu cầu vay tiêu dùng cũng chỉ mới xuất hiện trong những năm gần đây và hầu như chỉ phát triển ở các thành phố lớn, thị xã, còn những vùng có trình độ dân trí thấp như các vùng nông thôn, miền núi… thì nhu cầu này chưa được người dân sử dụng phổ biến.
1.3. Phân loại Cho vay Tiêu dùng
1.3.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng
- Tín dụng tiêu dùng ngắn hạn: là khoản vay với thời hạn dưới 12 tháng. Mục đích thường tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản ngắn hạn hoặc nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Loại cho vay này áp dụng lãi suất ngắn hạn và thường chiếm tỷ trọng cao nhất trong các ngân hàng thương mại.
- Tín dụng tiêu dùng trung hạn: thời hạn vay từ 1 năm đến 3 năm. Mục đích vay đầu tư tài sản dài hạn, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Tín dụng tiêu dùng dài hạn: thời hạn vay từ 3 năm đến 10 năm. Mục đích cho vay để tài trợ cho các dự án đầu tư như xây dựng nhà ở, nhà máy, xí nghiệp,…
1.3.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay
- Các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà ở của các cá nhân và hộ gia đình.
- Các khoản cho vay nhằm tài trợ cho những chi phí mua sắm các đồ dùng phục vụ đời sống như ô tô, xe máy, vật dụng gia đình...
- Các khoản cho vay nhằm tài trợ cho những mục đích khác như chi phí học hành, giải trí và du lịch, ...
1.3.3. Căn cứ vào phương thức cho vay
- Cho vay tiêu dùng trả góp: là khoản cho vay mà người vay vốn phải trả nợ vay (cả tiền gốc và lãi) cho tổ chức tín dụng làm nhiều kỳ liên tiếp như đã thoả thuận (thường là tháng hay quý).
- Cho vay tiêu dùng phi trả góp: là khoản cho vay mà người vay vốn chỉ thanh toán một lần với tổ chức tín dụng (cả tiền gốc và lãi) vào lúc đáo hạn hợp đồng theo thoả thuận của hai bên. Thông thường đây là những khoản vay có quy mô vốn vay nhỏ đi kèm với thời hạn ngắn và sử dụng cho những mục đích như chi trả cho những chuyến đi nghỉ, tiền viện phí, mua sắm những dụng cụ trong gia đình, các chi phí sữa chữa,...
- Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: là khoản cho vay trong đó NH cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại sec được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn được thảo thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ của khách hàng được NH cho phép vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn theo một hạn mức tín dụng.
1.3.4. Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng
- Tín dụng tiêu dùng trực tiếp: là việc ngân hàng thực hiện phát vay trực tiếp cho người đi vay một số tiền mặt nhất định nhằm mục đích tiêu dùng bằng các nghiệp vụ như: tín dụng ứng trước thấu chi, tín dụng trả góp, tín dụng thời vụ. Và định kỳ người vay phải trả một số tiền theo quy định cho ngân hàng.
- Tín dụng tiêu dùng gián tiếp: được thực hiện bằng cách các nhà sản xuất hay nhà cung ứng bán hàng hoá cho khách hàng và ngân hàng sẽ thanh toán thay người mua hàng. Đây là hình thức phối hợp giữa ngân hàng và các tổ chức bán lẻ hàng hoá. Sau đó, định kỳ ngân hàng sẽ thực hiện việc thu nợ từ người vay.
1.3.5. Căn cứ vào tiêu thức mức độ tín nhiệm của NHTM đối với khách hàng
- Cho vay tiêu dùng không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba mà chỉ dựa vào uy tín của khách hàng. Loại này chỉ sử dụng cho khách hàng quen thuộc có khả năng tài chính mạnh.
- Cho vay tiêu dùng có đảm bảo: là loại cho vay được ngân hàng thương mại cung ứng như: thế chấp, cầm cố tài sản hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba.
1.4. Vai trò của Tín dụng Tiêu dùng
Việc cho vay tiêu dùng của ngân hàng có tác động, ảnh hưởng rất lớn đối với bản thân ngân hàng, cũng như đối với người tiêu dùng và nền kinh tế.
- Đối với ngân hàng:
* Tác động tích cực: Giúp mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động tiền gửi cho ngân hàng; tạo điều kiện đa dạng hoá và bán chéo các sản phẩm khách hàng cá nhân (khách hàng vay vốn bắt buộc sử dụng các sản phẩm khác như thẻ ATM, chi lương qua thẻ…), góp phần nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
* Tác động tiêu cực: Cho vay tiêu dùng có chi phí quản lý vốn vay và rủi ro cao nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng nên cần phải có biện pháp để khắc phục, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất.
- Đối với người tiêu dùng:
* Tác động tích cực: thông qua vay tiêu dùng, người tiêu dùng được hưởng các tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền đặc biệt trong trường hợp chi tiêu có tính chất cấp bách như chi cho giáo dục và y tế; khuyến khích việc tăng thu nhập và tiết kiệm chi tiêu để trả nợ vay .
* Tác động tiêu cực: nếu lạm dụng việc đi vay để tiêu dùng thì có thể dẫn tới việc người đi vay chi tiêu vượt quá mức cho phép, làm giảm khả năng tiết kiệm và chi tiêu trong tương lai; nếu người đi vay lâm vào tình trạng khó khăn, mất khả năng chi trả thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống.
- Đối với nền kinh tế:
* Tác động tích cực: Cho vay tiêu dùng nếu được dùng để tài trợ cho các chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ trong nước thì nó có tác dụng rất tốt cho việc kích cầu, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết được các vấn đề xã hội.
* Tác động tiêu cực: Cho vay tiêu dùng nếu không được sử dụng đúng mục đích và kiểm soát tốt, chẳng những không có tác dụng kích cầu mà còn làm giảm khả năng tiết kiệm trong nước.
1.5. Rủi ro trong cho vay tiêu dùng
+ Khách quan:
Biến động từ kinh tế vĩ mô: Các hậu quả từ những cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kinh tế trong nước, các chính sách tác động đến hành vi tiêu dùng của người dân.
Chính sách lương, thu nhập, việc làm dẫn tới thất nghiệp…
Những sự cố biến động ngoài mong đợi về sức khoẻ, bệnh tật…
+ Chủ quan:
Phía ngân hàng: Không đảm bảo thực hiện đúng quy trình của nghiệp vụ tín dụng tiêu dùng như: đánh giá khả năng trả nợ, hồ sơ pháp lý lỏng lẻo, sơ hở, đạo đức nghề nghiệp…..
Phía khách hàng: Cung cấp thông tin sai sự thật, có hành vi cung cấp hồ sơ vay giả mạo, các thủ đoạn khác nhằm thực hiện thành công việc vay vốn tại ngân hàng.
Các nguyên nhân khác: ảnh hưởng của môi trường hay dự đoán vào tương lai của người vay...
1.6. Các quy định về Cho vay tiêu dùng
1.6.1. Nguyên tắc vay vốn
- Người vay vốn phải hoàn trả đầy đủ cả tiền gốc và tiền lãi vay cho tổ chức tín dụng khi đến hạn trả nợ.
- Người vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng với mục đích và đối tượng, chi phí ghi trong đơn xin vay .
1.6.2. Điều kiện vay vốn
- Vay vốn cho nhu cầu tiêu dùng phải có mục đích rõ ràng.
- Người vay vốn: Đại diện hộ gia đình hoặc cá nhân vay vốn phải là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, đầy đủ năng lực hành vi dân sự, pháp luật dân sự.
- Có hộ khẩu thường trú hoặc làm việc tại đơn vị đặt trụ sở trên cùng địa bàng hoạt động của tổ chức tín dụng cho vay.
- Có một trong các yếu tố sau: Tài sản thế chấp, vật cầm cố, người bảo lãnh, cơ quan quản lý hoặc cơ quan trả lương, trả trợ cấp cho viên chức đó cam kết trích từ tiền lương, trợ cấp hàng tháng để trả nợ cho tổ chức tín dụng trong trường hợp đến hạn người đi vay không trả được nợ gốc và lãi.
1.6.3. Đối tượng cho vay
- Phương tiện đi lại: Ôtô, xe máy, xe đạp, thuyền.
- Phương tiện thông tin nghe nhìn Radio,Video, TiVi, dàn âm thanh, lắp đặt điện thoại.
- Đồ dùng sinh hoạt: Máy điều hoà, máy giặt, tủ lạnh, bếp ga, giường tủ, bàn ghế, thiết bị vệ sinh, lắp đặt điện nước sinh hoạt …
- Đồ dùng học tập: máy vi tính, nhạc cụ.
- Sửa chữa, cải tạo nhà ở,…
- Mua nhà, căn hộ chung cư…
1.6.4. Các loại cho vay và thời hạn cho vay
* Các loại cho vay:
+ Cho vay tín chấp:
- Trên cơ sở thanh toán từ tiền lương định kỳ của cá nhân tại đơn vị hành chính sự nghiệp hoặc đang công tác tại đơn vị khác có chi lương qua tổ chức tín dụng cho vay.
- Lãi vay áp dụng: Lãi suất thoả thuận.
+ Cho vay có tài sản đảm bảo:
- Cho vay ngắn hạn, dưới 12 tháng áp dụng lãi suất vay ngắn hạn.
- Cho vay trung hạn, từ 12 tháng đến 60 tháng áp dụng lãi suất cho vay trung hạn quy định tại thời điểm xét duyệt vay.
- Cho vay dài hạn, từ 60 tháng trở lên áp dụng lãi suất cho vay dài hạn.
* Tổ chức tín dụng cho vay phải căn cứ nguồn vốn của mình, tính chất khoản vay và khả năng tự trả của người vay để quyết định loại và thời hạn cho vay đối với từng trường hợp cụ thể.
* Tổ chức tín dụng có thể áp dụng các phương thức cho vay trả góp, hoặc trả theo định kỳ.
1.6.5. Mức cho vay
- Đối với những loại giấy tờ có giá, thời hạn cầm cố ngắn hơn thời gian lưu hành còn lại của giấy tờ có giá một thời gian nhất định và tối đa không quá 12 tháng, mức cho vay tối đa của NH được tính như sau:
Mức cho vay = Giá trị đến hạn thanh toán của giấy tờ có giá*(1–thời gian lưu hành còn lại của giấy tờ có giá*lãi suất cho vay)
Với các loại giấy tờ, thời hạn cầm cố được quy định căn cứ theo loại, tính chất, điều kiện bảo quản. Mức cho vay xác định căn cứ vào giá trị, khả năng tiêu thụ của thị trường, khả năng bảo quản của tài sản, nhưng tối đa không quá 80% giá trị thị trường của tài sản tại thời điểm cầm cố.
- Đối với cho vay đảm bảo bằng lương hoặc thu nhập thì mức cho vay dựa trên nhu cầu vay (có mục đích sử dụng rõ ràng), thu nhập ròng thường xuyên của khách hàng, mức cho vay tối đa của NH.
- Đối với cho vay có đảm bảo tài sản hình thành bằng tiền vay thì mức cho vay phụ thuộc vào tình hình tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng, giá trị tài sản mua sắm, mức tối đa 50-60% giá trị tài sản mua sắm.
1.6.6. Lãi suất cho vay
- Theo mức lãi suất do Tổng giám đốc Ngân hàng nơi cho vay công bố từng thời điểm. Mức lãi suất cho vay cụ thể do Giám đốc chi nhánh Ngân hàng nơi cho vay quy định theo nguyên tắc:
+ Không được vượt qua giới hạn trần lãi suất cho vay cao nhất của Tổng giám đốc công bố.
+ Bình quân chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động trên địa bàn đủ bù đắp chi phí quản lý, không lỗ, có tích luỹ hợp lý.
1.6.7. Thủ tục và quy trình cho vay tiêu dùng
* Thủ tục:
Phía khách hàng:
- Hồ sơ pháp lý của khách hàng vay vốn.
- Hợp đồng lao động, xác nhận thu nhập của đơn vị nơi đang công tác.
- Cam kết bảo