Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như ngày nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) thuộc các lĩnh vực khác nhau đặc biệt là lĩnh vực tư nhân đang phát triển một cách nhanh chóng. Ở Việt Nam hiện nay, DNVVN chiếm tới hơn 90% trong tổng số gần 250.000 doanh nghiệp(DN) tư nhân. Lực lượng đông đảo này đã đóng góp tới 26% trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tạo ra khoảng 49% việc làm trong khu vực phi nông nghiệp ở nông thôn và 26% lực lượng lao động trong cả nước.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của chúng vẫn còn gặp phải những khó khăn và thách thức. Khó khăn lớn nhất đó chính là thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thách thức lớn nhất là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Việc phát triển DNVVN đang là vấn đề được Đảng và nhà nước rất coi trọng, được coi là nhiệm vụ trung tâm trong chiến lược phát triền kinh tê – xã hội của cả nước.
Điều đó cho thấy việc đẩy mạnh cho vay đối với các DNVVN hiện nay được coi là một cơ hội của các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Techcombank(TCB) nói riêng; nó phù hợp với xu thế phát triển nền kinh tế, phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước, giúp cho ngân hàng chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý, tăng trưởng tín dụng, đa dạng hóa các danh mục đầu tư cho vay, phân tán rủi ro và nâng cao vị thế cạnh tranh.
Với định hướng phát triển là "Ngân hàng bán lẻ với khách hàng mục tiêu là cá nhân và DNVVN”. Trong thời gian vừa qua, TCB đã có sự gia tăng đáng kể về dư nợ cho vay đối với đối tượng này nhưng nó chưa thực sự tương xứng với tiềm năng cũng như những định hướng mà ngân hàng đã đề ra.
Trước tình hình đó, việc đẩy mạnh cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng TCB là một vấn đề hết sức cần thiết.
Chính vì vậy, sau thời gian thực tập tại phòng Doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng TCB, em đã quyết định chọn đề tài cho chuyên đề thực tập của mình là: “Đẩy mạnh cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng Techcombank”.
Với chuyên đề thực tập này, em mong muốn được có cơ hội để tìm hiểu kỹ hơn về họat động cho vay đối với DNVVN. Đồng thời, thông qua đây, em có đóng góp một số ý kiến nhằm mở rộng cho vay đối với đối tượng khách hàng DNVVN. Em hi vọng sẽ đóng góp được phần nào vào việc thúc đẩy hoạt động cho vay đối với đối tượng khách hàng này. Ngoài lời mở đầu và kết luận thì bản chuyên đề được chia làm 3 chương với nội dung sau:
Chương I: Hoạt động cho vay đối với DNVVN của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng Techcombank.
Chương III: Ý kiến đề xuất nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng Techcombank.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: chuyên đề đi sâu vào việc nghiên cứu hoạt động cho vay của ngân hàng.
- Phạm vi nghiên cứu: hoạt động cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng Techcombank trong giai đoạn 2005-2007.
Phương pháp nghiên cứu: trong quá trình thực hiện chuyên đề, các phương pháp thống kê, điều tra chọn mẫu, tổng hợp, so sánh, phân tích.được sử dụng để làm rõ vấn đề.
Em xin được chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng -Tài chính, đặc biệt là giáo viên hướng dẫn đã giúp đỡ, chỉ bảo em trong thời gian thực tập qua. Đồng thời, em xin chân thành cảm ơn các cán bộ nhân viên tại hội sở chính của ngân hàng Techcombank, đặc biệt là các cán bộ tại phòng Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian em thực tập tại ngân hàng.
66 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đẩy mạnh cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng Techcombank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như ngày nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) thuộc các lĩnh vực khác nhau đặc biệt là lĩnh vực tư nhân đang phát triển một cách nhanh chóng. Ở Việt Nam hiện nay, DNVVN chiếm tới hơn 90% trong tổng số gần 250.000 doanh nghiệp(DN) tư nhân. Lực lượng đông đảo này đã đóng góp tới 26% trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tạo ra khoảng 49% việc làm trong khu vực phi nông nghiệp ở nông thôn và 26% lực lượng lao động trong cả nước.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của chúng vẫn còn gặp phải những khó khăn và thách thức. Khó khăn lớn nhất đó chính là thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thách thức lớn nhất là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Việc phát triển DNVVN đang là vấn đề được Đảng và nhà nước rất coi trọng, được coi là nhiệm vụ trung tâm trong chiến lược phát triền kinh tê – xã hội của cả nước.
Điều đó cho thấy việc đẩy mạnh cho vay đối với các DNVVN hiện nay được coi là một cơ hội của các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Techcombank(TCB) nói riêng; nó phù hợp với xu thế phát triển nền kinh tế, phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước, giúp cho ngân hàng chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý, tăng trưởng tín dụng, đa dạng hóa các danh mục đầu tư cho vay, phân tán rủi ro và nâng cao vị thế cạnh tranh.
Với định hướng phát triển là "Ngân hàng bán lẻ với khách hàng mục tiêu là cá nhân và DNVVN”. Trong thời gian vừa qua, TCB đã có sự gia tăng đáng kể về dư nợ cho vay đối với đối tượng này nhưng nó chưa thực sự tương xứng với tiềm năng cũng như những định hướng mà ngân hàng đã đề ra.
Trước tình hình đó, việc đẩy mạnh cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng TCB là một vấn đề hết sức cần thiết.
Chính vì vậy, sau thời gian thực tập tại phòng Doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng TCB, em đã quyết định chọn đề tài cho chuyên đề thực tập của mình là: “Đẩy mạnh cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng Techcombank”.
Với chuyên đề thực tập này, em mong muốn được có cơ hội để tìm hiểu kỹ hơn về họat động cho vay đối với DNVVN. Đồng thời, thông qua đây, em có đóng góp một số ý kiến nhằm mở rộng cho vay đối với đối tượng khách hàng DNVVN. Em hi vọng sẽ đóng góp được phần nào vào việc thúc đẩy hoạt động cho vay đối với đối tượng khách hàng này. Ngoài lời mở đầu và kết luận thì bản chuyên đề được chia làm 3 chương với nội dung sau:
Chương I: Hoạt động cho vay đối với DNVVN của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng Techcombank.
Chương III: Ý kiến đề xuất nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng Techcombank.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: chuyên đề đi sâu vào việc nghiên cứu hoạt động cho vay của ngân hàng.
- Phạm vi nghiên cứu: hoạt động cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng Techcombank trong giai đoạn 2005-2007.
Phương pháp nghiên cứu: trong quá trình thực hiện chuyên đề, các phương pháp thống kê, điều tra chọn mẫu, tổng hợp, so sánh, phân tích..được sử dụng để làm rõ vấn đề.
Em xin được chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng -Tài chính, đặc biệt là giáo viên hướng dẫn đã giúp đỡ, chỉ bảo em trong thời gian thực tập qua. Đồng thời, em xin chân thành cảm ơn các cán bộ nhân viên tại hội sở chính của ngân hàng Techcombank, đặc biệt là các cán bộ tại phòng Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian em thực tập tại ngân hàng.
CHƯƠNG I
HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Tiêu chí phân loại DNVVN
Nói đến DNVVN là nói đến phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô các doanh nghiệp. Việc phân loại DNVVN phụ thuộc vào loại tiêu thức sử dụng quy định, giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp.Tuy nhiên, không có tiêu thức thống nhất để phân loại DNVVN cho tất cả các nước vì điều kiện kinh tế-xã hội mỗi nước khác nhau và ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tùy theo từng thời kỳ, từng ngành nghề, từng vùng lãnh thổ.
Việc xác định DNVVN của mỗi nước thường được cân nhắc đối với từng giai đọan phát triển kinh tế, tình hình việc làm nói chung của cả nước và tính chất nền kinh tế hiện hành của nước đó. Như vậy, xác định DNVVN không có tính cố định mà có xu hướng thay đổi theo tính chất họat động, mục đích của việc xác định và trình độ phát triển của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, ở các nước vẫn có một số tiêu thức phân loại chung như:
- Số lao động thường xuyên
- Vốn sản xuất
- Doanh thu
- Lợi nhuận
- Giá trị gia tăng..
Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh quy mô theo các yếu tố đầu vào, còn tiêu thức doanh thu, lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh giá quy mô theo hiệu quả đầu ra. Mỗi tiêu thức có những mặt tích cực và ưu thế riêng. Như vậy, để phân loại DNVVN có thể dùng các yếu tố đầu vào hoặc các yếu tố đầu ra của doanh nghiệp hoặc là sự kết hợp của cả hai yếu tố đó.
Để tiện cho việc so sánh quốc tế, một khái niệm về DNVVN dựa trên tiêu thức lao động được sử dụng có thể là thích hợp nhất, bởi vì nó không dễ dàng chịu ảnh hưởng của những khác biệt các quốc gia về mức thu nhập cũng như những thay đổi trong giá trị của đồng tiền nội địa hiện hành qua các thời kỳ khác nhau. Ngoài tiêu thức lao động, tiêu thức tổng vốn đầu tư cũng được nhiều nước sử dụng.
1.1.1.2. Khái niệm về DNVVN theo quy định ở VN
Từ những phân tích khái niệm chung về DNVVN, các tiêu thức và giới hạn tiêu chuẩn các tiêu thức được sử dụng trong phân loại DNVVN trên thế giới kết hợp với điều kiện cụ thể và những đặc điểm riêng biệt về quan điểm phát triển kinh tế nhiều thành phần và các chính sách, quy định phát triển kinh tế của nước ta. Chúng ta có thể nêu lên được rõ khái niệm như sau:
DNVVN ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất- kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao động thỏa mãn các quy định của chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của chính phủ ngày 23/11/2001 thì DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bính hàng năm không quá 300 người. Nghị định quy định đối tượng áp dụng bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước.
- Các hợp tác xã thành lập và họat động theo Luật Hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 của chính phủ về đăng ký kinh doanh.
1.1.2. Vai trò
Xét trên phạm vi toàn cầu hiện nay, tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng và công nghệ. Vì thế, lợi thế của các doanh nghiệp có quy mô lớn bị giảm sút. Trong điều kiện như vậy, sự phát triển của chuyên môn hóa và hợp tác hóa đã không cho phép một doanh nghiệp tự khép kín chu trình sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả mà thay vào đó là các DNVVN là vệ tinh của doanh nghiệp lớn tỏ ra rất thích hợp.
Như vậy trong điều kiện một nền kinh tế phát triển thì các DNVVN cũng không thể tan biến trong các tập đoàn kinh tế lớn mà khả năng hợp tác giữa các doanh nghiệp này trong nền kinh tế càng trở nên chặt chẽ. Vai trò của DNVVN lại càng được thể hiện rõ nét hơn trong điều kiện các nước đang phát triển như Việt Nam. Điều đó được thể hiện trên những nét cơ bản :
Các DNVVN cung cấp một lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ đáng kể cho nền kinh tế.
Các DNVVN của Việt Nam hiện nay chiếm khoảng 90% tổng số hơn 230.000 doanh nghiệp trên toàn quốc. Tỷ trọng GDP cung cấp cho nền kinh tế của các DNVVN có xu hướng ngày càng gia tăng. Nếu năm 1999 tỷ trọng GDP của các DNVVN chỉ chiếm 8,01%, năm 2002 chiếm 9,02%, đến năm 2004 tỷ lệ này khoảng 24-25,5% và năm 2006 tỷ trọng đóng góp khoảng 26% GDP.
DNVVN trong nền kinh tế góp phần tạo việc làm và thu nhập cho người lao động.
Hàng năm nước ta có khoảng hơn 1triệu người đến tuổi lao động nhưng khả năng thu hút lao động của các doanh nghiệp nhà nước lớn ngày càng hạn chế. Thêm vào đó, trong tiến trình đổi mới và cải tạo doanh nghiệp nhà nước đã khiến cho nhiều người lao động bị mất việc. Trong điều kiện như vậy, các DNVVN đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có vai trò quan trọng trong việc thu hút lao động.
Năm 2002, cả nước tạo ra được 1,42 triệu việc làm mới thì thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thu hút được 79,1% tổng số chỗ làm việc.Hàng năm khu vực doanh nghiệp này thu hút hàng chục vạn lao động, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước.Theo số liệu ước tính năm 2006 khu vực DNVVN tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và chiếm từ 25-26% lực lượng lao động trong cả nước.
Tuy nhiên, do khu vực sản xuất nông nghiệp ở nông thôn vẫn chiếm một tỉ trọng lớn trong toàn bộ nền kinh tế nên xét trên tổng thể thì tổng số lao động trong các DNVVN chiếm tỉ trọng chưa cao trong tổng số lao động xã hội hiện nay.
Các DNVVN thu hút vốn đầu tư trong nền kinh tế.
Trong năm 2002, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã có 7.600 doanh nghiệp được thành lập mới vơi số vốn đăng ký trên 12.550 tỷ đồng, tăng 11% về số lượng doanh nghiệp và 16% về số vốn so với năm 2001, trong đó doanh nghiệp tư nhân là 1.760 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là 915 tỷ đồng; 5.200 công ty trách nhiệm hữu hạn và vốn đăng ký trên 7.600 tỷ đồng; 604 công ty cổ phần với số vốn đăng ký trên 4.000 tỷ đồng. Tình hình trên cho thấy, DNVVN đã thu hút được khá nhiều khoản tiết kiệm trong dân cư. Chỉ tính riêng năm 2002, đầu tư khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 28,8% tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội;
Tính đến thời điểm 31 tháng12 năm 2004 số doanh nghiệp thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế là 91.755 doanh nghiệp, trong đó, nếu xét tiêu chí lao động thì có 88.233 DNVVN, nếu xét tiêu chí vốn thì có 79.420 doanh nghiệp.
Tính đến tháng 6/2005 cả nước đã có trên 125 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký hơn 240 nghìn tỷ đồng, đưa tổng số doanh nghiệp trong cả nước lên gần 190 với số vốn đăng ký trên 398nghìn tỷ đồng. Riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm tới 52% số doanh nghiệp thành lập mới với 50% tổng số vốn đăng ký so với cả nước.
Hoạt động của các DNVVN góp phần làm cho nền kinh tế năng động, đạt hiệu quả kinh tế cao.
Với quy mô vốn và lao động không lớn, các DNVVN dễ dàng được thành lập, chuyển đổi mặt hàng sản xuất kinh doanh. Điều đó cho thấy, các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hóa và cung cấp hàng hóa, dịch vụ bổ sung cho các doanh nghiệp lớn, là những vệ tinh, những xí nghiệp gia công cho những doanh nghiệp lớn cùng hệ thống đồng thời là mạng lưới tiêu thụ hàng hóa cho doanh nghiệp lớn. Hiện nay DNVVN chiếm khoảng 31% tổng sản lượng công nghiệp hàng năm, 78%doanh số bán lẻ trong thương nghiệp, 64% khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hóa.
Các DNVVN đáp ứng tích cực, kịp thời nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú và đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được.
Các DNVVN có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng.
Phát triển các DNVVN sẽ giúp các địa phương khai thác các thế mạnh về đất đai, tài nguyên, lao động trong mọi lĩnh vực phục vụ phát triển kinh tế địa phương. Đó cũng là lý do cơ bản để Đảng và nhà nước ta đưa ra chính sách hỗ trợ phát triển các DNVVNcũng như kinh tế trang trại và phát triển các ngành nghề truyền thống ở các vùng nông thôn nước ta.
Các DNVVN tạo được mối liên kết chặt chẽ với các tổng công ty nhà nước, các tập đoàn xuyên quốc gia…
Mặc dù trong thời gian qua, mối quan hệ này mới chỉ được xác lập bước đầu qua việc cung ứng nguyên vật liệu, hợp đồng phụ và thành lập mạng lưới vệ tinh phân phối sản phẩm, song đây là một hướng phát triển mới hết sức quan trọng để thúc đẩy nhanh sự phát triển của các DNVVN nói riêng và sự phát triển chung của nền kinh tế.
Như vậy, từ việc khẳng định vị trí và vai trò của DNVVN thì ta thầy việc phát triển DNVVN ở nước ta là một trong những chiến lược quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt trong quá trình hội nhập hiện nay việc hỗ trợ tín dụng cho các DNVVN là điều rất cấp bách.
1.1.3. Lợi thế và khó khăn của DNVVN
1.1.3.1. Lợi thế
DNVVN có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thỏa mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hóa, khuynh hướng sử dụng nhiều lao động với trình độ kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là sự mềm mại và nhanh chóng thích nghi với nhu cầu và thay đổi của nền kinh tế thị trường, DNVVN có thể bước vào các thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của các DN lớn, và sẵn sàng phục vụ những nơi xa xôi nhất hoặc các khoảng trống vừa và nhỏ của thị trường vì markerting khối lượng lớn thường là mối quan tâm của các doanh nghiệp lớn. DNVVN là loại hình sản xuất lấy quyền sở hữu phân tán thay cho địa điểm sản xuất tập trung, tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ, do vậy nó có nhiều điểm mạnh. Nó được thể hiện cụ thể như sau:
Dễ dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trường
DNVVN chỉ cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể khởi sự doanh nghiệp. Vòng quay sản phẩm nhanh do đó có thể sử dụng vốn tự có, hoặc vay bạn bè, người thân dễ dàng, tổ chức quản lý gọn nhẹ dễ quyết định, khi nhu cầu thị trường thay đổi hoặc doanh nghiệp khó khăn thì dễ dàng thay đổi tình thế, nội bộ dễ thống nhất.
Dễ phát huy bản chất hợp tác
DNVVN thường chỉ tiến hành một hoặc một vài công đoạn trong quá trình sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh, mà các công đoạn sản xuất phải kết hợp với nhau để hoàn thành một sản phẩm hoàn chỉnh đưa ra tiêu thụ trên thị trường, do đó các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện bản thân mình và tiến hành hợp tác sản xuất nếu không sẽ bị đào thải.
Thu hút nhiều lao động, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp
Các DNVVN do có nguồn vốn ít nên đầu tư vào các tài sản cố định cũng ít, họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn, đặc biệt là nước có lược lượng lao động dồi dào và giá lao động thấp như nước ta, để tiến hành sản xuất kinh doanh phục vụ dân sinh và thường họ đạt được hiệu quả kinh tế- xã hội cao.
Không có hặc ít có xung đột giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Do quy mô vừa và nhỏ nên sự ngăn cách giữa người sử dụng lao động và người lao động không lớn và bản thân người chủ- người sử dụng lao động luôn sát với công việc của người lao động do vậy nếu có xung đột xảy ra cũng có thể dễ dàng giải quyết.
Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh.
Các DNVVN thường không có tình trạng độc quyền, họ giễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất để phát huy mọi tiềm lực.
Có thể phát huy được tiềm lực thị trường trong nước
Sự phát triển DNVVN ở giai đoạn ban đầu cần phương thức tốt để sản xuất thay thế nhập khẩu. Các nước đang phát triển như nước ta chỉ cần lựa chọn một mặt hàng để sản xuất thay thế nhập khẩu với mức chi phí và vốn đầu tư thấp, kỹ thuật không phức tạp, sản phẩm phù hợp với sức mua của người dân, từ đó nâng cao năng lực sản xuất và sức mua của thị trường.
Dễ dàng tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng
DNVVN có thể phát triển khắp mọi nơi, mọi vùng của đất nước, lấp vào khoảng trống và thiếu vắng của doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng, đây là một chiến lược kinh tế-xã hội quan trọng của đất nước.
Có thể nhanh chóng giảm bớt nạn thất nghiệp
DNVVN lấy mục tiêu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân là chủ yếu, do vốn đầu tư thấp và thường thu hút nhiều lao động cho nên trong thời gian ngắn tạo được nhiều việc làm, giải quyết được tình trạng thất nghiệp ở từng địa phương, nâng cao giá nhân công, có lợi cho nhân dân.
DNVVN là nơi đào luyện các nhà doanh nghiệp và là cơ sở kinh tế ban đầu để phát triển thành doanh nghiệp lớn.
Qua thực tế hoạt động sản xuất- kinh doanh, một mạng lưới DNVVN khắp trên mọi miền của đất nước đã đào tạo, sàng lọc nên các nhà doanh nghiệp, có thể nói đây là nơi đào tạo hữu hiệu nhất. Mặt khác quá trình phát triển DNVVN cũng là quá trình tích tụ vốn, tìm kiếm mạng lưới thị trường.. để phát triển doanh nghiệp lớn. Hầu hết các doanh nghiệp lớn ở các nước phát triển đều trải qua quy mô vừa và nhsỏ trừ một số doanh nghiệp lớn của nhà nước.
1.1.3.2. Khó khăn
Khó khăn chung
Nhìn chung, các DNVVN ở Việt Nam hiện nay đều gặp phải một số khó khăn sau:
¬ Hệ thống đăng ký kinh doanh chưa thống nhất từ trung ương đến cơ sở, chỉ mới thành lập được phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh thuộc sở kế hoạch và đầu tư. Vì vậy việc quản lý nội dung kê khai trong giấy chứng nhận kinh doanh và việc kiểm tra, giám sát các hoạt động của doanh nghiệp còn hạn chế, chưa sớm được phát hiện những sai phạm của doanh nghiệp trong quản lý kinh doanh và vì vậy việc xử lý bị chậm.
¬ Phần lớn DNVVN có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, thiếu điều kiện đầu tư mở rộng sản xuất, thuê chuyên gia có trình độ. Mặc dù đã có nỗ lực từ phía chính quyền địa phương xong vẫn có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần(doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) trong các lĩnh vực như đất đai, mặt bằng sản xuất, vay vốn tín dụng dẫn đến tình trạng DNVVN thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh, thiếu vốn đầu tư cho sản xuất, đổi mới công nghệ.
¬ Thiếu sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp lớn với các DNVVN dẫn đến chất lượng, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh thấp của các doanh nghiệp.
¬ Phần lớn cán bộ quả lý trong các doanh nghiệp khi thành lập doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh dựa trên kinh nghiệm là chính, chưa được đào tạo qua trường lớp căn bản nên có nhiều hạn chế trong công tác quản lý kinh tế cũng như ảnh hưởng đến việc thực hiện quy định của pháp luật trong quá trình họat động và kinh doanh.
¬ Trình độ tay nghề của người lao động trong doanh nghiệp chưa được quan tâm đào tạo thường xuyên, phần lớn người lao động được truyền dạy nghề thông qua gia đình hoặc các kỹ thuật viên của doanh nghiệp, do đó tính năng động và sáng tạo trong việc phát huy sáng kiến cải tiến mẫu mã hàng hóa còn chưa cao.
Những khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng
¬ Các DNVVN lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính trước hết do các DNVVN thiếu tài sản thế chấp ngân hàng trong khi đó mức cho vay dường như vẫn bị hạn chế. Do vậy, các DNVVN hoạt động độc lập có kế hoạch mở rộng sản xuẩt kinh doanh thì họ lại thiếu vốn để đưa các kế hoạch đó vào hiện thực. Hơn nữa hầu hết các khoản vay đều là ngắn hạn với lãi suất cao nên các DNVVN vẫn khó khăn khi tìm được nguồn vốn trung và dài hạn. Bên cạnh đó, hiện nay chưa có đủ các quy định pháp lý đảm bảo cho các DNVVN có thể tiếp cận thường xuyên, nhằm tiến tới khả năng vay vốn từ các tổ chức tài chính bên ngoài một cách rộng rãi và ổn định hơn.
¬ Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ phải trả so với vốn tự có cao là đặc trưng chung của hầu hết các DNVVN ở Việt Nam. Chính điều này là nguyên nhân chính làm cho các DN khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng.
¬ Khó khăn tiếp theo cũng bắt nguồn từ nguồn vốn hạn hẹp của các DNVVN nên các DNVVN không có điều kiện đầu tư đổi mới trang thiết bị, nâng cấp công nghệ sản xuất để mở rộng năng lực sản xuất. Do đó, năng suất lao động nói chung còn thấp, chất lượng sản phẩm nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu thị trường.
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm về hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay là họat động kinh doanh chủ chốt của ngân hàng thương mại(NHTM) để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có tiền lãi thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí rủi ro đầu tư.
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại còn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động cho vay có chất lượng, hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo ra sự ổn định lưu thông tiền tệ.
Hoạt động cho vay của NHTM được định nghĩa: “ là việ