Chuyên đề Định Tuyến Trong Mạng GMPLS

Hiện nay để đáp ứng được nhu cầu băng thông cho các ứng dụng dịch vụ thì mạng truyền tải chủ yếu sẽ là các hệ thống truyền dẫn trên sợi quang. Sự đa dạng và phức tạp trong quản lý các phần tử mạng tại các phân lớp mạng khác nhau là nhân tố cơ bản thuc đẩy việc nghiên cứu giao thức GMPLS để thống nhất quản lý giữa các thực thể mạng không chỉ ở phương thức chuyển mạch gói mà trong lĩnh vực chuyển mạch thời gian, không gian quản lý đồng thời mở rộng chức năng hỗ trợ giao thức IP để điều khiển thiết lập hoặc giải phóng các đường chuyển mạch nhãn LSP cho mạng hỗn hợp bao gồm cả chuyển mạch gói, chuyển mạch kênh, mạng quang. Trong các mạng viễn thông, để việc truyền tải được ổn định và hiệu quả thì định tuyến là một trong những vấn đề mấu chốt. Từ những lý do trên, trong chuyên đề Thông Tin Quang chúng em đã chọn chủ đề “Định Tuyến Trong Mạng GMPLS”. Chuyên đề gồm các nội dung chính như sau: Chương I : Tổng quát về GMPLS Chương II: Một số vấn đề của mạng GMPLS Chương III: Định tuyến trong mạng GMPLS Sau khi hoàn thành chuyên đề này, chúng em sẽ có những hiểu biết nhất định về mạng chuyển mạch nhãn đa giao thức tổng quát. Từ đó làm tiền đề để tìm hiểu các công nghệ mới. Thay mặt nhóm em xin chân thành cảm ơn thầy Hoàng Văn Võ đã tận tình hướng dẫn chúng em lựa chọn và hoàn thành đề tài này.

doc33 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1967 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Định Tuyến Trong Mạng GMPLS, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 1.1: Cấu trúc ngăn giao thức GMPLS 9 Hình 2.1: Cơ chế chuyển tiếp kế cận 15 Hình 2.2: Cấu hình mạng 16 Hình 2.3: Quá trình thực hiện quản lý hư hỏng trong mạng GMPLS 17 Hình 2.4: Cơ chế phục hồi hỗ trợ bởi mạng GMPLS 18 Hình 3.1: Các thiết bị cho DBR framework cơ sở 24 Hình 3.2: Nguyên lý định tuyến trên cơ sở ràng buộc 32 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Chức năng thực hiện trong GMPLS 7 Bảng 2.1:Các tiếp cận các vấn đề cần giải quyết trong hệ thống quản lý điều khiển GMPLS 11 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ABR Area Boundary Router Bộ định tuyến vùng biên ATM Asynchronous Transfer mode Kiểu truyền tải đồng bộ ASBR AS Boundary Router Bộ định tuyến biên AS BGP Border Gateway Protocol Giao thức gateway biên BDR Backup Designated Router Bộ định tuyến được đề cử dự phòng CIDR Classless Internet domain Routing Định tuyến tên miền không phân lớp CBR Constraint Based Routing Định tuyến dựa trên cơ sở ràng buộc DWDM Dense Wave Division Multiplexing Ghép kênh phân chia theo bước sóng chặt FTP File Transfer Protocol Giao thức truyền file GMPLS Generalized Multiprotocol Labed Switching Chuyển mạch nhãn đa giao thức tổng quát ICMP Internet Control Message Protocol Giao thức bản tin điều khiển liên mạng IETF Internet Engineering Task Force Nhóm đặc trách kỹ thuật Internet IGMP Internet Group Management Protocol Giao thức quản lý nhóm liên mạng IP Internet Protocol Giao thức Internet IS-IS Intermediate System to Intermediate System Hệ thống trung gian đến hệ thống trung gian FSC Frame Check Sequence Trường kiểm tra khung LSP Lable Switched Path Đường chuyển mạch nhãn LAN Local Vùng Network Mạng nội vùng LMP Link Management Protocol Giao thức quản lý kênh MPLS Multi Protocol Label Switching Chuyển mạch nhãn đa giao thức MOSPF Multicast OSPF Đa phương OSPF OSPF Open Shortest Path First Giao thức ưu tiên đường đi ngắn nhất OSI Open System Interconnection Kết nối các hệ thống mở OXC Optical Cross-connector Bộ đấu nối chéo quang RIP Routing Information Protocol Giao thức thông tin định tuyến LSR Lable Switching Router Bộ định tuyến chuyển mạch nhãn QoS Quality of Service Chất lượng dịch vụ RARP Reverse Address Resolution Protocol Giao thức phân giải địa chỉ ngược RSVP Resource Reservation Setup Protocol Giao thức thiết lập và lưu trữ tài nguyên mạng SPF Shortest Path First Giao thức ưu tiên đường đầu tiên ngắn nhất TE Traffic Engineering Kỹ thuật lưu lượng TCP Transmission Control Protocol Giao thức điều khiển truyền dẫn WDM Wave Division Multiplexing Ghép kênh phân chia theo bước sóng. SDH Synchronous Digital Hierrachy Hệ thống phân cấp đồng bộ LỜI NÓI ĐẦU Hiện nay để đáp ứng được nhu cầu băng thông cho các ứng dụng dịch vụ thì mạng truyền tải chủ yếu sẽ là các hệ thống truyền dẫn trên sợi quang. Sự đa dạng và phức tạp trong quản lý các phần tử mạng tại các phân lớp mạng khác nhau là nhân tố cơ bản thuc đẩy việc nghiên cứu giao thức GMPLS để thống nhất quản lý giữa các thực thể mạng không chỉ ở phương thức chuyển mạch gói mà trong lĩnh vực chuyển mạch thời gian, không gian quản lý đồng thời mở rộng chức năng hỗ trợ giao thức IP để điều khiển thiết lập hoặc giải phóng các đường chuyển mạch nhãn LSP cho mạng hỗn hợp bao gồm cả chuyển mạch gói, chuyển mạch kênh, mạng quang. Trong các mạng viễn thông, để việc truyền tải được ổn định và hiệu quả thì định tuyến là một trong những vấn đề mấu chốt. Từ những lý do trên, trong chuyên đề Thông Tin Quang chúng em đã chọn chủ đề “Định Tuyến Trong Mạng GMPLS”. Chuyên đề gồm các nội dung chính như sau: Chương I : Tổng quát về GMPLS Chương II: Một số vấn đề của mạng GMPLS Chương III: Định tuyến trong mạng GMPLS Sau khi hoàn thành chuyên đề này, chúng em sẽ có những hiểu biết nhất định về mạng chuyển mạch nhãn đa giao thức tổng quát. Từ đó làm tiền đề để tìm hiểu các công nghệ mới. Thay mặt nhóm em xin chân thành cảm ơn thầy Hoàng Văn Võ đã tận tình hướng dẫn chúng em lựa chọn và hoàn thành đề tài này. Hà Nội ngày 20 tháng 9 năm 2011 Sinh viên Bùi Tuấn Anh Trần Tuấn Dũng Nguyễn Thị Hoa Đỗ Thị Minh Tâm CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ GMPLS 1. 1 Giới thiệu GMPLS Công nghệ chuyển mạch nhãn đa giao thức tổng quát GMPLS (Generalized Multiprotocol Labed Switching) là bước phát triển theo của công nghệ chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS (Multiprotocol Labed Switching). GMPLS thực chất là sự mở rộng chức năng điều khiển của mạng MPLS, nó cho phép kiến tạo mặt phẳng điểu khiển quản lý thống nhất không chỉ ở lớp mạng mà còn thực hiện đối với các lớp ứng dụng, truyền dẫn và lớp vật lý. Việc tạo nên một mặt phẳng điều khiển thống nhất đối với các lớp mạng hứa hẹn khả năng tạo ra một mạng đơn giản về điều hành và quản lý, cho phép cung cấp các kết nối từ đầu cuối tới đầu cuối, quản lý tài nguyên mạng một cách hoàn toàn tự động và cung cấp các mức chất lượng dịch vụ (QoS) khác nhau các ứng dụng trên mạng. Xu hướng phát triển mạnh mẽ việc xây dựng các hệ thống truyền tải quang trong cơ sở hạ tầng mạng viễn thông quốc tế nói chung, của quốc gia và các nhà cung cấp dịch vụ mạng nói riêng đã phần nào đáp ứng nhu cầu rất lớn về băng thông truyền tải cho các ứng dụng mới trên mạng, chẳng hạn như ứng dụng mạng lưu trữ, thuê băng thông, cập nhật dữ liệu trực truyến trong cơ sở hạ tầng mạng truyền tải đa dịch vụ. Hiện nay người ta cho rằng để đáp ứng được nhu cầu băng thông cho các ứng dụng dịch vụ thì mạng truyền tải chủ yếu sẽ là các hệ thống truyền dẫn trên sợi quang với các thiết bị ghép tách luồng ADM, thiết bị ghép bước sóng quang WDM, thiết bị đấu chéo luồng quang OXC... Sự đa dạng và phức tạp trong quản lý các phần tử mạng tại các phân lớp mạng khác nhau là nhân tố cơ bản thuc đẩy việc nghiên cứu cải tiến bộ giao thức MPLS thành GMPLS không ngoài mục đích thống nhất quản lý giữa các thực thể mạng không chỉ ở phương thức chuyển mạch gói mà MPLS đã thực hiện mà còn cả trong lĩnh vực chuyển mạch thời gian, không gian quản lý. GMPLS còn mở rộng chức năng hỗ trợ giao thức IP để điều khiển thiết lập hoặc giải phóng các đường chuyển mạch nhãn LSP cho mạng hỗn hợp bao gồm cả chuyển mạch gói, chuyển mạch kênh, mạng quang. Một trong những yếu tố kinh tế nổi bật của GMPLS đó là nó có chức năng tự động quản lý tài nguyên mạng và cung ứng kết nối truyền tải lưu lượng khách hàng từ đầu cuối tới đầu cuối. Việc cung ứng kết nối cho khách hàng theo kiểu truyền thống như đối với mạng truyền tải Ring SDH có đặc điểm là mang tính nhân công, thời gian đáp ứng dài và chi phí kết nối cao. Để thiết lập được kết nối từ đầu cuối đến đầu cuối theo phương thức nhân công nói ở trên người ta cần phải xác định các vòng ring SDH nào trong mạng mà đường kết nối đó đi qua, dung lượng còn lại của vòng ring đó còn đủ khả năng phục vụ không, nếu như chưa đủ thi cần phải tìm đường vu hồi qua vòng ring nào khác? Sau khi xác định được đường kết nối người ta phải thông báo cho toàn bộ các nút mạng thuộc các vòng ring để thực hiện các thiết lập luồng hoặc đấu chuyển nhân công trong các vòng ring, công việc này đòi hỏi rất nhiều nhân công và tốn rất nhiều thời gian trao đổi thông tin nghiệp vụ. Công nghệ GMPLS cho phép các nút mạng tự động cung cấp các kết nối theo yêu cầu do vậy giá thành chi phí cung cấp kết nối cũng như giá thành quản lý bảo dưỡng giảm đi rất nhiều, thời gian cung ứng kết nối cung cấp dịch vụ giảm đi rất nhiều so với phương pháp truyền thống (tính theo giờ hoặc phút so với tuần hoặc tháng của phương thức nhân công truyền thống). Sự phát triển MPLS hướng tới GMPLS. Trong những năm trở lại đây, tổ chức IETF đã tập trung hướng phát triển các giao thức MPLS hỗ trợ các phần tử mạng chuyển mạch hoạt động bởi các phương thức khác nhau như theo thời gian, theo bước sóng (DWDM), không gian (OXC) thành các chuẩn của giao thức GMPLS. Nó cho phép mạng GMPLS xác định và cung ứng kết nối trên mạng một cách tối ưu theo yêu cầu lưu lượng của người sử dụng và có khả năng truyền tải thông suốt trên mạng IP và sau đó là truyền xuống các tiện ích truyền dẫn quang ở lớp dưới như là SDH, bước sóng trong hệ thống DWDM trên một sợi quang cụ thể nào đó. Bảng dưới đây cho ta một cái nhìn tổng quan nhất về các chức năng thực hiện trong GMPLS. Miền chuyển mạch Kiểu lưu lượng Lược đồ chuyển tiếp Thiết bị mạng Thuật ngữ Gói, tế bào IP, ATM Nhãn hay phần tiêu đề, kết nối kênh ảo (VCC) Bộ định tuyến IP, chuyển mạch ATM Khả năng chuyển mạch gói (PSC) Thời gian TDM/SONET Khe thời gian lặp theo chu kỳ Hệ thống đấu chéo số (DCS), ADM Khả năng ghép kênh TDM Chiều dài bước sóng Trong suốt Lambda DWDM Khả năng chuyển mạch Lambda LSC Không gian vật lý Trong suốt Sợi quang, cáp đồng OXC Khả năng chuyển mạch quang FSC Bảng 1.1: Chức năng thực hiện trong GMPLS Một trong những điểm hấp dẫn nhất của GMPLS đó là sự thống nhất về giao thức điều khiển để thực hiện thiết lập, duy trì và quản lý kỹ thuật lưu lượng theo đường xác định từ điểm đầu đến điểm cuối một cách có hiệu quả. Dòng lưu lượng của người sử dụng bắt đầu từ điểm nguồn có thể được truyền tải qua nhiều phạm vi mạng. Ví dụ, lưu lượng theo nhiều loại hình truy nhập khác nhau của nhiều người sử dụng được tập trung tích hợp tại một nút mạng truy nhập hoặc nút mạng biên và sau đó được truyền tải vào nút mạng đô thị theo công nghệ SDH hoặc công nghệ ATM...Các luồng lưu lượng từ mạng đô thị này này lại được tập trung tích hợp một lần nữa để đưa tới mạng đường trục bằng bước sóng mang lưu lượng, trên hướng truyền ngược lại cũng thực hiện với phương thức tương tự. Như vậy việc thực hiện truyền tải lưu lượng như đã nói ở trên qua rất nhiều các tiện ích truyền tải khác nhau, sử dụng các công nghệ khác nhau, do vậy nếu như thống nhất được về mặt điều khiển, quản lý, xử lý lưu lượng thì sẽ là một ưu điểm tuyệt đối trong việc truyền tải lưu lượng và quản lý sử dụng tài nguyên hiệu quả, cung ứng dịch vụ mạng nhanh chóng. Đồng thời, đó là những mục tiêu thực hiện mà GMPLS hướng tới. 1.2 Các giao thức định tuyến trong GMPLS Sự thể hiện chuyển đổi từ MPLS sang GMPLS đó là các giao thức mở rộng cho chức năng báo hiệu (RSVP–TE, CR– LDP) và chức năng định tuyến (OSPF–TE, IS–IS–TE). Những giao thức mở rộng này là sự bổ sung thêm các chức năng cho các phần tử mạng TDM/SDH và mạng truyền tải quang nói chung. Một giao thức mới đó là giao thức quản lý đường LMP (Liên kết-Management Protocol) đã được xây dựng để thực hiện quản lý và duy trì tình trạng điều khiển cũng như trình trạng truyền tải lưu lượng giữa hai nút kế cận trong mạng GMPLS. LMP là một giao thức thực hiện trên IP, nó bao gồm các chức năng thực hiện RSVP-TE và CR-LDP. Giao thức định tuyến OSPF-TE và IS-IS-TE Là các giao thức tự động xác định cấu hình tô-pô mạng, thông báo tài nguyên khả dụng (ví dụ như băng thông hoặc loại hình bảo vệ...). Các điểm chủ yếu của các giao thức này đó là: thông báo về loại hình bảo vệ đường (1+1, 1:1, không bảo vệ hoặc lưu lượng phụ), thực hiện tìm đường (giữa các nút mạng kế cận) để nâng cao khả năng xác định tuyến thông) mà không cần phải thực hiện các giao thức định tuyến trên cơ sở địa chỉ IP. 1.2.2 Giao thức báo hiệu RSVP–TE, CR–LDP Các giao thức báo hiệu để thực hiện kỹ thuật lưu lượng giữa các LSP. Những chức năng nổi bật của các giao thức báo hiệu này là: chuyển giao lưu lượng bao gồm cả loại hình lưu luợng không phải ở dạng gói, thực hiện báo hiệu hai chiều giữa các LSP để xác định tuyến dự phòng cho trường hợp bảo vệ, thực hiện gán nhãn cho phương thức chuyển mạch nhãn bước sóng – nghĩa là các bước sóng cận kề nhau được chuyển mạch theo cùng một hướng. 1.2.3 Giao thức quản lý đường LMP Thực hiện 2 chức năng chính. Quản lý kênh điều khiển: Đảm bảo việc thực hiện theo cơ chế đàm phán thông qua các tham số đường thông (chẳng hạn như sử dụng phương thức gửi có chu kỳ các bản tin truy vấn thời gian sống của gói tin) để đảm bảo tình trạng của đường thông luôn được theo dõi. Kiểm tra các kết nối trên mạng: nhằm duy trì hoạt động của các kết nối giữa các nút mạng kề cận nhau thông qua các gói tin kiểm tra. Hình 1.1: Cấu trúc ngăn giao thức GMPLS Trong GMPLS, cấu trúc ngăn giao thức cho chức năng định tuyến IS–IS–TE cũng tương tự như đối với chức năng định tuyến OSPF–TE, chỉ có một điểm khác đó là thay lớp định tuyến IP bằng chức lớp định tuyến phi kết nối CLNP (Connectionless Network Protocol) sử dụng để truyền tải thông tin theo giao thức IS–IS-TE. CHƯƠNG II MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA MẠNG GMPLS Trong mạng GMPLS có một số vấn đề cần quan tâm. Việc chuyển tiếp dữ liệu không đơn thuần hạn chế ở chuyển tiếp dữ liệu ở dạng gói mà còn cần phải tìm kiếm các giải pháp đơn giản nhất cho việc sử dụng một khuôn dạng nhãn duy nhất để chuyển tiếp dữ liệu qua các loại thiết bị với công nghệ khác nhau theo phương thức chuyển tiếp theo thời gian, bước sóng hoặc không gian. Không phải loại mạng nào cũng thiết kế các phần tử chuyển tiếp dữ liệu cho phép truy vấn nội dung thông tin, nhãn hoặc mào đầu của dữ liệu thu được. Mạng chuyển mạch gói cho phép các phần tử chuyển tiếp của mạng kiểm tra mào đầu gói hoặc nhãn từ đó đưa ra các quyết định dữ liệu sẽ được chuyển tiếp tới giao diện đầu ra cụ thể. Trong khi đó điều này sẽ không thực hiện đổi với luồng dữ liệu đầu vào là các dữ liệu dạng TDM (cụ thể là các luồng ghép kênh PCM, hoặc là bước sóng). Tính cân đối và phù hợp là một vấn đề quan trọng khi thiết kế những mạng cỡ lớn. Thông thường tài nguyên cần phải quản lý ở trong mạng TDM và mạng quang nói chung là nhiều hơn rất nhiều so với mạng chuyển mạch gói. Ví dụ, số lượng bước sóng cần phải quản lý trong một mạng quang có thể lên tới hàng ngàn và số lượng sợi có thể lên tới hàng trăm. Cấu trúc của của các bộ chuyển mạch quang hoặc điện cũng là phần tử gây ra sự tiêu tốn thời gian xử lý dữ liệu. Ví dụ một thiết bị DSC có khả năng chuyển mạch từ hàng chục tới hàng ngàn cổng cho đường tín hiệu số (DS-x), việc xác định cổng vào cổng ra cho một kết nối cũng tiêu tốn khá nhiều thời gian, điều đó đồng nghĩa với việc gia tăng độ ỳ của phần tử chuyển tiếp, nghĩa là tăng độ trễ truyền tải dữ liệu. Mạng SDH có khả năng rất tốt trong việc thực hiện cơ chế bảo vệ đường truyền tải dữ liệu (50ms). Hệ thống quản lý điều khiển mạng thực hiện trong GMPLS cũng cần phải thực hiện chức năng bảo vệ đường truyền tải tương tự như SDH, có thể theo phương thức cài đặt trước, cơ chế động, cơ chế ưu tiên theo lớp dịch vụ. 2.1 Tính chuyển hướng đa dạng GMPLS được phát triển mở rộng để có khả năng hỗ trợ các phần tử mạng truyền tải thông tin từ đầu cuối tới đầu cuối thông qua nhiều mạng với các công nghệ khác nhau với tốc độ xử lý truyền tải nhanh. Để thực hiện được điều này trong công nghệ GMPLS, người ta chèn thêm thông tin trong các nhãn MPLS. Định dạng mới này của nhãn được gọi là "nhãn tổng quát" (Generalized Label) cho phép các thiết bị thu nhận dữ liệu ở các dạng nguồn khác nhau (như là gói tin trong mạng chuyển mạch gói, các khung ghép kênh dự liệu trong mạng TDM, bước sóng mang dữ liệu trong mạng truyền tải quang...). Một nhãn tổng quát có thể đại diện cho một bước sóng, sợi quang đơn lẻ hoặc một time-slot, ngoài ra nó còn đại diện cho dữ liệu của các nguồn lưu lượng khác đã thực hiện với nhãn MPLS như là VCC trong ATM, phần gắn thêm (shim) trong gói tin IP... Các thông tin sau đây gắn liền với nhãn tổng quát: - Dạng của mã LSP để chỉ thị loại nhãn mang lưu lượng ( ví dụ: gói tin, bước sóng, SDH...) - Loại hình chuyển mạch, chỉ thị cho nút mạng khi nào sẽ thực thi các loại hình chuyển mạch khác nhau: chuyển mạch gói, chuyển mạch kênh, chuyển mạch bước sóng, chuyển mạch sợi quang. Tương tự như MPLS, sự phân bố nhãn được khởi đầu từ việc yêu cầu phân bố nhãn từ đường lên đối với đường xuống của LSR. GMPLS thực hiện bằng cách cho phép đường lên của LSR đề xuất trước giá trị của nhãn cho một LSP và giá trị nhãn này có thể được thay thế bằng giá trị nhãn gửi trả lại từ đường xuống của LSR. 2.2 Tính chuyển tiếp đa dạng GMPLS thực hiện mở rộng tính năng này để các thiết bị GMPLS có thể nhận biết mọi loại mào đầu mà chúng thu được. Trường hợp này GMPLS cho phép mặt phẳng điều khiển và truyền tải có thể tách rời nhau không những về mặt lôgíc mà còn có thể tách rời về vật lý. Ví dụ, thông tin điều khiển đường điều khiển giữa nút mạng có thể truyền theo kênh kết nối Ethernet hoặc qua các tiện ích truyền dẫn khác mà nó không cần quan tâm việc thông tin quản lý giữa hai nút mạng được truyền tải bằng cách nào. Việc lựa chọn tiện ích truyền tải thông tin điều khiển giữa các nút mạng GMPLS là rất có ý nghĩa về mặt kinh tế. Rõ ràng là không nên sử dụng sợi quang riêng biệt để truyền thông tin điều khiển giữa các ADM trong một mạng ring SDH nào đó. Thay vào đó chúng ta có thể tiếp cận giải quyết vấn đề theo một cách khác, một trong những cách đó là sử dụng những byte thông tin mào đàu còn trống trong khung SDH để truyền các thông tin về điều khiển. Với mào đầu trống trong khung STM-1 chúng ta có thể tận dụng được một dung lượng kênh truyền tải 768 kbit/sec để trao đổi thông tin điều khiển giữa các nút mạng. Phương pháp này có rất nhiều ưu điểm và có tính khả thi cao. 2.3 Cấu hình Khi một LSP cần được tạo lập khởi đầu từ phạm vi mạng truy nhập,nó yêu cầu thiết lập một vài LSP khác dọc theo tuyến từ nút đầu tới nút cuối. Các LSP trung gian có thể được tạo lập trong qua các thiết bị TDM hoặc LSC. Các thiết bị này có thể có những đặc điểm riêng khác nhau do vậy chức năng GMPLS cần phải thống nhất được các đặc tính khác nhau đó để tạo lập các LSP từ đầu cuối tới đầu cuối. 2.3.1 Nhãn đề xuất Một đường lên tại nút mạng có thể lựa lựa chọn một nhãn đề xuất với đường xuống của nó. Đường xuống có quyền từ chối các tham số kiến tạo LSP do nhãn đề xuất đưa ra và đề xuất các tham số của mình. Nhãn đề xuất trong trường hợp này còn được sử dụng để tìm đường bên trong từ cửa vào tới cửa ra một cách nhanh chóng. Nhãn đề xuất cho phép các DCS tự định cấu hình của mình bằng nhãn đề nghị (Proposed Label) thay vì chờ nhãn đưa lại từ hướng ngược lại trên đường xuống. Nhãn đề xuất đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các đường dự phòng LSP trong trường hợp có sự hư hỏng tuyến.. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp thiết bị đường xuống từ chối nhãn đề nghị và đưa ra đề nghị riêng của nút về tham số kiến tạo LSP thì thiết bị đường xuống phải định lại cấu hình với nhãn mới. 2.3.2 LSP hai hướng Bảo vệ mạng chống lại những hư hỏng của mạng, chẳng hạn như đứt sợi cáp quang trong mạng quang sẽ cung cấp chức năng tìm sợi quang thay thế trong các cấu cấu trúc mạng cụ thể . Cũng tương tự như vậy, các LSP được thiết lập trong mạng quang cũng cần phải được bảo vệ. Vấn đề này được giải quyết bằng cách thực hiện các LSP hai chiều đơn hướng, mỗi LSP một hướng sẽ là sự phòng cho LSP hướng kia. LSP hai hướng sẽ thực hiện kỹ thuật lưu lượng và cơ chế phục hồi giống nhau trên mỗi hướng. GMPLS thực hiện chức năng kiến tạo các LSP hai hướng thông qua các một tập bản tin giao thức báo hiệu (ví dụ các bản tin RSVP/PATH và RESV). 2.3.3 Tính mở rộng Chức năng chuyển tiếp LSP cận kề (Forwarding Kế cận–LSP (FA–LSP) Chức năng FA-LSP này được thực hiện trên cơ sở các LSP của mạng GMPLS để truyền tải các LSP khác. Một FA-LSP được thực hiện giữa hai nút mạng GMPLS được xem như là một đường kết nối ảo có những đặc tính kỹ thuật lưu lượng riêng biệt và được thông báo cho chức năng OSPF/IS-IS như một đường thông giống như bất kỳ một đường thông vật lý nào. Một FA-LSP có thể được lưu vào trong dữ liệu định tuyến để định tuyến đường. Đồng thời, một FA-LSP có thể được đánh số hoặc không đánh số tùy thuộc vào việc xem FA-LSP đó là một đường thông bình thường hay không. Hình trên mô tả cơ chế hoạt động của một TDM LSP (LSPtdm), nó được xem như là một đường thông kết nối giữa hai thiết bị LSR định tuyến gói trong mạng PSC thay vì đó là một đường thông kết nối vật lý như trong mạng TDM. Hình 2.1: Cơ chế chuyển tiếp kế cận 2.3.4 Cấu hình LSP Cấu trúc mạng (bao gồm các lớp truy nhập, lớp lõi và lớp mạng trục). Giả thiết rằng khi nhu cấu kết nối trên mạng tăng lên, nghĩa là xuất hiện những kết nối dòng lưu lượng từ đầu cuối tới đầu cuối của các d