Nước ta là một nước nông nghiệp, bước vào thời kì phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu: ‘‘Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần, quốc phòng an ninh vững mạnh, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh” .Đảng ta đã nhấn mạnh nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn liền với công nghiệp chế biến các loại sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản. Những nội dung đó trong những năm đầu của thế kỷ XXI vẫn còn là nhiệm vụ to lớn của toàn Đảng và toàn dân.
Hà Tây là một tỉnh có tiềm năng kinh tế lớn, đặc thù của tỉnh chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp, là tỉnh có ngành hàng tiểu thủ công nghiệp và làng nghề phát triển, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong mọi lĩnh vực SXKD đặc biệt là chế biến hàng nông sản phục vụ nhu cầu của bà con nông dân. Bên cạnh đó là các khu vực công nghiệp được hình thành và phát triển theo định hướng phát triển kinh tế của Đảng, nhà nước và mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh 2000-2010.
Để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế của tỉnh theo hướng chuyển đổi tăng kinh tế công nghiệp, dịch vụ, kinh tế du lịch, bên cạnh sự quan tâm của nhiều yếu tố, vấn đề đầu tư vốn cho doanh nghiệp, cá nhân hộ gia đình để phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả là hết sức quan trọng.
Vì vốn có vai trò quyết định đến việc thực thi các giải pháp khác, nhằm đưa nền kinh tế địa phương phát triển một bước mới đẩy nền kinh tế của tỉnh theo mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Mặt khác để tiếp tục đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, du lịch. nhu cầu vốn đầu tư cho doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình là rất to lớn.
Tuy nhiên thực tế ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây, thời gian qua đầu tư tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đã đạt được nhiều thành quả dư nợ tín dụng tăng trưởng đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, đến nay đã có dấu hiệu chững lại, môi trường kinh doanh cạnh tranh khắt khe, quy mô tín dụng khó được mở rộng, ở một số lĩnh vực chất lượng tín dụng có chiều hướng giảm sút, nhu cầu vốn trong nền kinh tế thì lớn, nguồn vốn ngân hàng là đủ đáp ứng, song vốn ngân hàng vẫn chưa thoả mãn được nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, tín dụng nông thôn vẫn còn lỗ hổng lớn cần phải được tiếp cận, thị trường thành thị tuy cạnh tranh lớn xong ở đó tiềm năng còn rất lớn chưa khai thác hết.
Mặt khác trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng có vai trò to lớn trong việc cung ứng vốn, phục vụ cho đầu tư phát triển, thêm vào đó việc cung ứng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào công nghệ ngân hàng đã giúp cho ngân hàng cung ứng vốn cho khách hàng với nhiều phương thức khác nhau, hiện nay các ngân hàng thương mại Việt Nam mới đang thực hiện hoạt động cho vay thông qua những phương thức truyền thống, không đáp ứng được đầy đủ những nhu cầu về vốn cho khách hàng, đã đến lúc NHTM Việt Nam cần phải đa dạng hoá các phương thức cho vay của mình, đặt vấn đề chất lượng các khoản vay lên hàng đầu để có thể đáp ứng ngày càng tốt hơn sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Việc đa dạng hoá các phương thức cho vay trước hết xuất phát từ vấn đề bức xúc của khách hàng vay vốn sau đó tạo ra một lợi thế cạnh tranh cho chính ngân hàng trong điều kiện hiện nay ngoài ra việc đa dạng hoá các phương thức cho vay cũng góp phần cho ngân hàng có cơ hội được mở rộng hoạt động của mình hơn nữa, hội nhập với nền tài chính khu vực và quốc tế. Trong khuôn khổ khoá luận tôi xin mạnh dạn lựa chọn đề tài: Giải pháp đa dạng hoá các phương thức cho vay tại NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây.
79 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp đa dạng hoá các phương thức cho vay tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Nước ta là một nước nông nghiệp, bước vào thời kì phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu: ‘‘Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần, quốc phòng an ninh vững mạnh, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh” ...Đảng ta đã nhấn mạnh nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn liền với công nghiệp chế biến các loại sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản. Những nội dung đó trong những năm đầu của thế kỷ XXI vẫn còn là nhiệm vụ to lớn của toàn Đảng và toàn dân.
Hà Tây là một tỉnh có tiềm năng kinh tế lớn, đặc thù của tỉnh chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp, là tỉnh có ngành hàng tiểu thủ công nghiệp và làng nghề phát triển, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong mọi lĩnh vực SXKD đặc biệt là chế biến hàng nông sản phục vụ nhu cầu của bà con nông dân. Bên cạnh đó là các khu vực công nghiệp được hình thành và phát triển theo định hướng phát triển kinh tế của Đảng, nhà nước và mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh 2000-2010.
Để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế của tỉnh theo hướng chuyển đổi tăng kinh tế công nghiệp, dịch vụ, kinh tế du lịch, bên cạnh sự quan tâm của nhiều yếu tố, vấn đề đầu tư vốn cho doanh nghiệp, cá nhân hộ gia đình để phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả là hết sức quan trọng.
Vì vốn có vai trò quyết định đến việc thực thi các giải pháp khác, nhằm đưa nền kinh tế địa phương phát triển một bước mới đẩy nền kinh tế của tỉnh theo mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Mặt khác để tiếp tục đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, du lịch.... nhu cầu vốn đầu tư cho doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình là rất to lớn.
Tuy nhiên thực tế ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây, thời gian qua đầu tư tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đã đạt được nhiều thành quả dư nợ tín dụng tăng trưởng đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, đến nay đã có dấu hiệu chững lại, môi trường kinh doanh cạnh tranh khắt khe, quy mô tín dụng khó được mở rộng, ở một số lĩnh vực chất lượng tín dụng có chiều hướng giảm sút, nhu cầu vốn trong nền kinh tế thì lớn, nguồn vốn ngân hàng là đủ đáp ứng, song vốn ngân hàng vẫn chưa thoả mãn được nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, tín dụng nông thôn vẫn còn lỗ hổng lớn cần phải được tiếp cận, thị trường thành thị tuy cạnh tranh lớn xong ở đó tiềm năng còn rất lớn chưa khai thác hết.
Mặt khác trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng có vai trò to lớn trong việc cung ứng vốn, phục vụ cho đầu tư phát triển, thêm vào đó việc cung ứng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào công nghệ ngân hàng đã giúp cho ngân hàng cung ứng vốn cho khách hàng với nhiều phương thức khác nhau, hiện nay các ngân hàng thương mại Việt Nam mới đang thực hiện hoạt động cho vay thông qua những phương thức truyền thống, không đáp ứng được đầy đủ những nhu cầu về vốn cho khách hàng, đã đến lúc NHTM Việt Nam cần phải đa dạng hoá các phương thức cho vay của mình, đặt vấn đề chất lượng các khoản vay lên hàng đầu để có thể đáp ứng ngày càng tốt hơn sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Việc đa dạng hoá các phương thức cho vay trước hết xuất phát từ vấn đề bức xúc của khách hàng vay vốn sau đó tạo ra một lợi thế cạnh tranh cho chính ngân hàng trong điều kiện hiện nay ngoài ra việc đa dạng hoá các phương thức cho vay cũng góp phần cho ngân hàng có cơ hội được mở rộng hoạt động của mình hơn nữa, hội nhập với nền tài chính khu vực và quốc tế. Trong khuôn khổ khoá luận tôi xin mạnh dạn lựa chọn đề tài: Giải pháp đa dạng hoá các phương thức cho vay tại NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây.
2- Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, như đã đề cập ở phần cấp thiết của đề tài, tác giả khoá luận tập trung nhiên cứu: Thực trạng nhằm tìm ra những giải pháp về phương thức cho vay khả thi nhất để mở rộng tín dụng, tăng lợi nhuận, phân tán và giảm thiểu rủi ro, mặt khác do tác dụng của việc áp dụng đa dạng hoá các phương thức cho vay có tác động đẩy mạnh nghiệp vụ huy động nguồn vốn, phát triển dịch vụ ngân hàng, tăng sức cạnh tranh cho ngân hàng nông nghiệp, phục vụ tốt mục tiêu định hướng phát triển kinh tế của tỉnh Hà Tây.
3- Đối tượng phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Đối tượng nghiên cứu là hoạt động tín dụng và các phương thức cho vay của NHTM nói chung và NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây nói riêng.
- Phạm vi nghiên cứu của khoá luận: Được giới thiệu một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng và các phương thức cho vay được áp dụng ở một ngân hàng thương mại cơ sở đó là NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây từ đó đề ra giải pháp cơ bản nhằm đa dạng hoá các phương thức cho vay tại ngân hàng này.
4- Phương pháp nghiên cứu:
Khoá luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, xem xét sự vật hiện tượng trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng, thường xuyên có mối liên hệ qua lại tác động lẫn nhau, sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp số liệu thực tế, vận dụng lý luận vào thực tiễn để giải thích nguyên nhân và xây dựng các phương pháp thích hợp, mặt khác sử dụng phương pháp phân tích thị trường: căn cứ cơ sở nội dung định hướng cũng như nhu cầuvốn cho DN, cá nhân, hộ gia đình kết hợp với căn cứ thể lệ chế độ của ngành để xây dựng giải pháp nhằm đa dạng hoá các phương thức cho vay tại NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây .
5- Kết cấu đề tài:
Ngoài lời nói đầu kết cấu khoá luận gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động cho vay và phương thức cho vay của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng các phương thức cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị đa dạng hoá các phương thức cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây.
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ PHƯƠNG THỨC CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế
1.1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng:
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người cho vay (ngân hàng thương mại) sang người đi vay (khách hàng) và sau thời gian nhất định theo thoả thuận bên đi vay hoàn trả cả gốc và lãi cho bên cho vay.
Hoạt động tín dụng là một phần của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Hoạt động này ra đời từ buổi bình minh của ngân hàng và trở thành một trong hai nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng. Đây cũng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng bởi vì thu nhập từ các khoản cho vay chiếm phần lớn thu nhập của ngân hàng, lượng tiền cho vay cũng tăng lên đáng kể, các hình thức cho vay cũng vô cùng phong phú.
1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế
Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội
Thứ nhất: Vai trò quan trọng nhất của tín dụng là cung ứng vốn một cách kịp thời cho các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Nhờ đó mà các chủ thể này có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
Thứ hai: Một hệ thống các hình thức tín dụng đa dạng không những thoả mãn nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm cho sự tiếp cận các nguồn vốn tín dụng trở nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt các chi phí nguồn vốn cho các chủ thể kinh doanh.
Thứ ba: Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả các hình thức tín dụng sẽ tạo sự chủ động cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh khi nó không phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản thân. Điều này giúp cho các nhà sản xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng lực sản xuất của xã hội.
Thứ tư: Các nguồn vốn tín dụng được cung ứng luôn kèm theo các điều kiện tín dụng để hạn chế rủi ro đạo đức và rủi ro lựa chọn đối nghịch buộc những người đi vay phải quan tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo mối quan hệ lâu dài với các tổ chức cung ứng tín dụng.
Tín dụng là kênh chuyển tải tác động của Nhà nước đến các mục tiêu vĩ mô
Các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế bao gồm ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Việc đảm bảo đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô hài hoà phụ thuộc một phần vào khối lượng và cơ cấu tín dụng xét cả về mặt thời hạn cũng như đối tượng tín dụng. Vấn đề này, đến lượt nó, lại phụ thuộc vào các điều kiện tín dụng như lãi suất, điều kiện vay, yêu cầu thế chấp, bảo lãnh và chủ trương mở rộng tín dụng được quy định trong chính sách tín dụng từng thời kỳ. Như vậy thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện tín dụng, Nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động của nguồn vốn tín dụng, nhờ đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế cả về quy mô cũng như kết cấu. Sự thay đổi của tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ tác động ngược lại tới tổng cung và các điều kiện sản xuất khác. Điểm cân bằng cuối cùng giữa tổng cung và tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ cho phép đạt được các mục tiêu vĩ mô cấn thiết.
Tín dụng là công cụ thực hiện các chính sách xã hội
Các chính sách xã hội, về mặt bản chất được đáp ứng bằng nguồn tài trợ không hoàn lại từ Ngân sách Nhà nước. Song phương thức tài trợ không hoàn lại thường bị hạn chế về quy mô và thiếu hiệu quả. Để khắc phục hạn chế này, phương thức tài trợ không hoàn lại có xu hương bị thay thế bởi phương thức tài trợ có hoàn lại của tín dụng nhằm duy trì nguồn cung cấp tài chính và có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng chính sách. Chẳng hạn việc tài trợ vốn cho người nghèo ngày nay được thực hiện phổ biến bằng tín dụng đối với người nghèo với lãi suất thấp. Thông qua phương thức tài trợ này, các mục tiêu chính sách được đáp ứng một cách chủ động và hiệu quả hơn. Khi các đối tượng chính sách buộc phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo hoàn trả đúng thời hạn thì kỹ năng lao động của họ cũng sẽ được cải thiện từng bước. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho sự ổn định tài chính của các đối tượng chính sách và từng bước làm cho họ có thể tồn tại độc lập với nguồn tài trợ. Đó chính là mục đích của việc sử dụng phương thức tài trợ các mục tiêu chính sách bằng con đường tín dụng.
1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
Dựa vào mục đích nghiên cứu mà người ta phân chia hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại theo những tiêu thức khác nhau.
• Dựa theo mục đích sử dụng tiền vay:
Khi phân chia theo tiêu thức này, các nhà ngân hàng mong muốn tìm ra được nguồn tiền trả nợ cho ngân hàng. Tuỳ theo mục đích sử dụng tiền vay của những người vay tiền mà người ta phân chia hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại thành hai loại chính là:
- Tín dụng tiêu dùng: Mục đích của loại tín dụng này là người đi vay phải sử dụng tiền vay vào việc tiêu dùng, mua sắm tài sản... nhằm mục đích phục vụ lợi ích cá nhân.
Khi thực hiện hình thức cho vay này, cán bộ tín dụng đã phải tính đến là nguồn tiền được dùng trả nợ ngân hàng chính là thu nhập cá nhân của người vay tiền. Hình thức cho vay này chỉ mới xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, khi nền kinh tế hàng hoá phát triển và những cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra khiến giới tư bản sản xuất đã phải bỏ đi bao nhiêu hàng hoá khi mà nhu cầu tiêu dùng có nhưng không có cầu thực sự. Hình thức phổ biến nhất của loại hình này là cho vay trả góp, một loại hình đã được áp dụng rất thành công ở các nước phát triển. Ngân hàng có thể cho các công chức vay để họ mua sắm ôtô, trả góp nhà ở các nước phương Tây và Mỹ thì việc một người có thể mua ôtô để đi lại trở nên rất dễ dàng trong khi tài khoản của anh ta không cần phải có 100% hay 50% giá trị của chiếc xe đó. Điều này đã giúp cho việc tiêu thụ hàng hoá trở nên thuận lợi hơn, do vậy nó thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Tín dụng công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ: Mục đích của loại tín dụng này là ngân hàng cho các doanh nghiệp vay để phục vụ hoạt động kinh doanh của mình, nhằm mở rộng sản xuất hay đáp ứng một nhu cầu nào đó về tiền của doanh nghiệp. Dựa vào đặc điểm của từng ngành mà ngân hàng sẽ thiết lập các điều kiện cho vay, phương thức cho vay, cách thức trả nợ dựa trên nguồn thu tiền bán hàng của doanh nghiệp. Có thể phân chia loại hình này theo tiêu thức là cho vay doanh nghiệp sản xuất và cho vay doanh nghiệp thương mại hay có thể phân chia theo các ngành nghề kinh tế như: cho vay ngành nông nghiệp, cho vay ngành công nghiệp, cho vay ngành dịch vụ.
• Dựa theo thời hạn:
Dựa vào thời hạn của khoản vay, người ta có thể phân thành các khoản tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: Các khoản vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đây là loại cho vay chiếm tỉ trọng lớn nhất của các ngân hàng thương mại.
Tín dụng trung dài hạn: Các khoản vay trung và dài hạn là các khoản vay có thời hạn trên 1 năm.
Đặc điểm:
- Vốn trong nghiệp vụ tín dụng trung dài hạn chủ yếu gắn liền với quá trình luân chuyển vốn cố định của DN hay TD trung dài hạn tài trợ thiếu hụt về vốn cố định cho DN.
- Tín dụng trung dài hạn gắn liền với các dự án đầu tư của DN, do đó có quy mô và thời gian thực hiện kéo dài và tính chất phức tạp cao. Điều này đòi hỏi NH phải có biện pháp quản lý phù hợp.
- Tín dụng trung dài hạn tiềm ẩn nhiều rủi ro -> lãi suất thường cao.
• Dựa theo hình thức bảo đảm của khoản vay.
Có thể phân chia các khoản cho vay của ngân hàng theo tiêu thức này như sau: các khoản cho vay có bảo đảm và các khoản cho vay không có bảo đảm.
Các khoản cho vay có bảo đảm là những khoản cho vay mà bên cạnh việc cho khách hàng vay vốn, ngân hàng còn nắm giữ tài sản của người vay với mục đích xử lý tài sản đó để thu hồi vốn vay khi người vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Quá trình cung ứng vốn của ngân hàng thương mại, không kể dưới hình thức nào đều làm tăng khối lượng tiền vào nền kinh tế, làm tăng lượng hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra khi thực hiện việc cho vay, ngân hàng không trực tiếp quản lý nguồn vốn của mình vì thế có rất nhiều rủi ro xảy ra, nguy cơ không thu hồi đủ vốn vay là rất cao vì thế các ngân hàng khi cho vay thường yêu cầu người vay phải có tài sản bảo đảm cho khoản vay. Tài sản bảo đảm có thể tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như:
- Tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay ngân hàng.
- Tài sản bảo đảm là tài sản của người đi vay.
- Tài sản bảo đả là tín chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba.
Trong cho vay kinh doanh, nguồn thu nợ thứ nhất là doanh thu đối với vay vốn lưu động, hoặc là khấu hao, lợi nhuận đối với những khoản vay trung và dài hạn. Trong cho vay tiêu dùng, nguồn thu nợ thứ nhất của ngân hàng là thu nhập cá nhân như tiền lương, các khoản thu nhập tài chính và các khoản thu nhập khác. Khi đánh giá hoạt động của khách hàng, nếu ngân hàng nhận thấy là nguồn thu nhập thứ nhất không có cơ sở chắc chắn thì ngân hàng phải yêu cầu thiết lập thêm cơ sở pháp lý để có thêm nguồn thu nợ thứ hai, chính là tài sản bảo đảm cho khoản vay đó. Trong quá trình phân tích khách hàng khi cho vay, người ta quan tâm đến sáu yếu tố là: năng lực (capacity), uy tín (character), tiền mặt (cash), tài sản bảo đảm (collateral), các điều kiện khác (conditions), kiểm soát (control). Trong sáu yếu tố trên, tài sản bảo đảm là yếu tố kém quan trọng nhất vì khi cho khách hàng vay, ngân hàng luôn mong muốn sẽ thu hồi được cả lãi và vốn vay, nếu có rủi ro xảy ra ngân hàng buộc phải xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi vốn vay, khi này thì ngân hàng là người gặp khó khăn nhất.
Các khoản cho vay không có bảo đảm là những khoản cho vay mà ngân hàng không nắm giữ tài sản của người đi vay để xử lý nhằm thu hồi nợ mà thay vào đó là những điều kiện ràng buộc khác khi kí hợp đồng tín dụng.
Những điều kiện này có thể là: Người đi vay không được giao dịch với ngân hàng nào khác, hoạt động kinh doanh của người đi vay phải được ngân hàng quản lý. Có như vậy ngân hàng mới quản lý được tình hình tài chính của người đi vay. Thông thường chỉ có những khách hàng có quan hệ lâu năm với ngân hàng hoặc những khách hàng có uy tín, hay những khách hàng mà ngân hàng có tham gia góp vốn vào thì mới được cho vay không có bảo đảm.
• Dựa theo phương thức hoàn trả:
Căn cứ vào phương thức hoàn trả vốn vay, thì có thể phân loại cho vay của ngân hàng thành:
- Các khoản vay được hoàn trả một lần: theo phương thức này vốn vay được cấp cho người vay sau đó khi đến hết thời hạn vay vốn, người đi vay sẽ hoàn trả cho ngân hàng toàn bộ số vốn vay và lãi một lần.
- Các khoản vay được hoàn trả định kì: theo phương thức này, cứ sau một khoảng thời gian nhất định người đi vay phải hoàn trả một phần vốn vay cho ngân hàng. Vốn vay và lãi có thể được hoàn trả theo các phương thức: gốc trả đều, lãi trả theo số dư; vốn vay được trả theo niên kim cố định; gốc trả theo cấp số cộng hay cấp số nhân, lãi trả theo số dư...
Việc lựa chọn phương thức hoàn trả vốn vay là phụ thuộc vào sự thoả thuận của ngân hàng với khách hàng, điều này cũng phụ thuộc vào đặc điểm và tình hình hoạt động của khách hàng. Ngân hàng luôn lựa chọn phương thức hoàn trả vốn vay có lợi cho mình nhất.
• Dựa vào nguồn gốc hình thành khoản vay:
Theo tiêu thức này, các khoản cho vay của ngân hàng có thể phân chia thành các khoản cho vay trực tiếp tại ngân hàng và các khoản cho vay gián tiếp qua ngân hàng.
- Các khoản cho vay trực tiếp tại ngân hàng là những khoản cho vay khi khách hàng đến trực tiếp ngân hàng và xin vay vốn. Hầu hết các phương thức cho vay của ngân hàng được áp dụng là hình thức này.
- Các khoản cho vay gián tiếp qua ngân hàng là những khoản cho vay mà ngân hàng có thể mua lại từ một ngân hàng thương mại khác hay từ công ty mua bán nợ.
Việc lựa chọn phương thức cho vay cho phù hợp với tình hình thực tế và nhu cầu của người đi vay là một vấn đề quan trọng của chính sách cho vay của ngân hàng. Khi một ngân hàng có một chính sách cho vay phù hợp với nhu cầu về vốn của người sử dụng, nó sẽ góp phần làm cho đồng vốn huy động được của ngân hàng trở nên có ý nghĩa, việc sử dụng vốn của ngân hàng hiệu quả, đồng thời nó góp phần vào việc cung ứng vốn kịp thời cho nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển.
1.2. Phương thức cấp tín dụng của NHTM
1.2.1. Phương thức cấp tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường
Một là: Tín dụng ứng trước
Tín dụng ứng trước là nghiệp vụ tín dụng mà ngân hàng cho khách hàng vay tiền bằng cách ứng cho họ một số tiền nhờ đó mà khách hàng có vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất và kinh doanh. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp thường có sự chênh lệch về quy mô và thời gian giữa dòng lưu chuyển tiền thu vào và dòng lưu chuyển tiền chi ra.
Bởi vậy trong những thời điểm thiếu vốn hoạt động thì doanh nghiệp
được ngân hàng cho vay ứng trước để đảm bảo sự cân đối ngân quỹ hàng ngày của họ.
Tín dụng ứng trước được phân chia thình 2 loại sau:
Cho vay từng lần là phương thức cho vay dựa trên cơ sở nhu cầu tín dụng của từng đối tượng vay cụ thể.
Xuất phát từ đặc điểm của phương thức cho vay từng lần mà các ngân hàng thương mại thường áp dụng phương thức cho vay này đối với các trường hợp không đủ điều kiện để được vay theo phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng.
Cho vay từng lần là phương thức cho vay thông dụng nhất của các ngân hàng. Bất cứ một nhu cầu cần bổ sung vốn của doanh nghiệp phát sinh, doanh nghiệp cũng có thể đến ngân hàng xin vay vốn theo phương thức này. Khi có nhu cầu vay vốn theo phương thức này, khách hàng phải chuẩn bị một hồ sơ xin vay trong đó tự giới thiệu về mình, ghi số lượng tiền cần vay, thời hạn trả và một phương án sử dụng tiền vay. Sau đó ngân hàng sẽ thẩm định hồ sơ xin vay của khách hàng. Quá trình thẩm định của ngân hàng phải tiến hành đầy đủ và khách quan. Ngân hàng phải thẩm định sáu yếu tố liên quan đến người vay: tư cách pháp lý, uy tín, tiền mặt, tài sản bảo đảm, các điều kiện kh