Chuyên đề Giải pháp giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An Hà Nội

Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và nghiệp vụ Vì vậy hoạt động của hệ thống ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Một trong những hoạt động chính của ngân hàng là hoạt động tín dụng mà đặc biệt là hoạt động cho vay . Đây là hoạt động mang lại thu nhập chính cho các ngân hàng cũng đồng thời là hoạt động mang lại rủi ro nhiều nhất, gây những tổn thất rất lớn cho các ngân hàng thương mại. Hơn nữa rủi ro trong hoạt động cho vay ngày càng phức tạp và đa dạng. Vậy làm thế nào để giảm thiểu được những tổn thất do rui ro trong hoạt động cho vay gây nên, các ngân hàng đã làm những gì để phòng ngừa, khắc phục tổn thất đó. Đây là câu hỏi luôn được đặt ra trong mọi thời điểm hoạt động của tất cả các ngân hàng, đòi hỏi các ngân hàng không ngừng tìm tòi các biện pháp hữu hiệu khác để công tác quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay ngày càng hiệu quả. Qua thời gian thực tập tại Chi nhánh NHN0&PTNT Quảng An , em thấy rủi ro trong hoạt động cho vay là vấn đề luôn được cán bộ ở đây chú trọng tới sở dĩ vì các chỉ tiêu phản ánh rủi ro đang ở mức đáng lo ngại. Vì vậy đề tài: “Giải pháp giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An Hà Nội” được chon để tiến hành phân tích và nghiên cứu thông qua thực tiễn hoạt động cho vay của Chi nhánh NHN0&PTNT Quảng An. Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày theo 3 chương sau: CHƯƠNG I. Tổng quan về rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM CHƯƠNG II. Thực trạng hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của Chi nhánh NHN0&PTNT Quảng An CHƯƠNG III. Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay đối với Chi nhánh NHN0&PTNT Quảng An Bài viết không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô, các cán bộ ngân hàng để bài viết được tốt hơn giúp cho quá trình nghiên cứu và công tác của em sau này. Em xin cảm ơn thày giáo Tiến sỹ Đặng Ngọc Đức đã nhiệt tình hướng dẫn để em có thể hoàn thành chuyên đề. Em cũng xin cảm ơn các cô chú cán bộ của chi nhánh đã hướng dẫn em trong thời gian thực tập.

doc64 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1336 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và nghiệp vụ… Vì vậy hoạt động của hệ thống ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Một trong những hoạt động chính của ngân hàng là hoạt động tín dụng mà đặc biệt là hoạt động cho vay . Đây là hoạt động mang lại thu nhập chính cho các ngân hàng cũng đồng thời là hoạt động mang lại rủi ro nhiều nhất, gây những tổn thất rất lớn cho các ngân hàng thương mại. Hơn nữa rủi ro trong hoạt động cho vay ngày càng phức tạp và đa dạng. Vậy làm thế nào để giảm thiểu được những tổn thất do rui ro trong hoạt động cho vay gây nên, các ngân hàng đã làm những gì để phòng ngừa, khắc phục tổn thất đó. Đây là câu hỏi luôn được đặt ra trong mọi thời điểm hoạt động của tất cả các ngân hàng, đòi hỏi các ngân hàng không ngừng tìm tòi các biện pháp hữu hiệu khác để công tác quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay ngày càng hiệu quả. Qua thời gian thực tập tại Chi nhánh NHN0&PTNT Quảng An , em thấy rủi ro trong hoạt động cho vay là vấn đề luôn được cán bộ ở đây chú trọng tới sở dĩ vì các chỉ tiêu phản ánh rủi ro đang ở mức đáng lo ngại. Vì vậy đề tài: “Giải pháp giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An Hà Nội” được chon để tiến hành phân tích và nghiên cứu thông qua thực tiễn hoạt động cho vay của Chi nhánh NHN0&PTNT Quảng An. Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày theo 3 chương sau: CHƯƠNG I. Tổng quan về rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM CHƯƠNG II. Thực trạng hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của Chi nhánh NHN0&PTNT Quảng An CHƯƠNG III. Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay đối với Chi nhánh NHN0&PTNT Quảng An Bài viết không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô, các cán bộ ngân hàng để bài viết được tốt hơn giúp cho quá trình nghiên cứu và công tác của em sau này. Em xin cảm ơn thày giáo Tiến sỹ Đặng Ngọc Đức đã nhiệt tình hướng dẫn để em có thể hoàn thành chuyên đề. Em cũng xin cảm ơn các cô chú cán bộ của chi nhánh đã hướng dẫn em trong thời gian thực tập. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NHTM 1.1. Tổng quan về hoạt động cho vay của NHTM 1.1.1. Khái quát về NHTM 1.1.1.1. Khái niệm: Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Nền kinh tế phát triển là điều kiện cho sự phát triển của ngân hàng. Ngược lại sự phát triển của hệ thống ngân hàng là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Nghề ngân hàng đã bắt đầu với sự nghiệp đổi tiền của các thợ vàng. Những người đổi tiền thường là những người giàu có, trước đó họ có thể là những người cho vay nặng lãi. Họ nhận thấy rằng có một lượng tiền nhàn rỗi do những người gửi tiền và rút tiền không diễn ra cùng lúc. Do tính vô danh của tiền họ có thể cho khách hàng vay số tiền tạm thời nhàn rỗi trong két của họ. Hoạt động này làm thay đổi cơ bản hoạt động nhà buôn tiền – cho vay nặng lãi thành nhà buôn tiền – ngân hàng. Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá thì ngân hàng ngày càng phát triển và cung cấp rất nhiều tiện ích, và ngân hàng đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế. Có khá nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng. Xem xét trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp thì có thể định nghĩa: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Theo luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. 1.1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại bao gồm: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn, và cung cấp các dịch vụ tài chính. 1.1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại. Đó là hoạt động nhằm tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng, mà nguồn này được truyền tải đến ngân hàng theo các kênh khác dẫn khác nhau. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi. Ngân hàng có thể huy động bằng nguồn tiền gửi không kỳ hạn hoặc nguồn tiền gửi có kỳ han hoăc tiết kiệm. Tiền gửi không kỳ hạn là các khoản gửi với thời gian không xác định. Người mới gửi tiền vào sáng nay nếu cần anh ta có thể rút ra ngay vào buổi chiều cùng ngày. Còn tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm nghĩa là khoản tiền được gửi sẽ có khoản thời gian gửi tối thiểu theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng và không được rút ra trước kỳ hạn nêu trên. Hoạt động này để bảo quản hộ người có tiền và để cạnh tranh thì ngân hàng đã trả cho người gửi tiền như là phần thưởng cho việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dung trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Ngân hàng còn huy động vốn bằng các khoản vay khác nhau như vay của ngân hàng nhà nước để giải quyết các nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại, vay của các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường vốn... Với hình thức huy động này ngân hàng cũng phải trả một khoản lãi cho bên cho vay để có được quyền sử dụng khoản tiền vay. Bên cạnh có ngân hàng có thể phát hành các loại giấy tờ có giá để thu hút nguồn vốn đáng kể cho hoạt động của mình. 1.1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn. Huy động được vốn rồi, vấn đề tiếp theo của các ngân hàng thương mại là làm thế nào sử dụng được nguồn vốn đó một cách có hiệu quả nhất nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó gồm cho vay, đầu tư và hoạt động ngân quỹ. Phần lớn nguồn vốn của Ngân hàng thương mại được sử dụng để cho vay. Có nhiều loại cho vay khác nhau tuỳ theo cách phân chia như: Phân chia theo thời hạn cho vay, theo mục đích sử dụng tiền vay, theo đối tượng vay, theo hình thức đảm bảo vốn vay, theo phương pháp hoàn trả vốn vay… Đây là hoạt động sinh lời cao đồng thời lại chứa dựng rất nhiều rủi ro có thể gây tổn thất lớn, làm giảm uy tín của ngân hàng. Những khoản mà khách hàng vay không phải lúc nào cũng được hoàn trả đúng thời hạn như trong hợp đồng tín dụng mà ngân hàng luôn phải đối mặt với rủi ro mất vốn. Đó là việc khách hàng không hoàn trả được số tiền đã vay đúng hạn hoặc không có khả năng trả. Vì vậy các ngân hàng thường có những chính sách hợp lý cho riêng mình để tạo môi trường quản lý phù hợp cho các khoản nợ làm sao giảm bớt loại rủi ro này một cách thấp nhất. 1.1.1.2.3. Hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính. Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiên các dịch vụ đó có hiệu quả. Các dịch vụ đó bao gồm mua bán ngoại tệ, bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, bảo lãnh, cho thuê các thiết bị trung và dài hạn, các dịch vụ ủy thác và tư vấn, môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ đại lý... 1.1.2. Hoạt động cho vay của NHTM 1.1.2.1. Khái niệm: Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Như vậy có thể hiểu tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người cho vay sang người đi vay để sau một thời gian nhất định thu về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả, nghĩa là người cho vay . Cho vay là hoạt động của ngân hàng chuyển quyền sử dụng khoản tiền vay cho khách hàng từ đó ngân hàng thu lợi nhuận cho mình. Đối với người đi vay thì món vay là một khoản nợ nhưng đối với ngân hàng thì đây lại là tài sản có vì nó đem lại thu nhập cho ngân hàng. Mặc dù cho vay là hoạt động mang lại thu nhập lớn song rủi ro rất cao. Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể xảy ra tổn thất làm giảm thu nhập của Ngân hàng. Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy Ngân hàng đến phá sản. Do vậy, các Ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ. Nên phải thẩm tra trước, trong và sau khi cho vay. 1.1.2.2. Phân loại: * Phân loại theo thời gian: Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với Ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian cho vay được phân chia thành cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn. Cho vay ngắn hạn là những khoản vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống. Đây là hình thức cho khách hàng vay để mua sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn mức, có hoặc không cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển. Cho vay ngắn hạn do chỉ trong một thời gian ngắn nên khách hàng thường sử dụng đúng mục đích vay như đã thỏa thuận nên khả năng hoàn trả tốt, vì vậy mức độ rủi ro là thấp.Tuy nhiên cũng không tránh khỏi tổn thất do biến cố gây ra. Ngay cả việc cho Nhà nước vay, khả năng hoàn trả là rất cao song vẫn có những trường hợp Nhà nước mất khả năng chi trả khi đến hạn. Cho vay trung hạn là những khoản vay từ trên 1 năm đến 5 năm, các khoản vay trên 5 năm là cho vay dài hạn. Những khoản cho vay trung và dài hạn này có nhiều khả năng dẫn đến rủi ro hơn cho vay ngắn hạn. Do thời gian vay kéo dài, việc khách hàng sử dụng vốn không theo mục đích hoặc theo mục đích đã thỏa thuận nhưng tình hình kinh doanh không theo ý muốn của khách hàng hay do những rủi ro khác dẫn đến việc khách hàng mất khả năng chi trả. Vì vậy nên mức lãi suất của việc cho vay trung và dài hạn thường cao hơn cho vay ngắn hạn. * Phân theo tài sản đảm bảo: Tài sản đảm bảo cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không có hoặc không đủ. Trong trường hợp độ an toàn của người vay không chắc chắn, ngân hàng đòi hợp đồng đảm bảo khi đó khoản vay này được gọi là khoản vay có tài sản đảm bảo. Các đảm bảo của khách hàng nhằm hạn chế bớt các thiệt hại cho ngân hàng khi khách hàng có khó khăn không trả được nợ. Điều này giúp ngân hàng giảm đáng kể thiệt hại nếu khách hàng mất khả năng thanh toán, hoặc làm cho khách hàng có trách nhiệm hơn trong khoản vay của mình. Khi ngân hàng cho vay dựa trên uy tín của khách hàng trong trường hợp khách hàng truyền thống, có uy tín, Ngân hàng không cần ký hợp đồng đảm bảo thì được gọi là cho vay không có tài sản đảm bảo. Đó thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc các khoản cho vay trong thời gian ngắn mà Ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng… cũng có thể không cần tài sản đảm bảo. Đối với cho vay không có tài sản đảm bảo vì dưới sự đánh giá của ngân hàng là độ an toàn cao, không sợ rủi ro mất khả năng thanh toán. Nhưng trên thực tế thì những khoản vay này vẫn mang đến những rủi ro nhất định và khi đó việc thu hồi nợ là rất khó vì không có nguôn thu nợ thứ hai nên có khả năng mất trắng * Theo mục đích: Cho vay bất động sản: Bao gồm các khoản cho vay xây dựng ngắn hạn và giải phóng mặt bằng cũng như các khoản cho vay dài hạn để mua đất canh tác, nhà, trung tâm thương mại và mua các tài sản nứơc ngoài. Đối với loại hình cho vay này, ngân hàng được đảm bảo bằng chính tài sản thực: đất đai, toà nhà và các công trình khác. Đối với khoản vay này tài sản đảm bảo thường có giá trị vì vậy rủi ro thấp. Mặc dù vậy ngân hàng vẫn phải đối mặt với rủi ro đạo đức của khách hàng gây ra hay trong trường hợp giá cá biến động bất thường… Cho vay đối với các tổ chức tài chính: Bao gồm các khoản tín dụng dành cho ngân hàng , công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác. Hình thức cho vay này cũng không nằm ngoài khả năng có thể có rủi ro không thu hồi được vốn, đặc biệt là khi các tổ chức này phá sản hay vỡ nợ. Cho vay nông nghiệp: Nhằm hỗ trợ nông dân để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu. Vì nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết nên hiện tượng mất mùa thường xuyên xảy ra. Mặt khác người nông dân thì thu nhập chính của họ là nông nghiệp nên khi đó khả năng trả nợ của họ là rất khó. Cho vay công nghiệp và thương mại: giúp doanh nghiệp trang trải các chi phí như mua hàng nhập kho, trả thuế, trả lương cho cán bộ công nhân viên. Với trường hợp này trước khi cho vay ngân hàng phải thẩm định tình hình hoạt động của doanh nghiệp, bên cạnh đó ngân hàng thường xuyên giám sát con nợ của mình để kịp thời sử lý khi có dấu hiệu rủi ro xảy ra. Nhưng ngân hàng vẫn không thể tránh khỏi xảy ra rủi ro khi các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng. Cho vay cá nhân có độ rủi ro khá cao. Nếu người vay bị chết, ốm hoặc bị mất việc ngân hàng sẽ khó thu được nợ. Vì vậy, ngân hàng thương yêu cầu lãi suất cao, yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm thất nghiệp, nhân thọ, bảo hiểm hàng hóa đã mua… Để ngân hàng giảm tổn thất khi rủi ro xảy ra. Cho thuê tài sản: Ngân hàng mua thiết bị máy móc hay phương tiện và cho khách hàng thuê. Đối với hình thức này ngân hàng có quyền thu hồi tài sản nếu thấy người thuê không thực hiện đúng hợp đồng. Ngân hàng sẽ gặp rủi ro khi khách hàng kinh doanh không có hiệu quả, không trả được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Nhiều tài sản thuê mang tính đặc chủng, khó bán, khó thuê lại, khi thu hồi chi phí tháo dỡ cao,…nên rủi ro cho thuê rất cao đối với ngân hàng. Do vậy khi cho thuê ngân hàng phải phân tích tín dụng đồng thời phân tích thị trường tài sản cho thuê, đánh giá nhà cung cấp, lựa chọn các hình thức cho thuê thích hợp. Ngân hàng đòi hỏi người thuê phải mua bảo hiểm tài sản. 1.1.2.3. Vai trò của hoạt động cho vay Ngân hàng với mạng lưới trải rộng của nó trong nền kinh tế, đã tập trung được một số lớn nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để hình thành quỹ cho vay. Các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, nhàn rỗi có thời hạn hoặc nhàn rỗi lâu dài, được tập trung vào ngân hàng bằng những cơ chế chính sách và các lãi suất khác nhau. Trên cơ sở quỹ cho vay đã có, các tổ chức tín dụng tiến hành phân phối nguồn vốn này cho các đối tượng có nhu cầu cần bổ sung vốn. quá trình này không những đòi hỏi phải tuân theo các nguyên tắc cho vay mà còn phải chấp hành đầy đủ những quy định của pháp luật. Hoạt động cho vay có các vai trò quan trọng đối với nền kinh tế cũng như đối với ngân hàng. Nhưng bản thân hoạt động này lại chứa đựng nhiều rủi ro dẫn đến những hậu quả đáng tiếc cho ngành ngân hàng nói riêng và cho toàn bộ nền kinh tế nói chung. · Ngân hàng cho vay đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp để duy trì và mở rộng quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Cho vay trong ngân hàng làm nhiệm vụ dẫn đường cho nguồn vốn chảy từ nơi thừa tới nơi thiếu vốn. Bởi lẽ trong hoạt động kinh doanh tại một thời điểm luôn luụn phát sinh hai loại nhu cầu: cho vay vốn để hưởng lợi và nhu cầu vay vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh là điều tất yếu. Hai nhu cầu này là ngược nhau nhưng có chung mục tiêu là an toàn, sinh lời và đều là tạm thời. Cho vay trong ngân hàng đã thực hiện chức năng huy động và tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi để đưa vào sử dụng theo nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi trong một khoảng thời gian nhất định với tốc độ nhanh và hiệu quả hơn. Nhưng không phải lúc nào doanh nghiệp đi vay vốn về đều làm ăn có lãi, đạt kế hoạch mà dự án đã nêu, nên khi doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính hay sử dụng vốn không hiệu quả dẫn đến việc làm ăn thua lỗ không trả nợ được đã làm ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Như vậy càng đòi hỏi khâu thẩm định của ngân hàng ngày càng kỹ càng chặt chẽ chính xác hơn Cho vay trong ngân hàng là công cụ đắc lực cho ngành kinh tế kém phát triển và những ngành kinh tế mũi nhọn. Bằng việc sử dụng lãi suất ưu đãi đối với những ngành kinh tế mũi nhọn cũng như những ngành kinh tế kém phát triển nhưng cần thiết cho quốc kế dân sinh, ngân hàng cho vay góp phần thúc đẩy những ngành kinh tế này phát triển. Cũng như việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, nếu việc sử dụng vốn là phù hợp vai trò đó được phát huy. Nhưng ngành kinh tế kém phát triển ấy có bứt ra khỏi tình trạng đó không hay lại tiếp tục suy sút và đem đến rủi ro cho ngân hàng. Còn nghành kinh tế mũi nhọn sẽ ít có khả năng gây ra rủi ro cho ngân hàng. Tuy nhiên ngân hàng vẫn không thể chủ quan đối với lĩnh nghành này. Cho vay trong ngân hàng có vai trò quyết định đến sự ổn định của lưu thông tiền tệ. Do tính ưu việt của mình tín dụng ngân hàng đóng vai trò quyết định đến sự ổn định của lưu thông tiền tệ. Trước hết ngân hàng là kênh quan trọng để đưa tiền vào lưu thông, có khả năng kiểm soát được khối lượng tiền sao cho phù hợp với lưu thông hàng hoá. Nếu tín dụng ngân hàng được thực hiện một cách có hiệu quả sẽ đảm bảo khối lượng tiền cung ứng phù hợp. Vì khi cho vay Ngân hàng đã đưa tiền vào lưu thông. Mặc khác cùng với chức năng tạo tiền, các ngõn hàng thương mại có khả năng mở rộng tiền gửi làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông . Vai trò của cho vay quan trọng như vậy nhưng khi rủi ro trong hoạt động cho vay xảy ra, tức là dòng tiền mà ngân hàng không thu hồi được đó đã không còn lưu thông theo đúng chu trình của nó. Như vậy rủi ro tín dụng không chỉ gây tổn thất cho ngân hàng mà còn làm mất đi vai trò quan trong này, làm ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Cho vay ngân hàng có vai trò kiểm soát nền kinh tế. Qua việc huy động vốn của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư trong xã hội và việc tổ chức thanh toán khách hàng mà ngân hàng có thể đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm, tình hình sản xuất và khả năng chi trả của khách hàng thể hiện qua biến động số dư trong tài khoản. Trong quá trình cho vay, ngân hàng luôn phải đề phòng nguy cơ rủi ro có thể xảy ra, phải thường xuyên phân tích khả năng tài chính của khách hàng, giám sát kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của họ để có thể điều chỉnh, tác động kịp thời khi cần thiết. Và cũng từ đó, ngân hàng có khả năng tập hợp được tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời góp những ý kiến để điều chỉnh kịp thời khi có sự mất cân đổi trong cơ cấu kinh tế. · Cho vay trong ngân hàng đóng vai trò quyết định trong hoạt động ngân hàng. Cho vay trong ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng thương mại. Vỡ cho vay mang lại nguồn thu nhập lớn cho ngân hàng. . Tuy nhiên con người luôn phải đối mặt với sự đánh đổi mà cụ thể ở đây là lãi suất và rủi ro. Lãi suất càng cao thì rủi ro càng nhiều. Chính vì vậy các ngân hàng phải xác định được một tỷ lệ phù hợp để có thể đạt được mục tiêu lợi nhuận của mình. 1.2. Rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM 1.2.1. Quan niệm về rủi ro trong hoạt động cho vay Một ngân hàng thương mại hoạt động phải đối mặt với nhiều loại rủi ro khác nhau như rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro thanh khoản và loai rủi ro phổ biến là rủi ro do hoạt động cho vay gây nên. Rủi ro trong hoạt động cho vay là khả năng xảy ra những tổn th
Tài liệu liên quan