Chuyên đề Giải pháp hạn chế tình trạng đôla hóa ở Việt Nam hiện nay

Năm 1999, để đối phó với thời kỳ khó khăn trong nền kinh tế, một giải pháp tình thế đã được Argentina thực hiện đó là từ bỏ nội tệ đồng thời chấp nhận USD là tiền tệ chính thức. Năm 2000, đôla hóa chính thức nền kinh tế là phương sách cuối cùng đối với Ecuador sau mọi nỗ lực cải thiện nền kinh tế khi khủng hoảng tài chính xảy ra. Nhiều nhà kinh tế cho rằng tất cả các nước đang phát triển nên đôla hóa. Tuy nhiên trên thực tế không một quốc gia nào muốn sử dụng đồng tiền thứ hai thay thế hoàn toàn đồng tiền nước mình vì đối với họ việc từ bỏ đồng nội tệ, từ bỏ quyền điều hành chính sách tiền tệ của NHTW chính là sự xóa bỏ hoàn toàn chủ quyền về tiền tệ. Ngày nay việc chấp nhận ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp chính thức không còn phổ biến. Tuy nhiên, trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự phát triển không ngừng của quan hệ thương mại giữa các quốc gia đã dẫn tới sự xâm nhập mạnh mẽ của các ngoại tệ mạnh vào một số nền kinh tế từ đó dẫn tới hiện tượng đôla hóa không chính thức. Có thể nói, đôla hóa không chính thức là hiện tượng xảy ra phổ biến ở các nước đang phát triển, các nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam hiện nay đôla hóa đang là một vấn đề nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của rất nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu kinh tế, đồng thời cũng là mối lo ngại của các nhà lãnh đạo Đảng – Nhà nước. Do vậy việc đưa ra giải pháp nhằm hạn chế tình trạng đôla hóa hiện ở mức khá cao ở Việt Nam đang là một nhiệm vụ cấp bách được đặt ra với các nhà hoạch định chính sách của Đảng, của Chính phủ, của NHTW. Chính vì những lý do trên, đề tài “Giải pháp hạn chế tình trạng đôla hóa ở Việt Nam hiện nay” đã được lựa chọn. Đề tài được triển khai dựa trên việc nghiên cứu từ những vấn đề tổng quan về đôla hóa như: khái niệm, nguyên nhân, tác động cho tới những vấn đề đôla hóa cụ thể ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị đối với Chính phủ, NHTW, NHTM nhằm hạn chế tình trạng đôla hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Kết cấu của chuyên đề gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung về đôla hóa. Chương 2: Thực trạng đôla hóa ở Việt Nam. Chương 3: Giải pháp hạn chế tình trạng đôla hóa ở Việt Nam hiện nay. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo – TS Đặng Ngọc Đức đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.

doc73 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1598 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp hạn chế tình trạng đôla hóa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP Tên đề tài: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Họ và tên sinh viên: Lương Thị Thu Hằng Chuyên ngành: Tài chính doanh nghiệp Lớp: Tài chính doanh nghiệp A Khóa: 45 Hệ: Chính quy Giảng viên hướng dẫn: TS. Đặng Ngọc Đức HÀ NỘI, NĂM 2007 MỤC LỤC Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng, biểu MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÔLA HÓA 2 1.1. Tổng quan về đôla hóa 2 1.1.1. Khái niệm đôla hóa 2 1.1.2. Phân loại đôla hóa 2 1.2. Nguyên nhân dẫn đến đôla hóa 8 1.3. Tác động của đôla hóa 11 1.3.1. Tác động tích cực 12 1.3.2. Tác động tiêu cực 13 1.4. Các biện pháp hạn chế đôla hóa 16 1.4.1. Biện pháp hành chính 16 1.4.2. Biện pháp kinh tế 17 1.5. Kinh nghiệm hạn chế đôla hóa của một số quốc gia trên thế giới 18 1.5.1. Argentina 18 1.5.2. Cuba 20 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM 22 2.1. Khái quát nền kinh tế Việt Nam 22 2.2. Mức độ và các biểu hiện đôla hóa ở Việt Nam 23 2.2.1. Mức độ đôla hóa ở Việt Nam 23 2.2.2. Biểu hiện đôla hóa ở Việt Nam 25 2.3. Nguyên nhân dẫn tới đôla hóa ở Việt Nam 30 2.4. Ảnh hưởng của đôla hóa tới nền kinh tế Việt Nam 39 2.5. Thực trạng hạn chế đôla hóa ở Việt Nam 42 2.5.1. Khái quát hoạt động của Vụ quản lý ngoại hối 43 2.5.2. Chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam 44 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 48 3.1. Định hướng về vấn đề hạn chế tình trạng đôla hóa 48 3.2. Giải pháp 49 3.2.1. Củng cố lòng tin của dân chúng vào VND 49 3.2.2. Đối với các kênh ngoại tệ dẫn vào trong nước 55 3.2.3. Xóa bỏ hoạt động nhận tiền gửi ngoại tệ và tín dụng ngoại tệ của các NHTM 58 3.2.4. Về dự trữ ngoại hối 60 3.2.5. Về thị trường tiền tệ 61 3.2.6. Về môi trường pháp lý và công tác tuyên truyền giáo dục 62 3.3. Một số kiến nghị 63 KẾT LUẬN` 66 TÀI LIỆU THAM KHẢO 67 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. VN : Việt Nam 2. NHTW : Ngân hàng Trung ương 3. NHNN : Ngân hàng Nhà nước 4. NHTM : Ngân hàng thương mại 5. PLNH : Pháp lệnh ngoại hối 6. BTC : Bộ tài chính DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU BẢNG Bảng 1.1: Danh sách một số nền kinh tế đôla hóa chính thức .5 Bảng 1.2: Cơ cấu tài khoản tiền gửi tại hệ thống NHTM Argentina 18 Bảng 1.3: Đôla hóa tiền gửi tiết kiệm, cho vay, nợ ở Argentina 20 Bảng 2.1: Tỷ trọng sử dụng vốn ngoại tệ so với huy động ngoại tệ của hệ thống ngân hàng 26 Bảng 2.2: Tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do USD/VND 28 Bảng 2.3: Tỷ lệ lạm phát ở VN từ năm 1986 đến nay 31 Bảng 2.4: Vốn ODA cam kết tài trợ và giải ngân giai đoạn 01-05 36 Bảng 2.5: Tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 99-06 38 BIỂU Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ FCD/M2 ở VN từ 1997-2006 24 Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ tiền gửi USD/tổng tiền gửi qua các năm 26 Biểu đồ 2.3: Lượng kiều hối vào VN giai đoạn 91-04 36 LỜI MỞ ĐẦU Năm 1999, để đối phó với thời kỳ khó khăn trong nền kinh tế, một giải pháp tình thế đã được Argentina thực hiện đó là từ bỏ nội tệ đồng thời chấp nhận USD là tiền tệ chính thức. Năm 2000, đôla hóa chính thức nền kinh tế là phương sách cuối cùng đối với Ecuador sau mọi nỗ lực cải thiện nền kinh tế khi khủng hoảng tài chính xảy ra. Nhiều nhà kinh tế cho rằng tất cả các nước đang phát triển nên đôla hóa. Tuy nhiên trên thực tế không một quốc gia nào muốn sử dụng đồng tiền thứ hai thay thế hoàn toàn đồng tiền nước mình vì đối với họ việc từ bỏ đồng nội tệ, từ bỏ quyền điều hành chính sách tiền tệ của NHTW chính là sự xóa bỏ hoàn toàn chủ quyền về tiền tệ. Ngày nay việc chấp nhận ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp chính thức không còn phổ biến. Tuy nhiên, trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự phát triển không ngừng của quan hệ thương mại giữa các quốc gia đã dẫn tới sự xâm nhập mạnh mẽ của các ngoại tệ mạnh vào một số nền kinh tế từ đó dẫn tới hiện tượng đôla hóa không chính thức. Có thể nói, đôla hóa không chính thức là hiện tượng xảy ra phổ biến ở các nước đang phát triển, các nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam hiện nay đôla hóa đang là một vấn đề nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của rất nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu kinh tế, đồng thời cũng là mối lo ngại của các nhà lãnh đạo Đảng – Nhà nước. Do vậy việc đưa ra giải pháp nhằm hạn chế tình trạng đôla hóa hiện ở mức khá cao ở Việt Nam đang là một nhiệm vụ cấp bách được đặt ra với các nhà hoạch định chính sách của Đảng, của Chính phủ, của NHTW. Chính vì những lý do trên, đề tài “Giải pháp hạn chế tình trạng đôla hóa ở Việt Nam hiện nay” đã được lựa chọn. Đề tài được triển khai dựa trên việc nghiên cứu từ những vấn đề tổng quan về đôla hóa như: khái niệm, nguyên nhân, tác động cho tới những vấn đề đôla hóa cụ thể ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị đối với Chính phủ, NHTW, NHTM nhằm hạn chế tình trạng đôla hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Kết cấu của chuyên đề gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung về đôla hóa. Chương 2: Thực trạng đôla hóa ở Việt Nam. Chương 3: Giải pháp hạn chế tình trạng đôla hóa ở Việt Nam hiện nay. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo – TS Đặng Ngọc Đức đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. CHƯƠNG 1 NH÷NG VÊN §Ò CHUNG VÒ §¤LA HãA 1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐÔLA HÓA. 1.1.1. Khái niệm Đôla hóa. Đôla hóa là hiện tượng xảy ra khi ngoại tệ được sử dụng rộng rãi thay thế một phần hoặc hoàn toàn nội tệ để thực hiện một số chức năng của tiền. Đối với những nền kinh tế bị đôla hóa, ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong việc niêm yết giá hàng hóa dịch vụ, trong thanh toán và trong cất trữ. Sự thay thế một phần hoặc hoàn toàn nội tệ ở đây được thể hiện dưới 2 dạng: Thứ nhất là sự thay thế tài sản: Đó là việc công chúng nắm giữ trái phiếu nước ngoài; Tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ ở nước ngoài; Tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng trong nước với mục đích cất giữ giá trị từ đó hạn chế tác động của sự giảm giá trị đồng nội tệ đối với tài sản khi lạm phát xảy ra. Thứ hai là sự thay thế tiền tệ: Đó là việc công chúng nắm giữ ngoại tệ tiền mặt, tài khoản tiền gửi thanh toán bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng trong nước để thực hiện chức năng phương tiện thanh toán và đơn vị đo lường. Hàng hóa dịch vụ được niêm yết giá bằng USD và công chúng sử dụng USD để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ đó. Điều này cũng xảy ra trong điều kiện lạm phát cao, khi đó chi phí trong việc sử dụng nội tệ trong giao dịch cao đã thúc đẩy công chúng tìm kiếm một sự thay thế. 1.1.2. Phân loại Đôla hóa. Dựa vào vị trí, vai trò, cơ sở pháp lý của ngoại tệ và mức độ sử dụng ngoại tệ trong nền kinh tế, người ta chia đôla hóa thành ba loại: Đôla hóa chính thức, đôla hóa không chính thức và đôla hóa bán chính thức. Đôla hóa chính thức Là hiện tượng xảy ra khi một quốc gia thống nhất sử dụng ngoại tệ là tiền tệ chính thức, hoàn toàn thay thế nội tệ. Trong những nền kinh tế đôla hóa chính thức, nội tệ không tồn tại hoặc chỉ tồn tại dưới dạng tiền xu với mệnh giá nhỏ và không có nhiều ý nghĩa trong việc thực hiện các chức năng của tiền. Trong khi đó ngoại tệ được lựa chọn là tiền tệ chính thức được sử dụng với cả 3 chức năng: phương tiện thanh toán, đơn vị đo lường và cất trữ giá trị. Ngân hàng trung ương (NHTW) của những quốc gia này chỉ tồn tại trên danh nghĩa và không có vai trò gì trong việc thực thi chính sách tiền tệ, chính sách tiền tệ hoàn toàn phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của NHTW Mỹ (Cục dự trữ liên bang Mỹ - FED). Nền kinh tế đôla hóa chính thức bị điều chỉnh bằng những cú sốc ngoại lai nhiều hơn bằng cách điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Hầu hết các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức chỉ chọn một ngoại tệ là tiền tệ chính thức. Những quốc gia này thông thường là những nước nhỏ với quy mô dân số vài triệu dân. 6 trong số những quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức là thành viên của IMF: Kiribati, Marshall Islands, Micronesia, Palau, Panama, San Marino. Trong đó Panama là một quốc gia được biết đến nhiều nhất với nền kinh tế đôla hóa chính thức điển hình. Đôla hóa chính thức không phổ biến bằng đôla hóa không chính thức và thậm chí là rất hiếm do hầu hết mọi người đều coi đồng tiền của quốc gia họ là một biểu tượng của chủ quyền dân tộc, mất đi đồng tiền riêng có nghĩa là giao quyền điều hành chính sách tiền tệ cho NHTW nước ngoài. Chính vì vậy, tuyên bố từ bỏ đồng nội tệ đồng thời chấp nhận ngoại tệ là tiền tệ chính thức chỉ là giải pháp cuối cùng khi chính phủ của nước đó không còn cách nào khác để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, thoát khỏi sự mất ổn định kéo dài. Bảng 1.1: Danh sách một số nền kinh tế đôla hóa chính thức: Quốc gia Dân số Ngoại tệ sử dụng Từ năm Cook Islands 18500 Newzealand dollar 1995 Cyprus, Northern 180000 Turkish lira 1974 Liechtenstein 31000 Swiss franc 1921 Marshall islands 61000 U.S dollar 1944 Micronesia 130000 U.S dollar 1944 Nauru 10000 Australian dollar 1914 Northern Mariana Islands 48000 U.S dollar 1944 Panama 2.7 mn U.S dollar notes and coins, Panamanian coins 1904 Samoa,American 60000 U.S dollar 1899 (Nguồn: IMF-2000) Đôla hóa không chính thức là hiện tượng xảy ra khi cư dân một đất nước nắm giữ số lượng lớn tài sản bằng ngoại tệ, tuy nhiên nội tệ vẫn là đồng tiền chính thức, hợp pháp của quốc gia đó. Đối với những nền kinh tế bị đôla hóa không chính thức, ngoại tệ được công chúng ưa chuộng nắm giữ dưới dạng tài sản như: ngoại tệ tiền mặt, trái phiếu nước ngoài, tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài, tiền gửi bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng trong nước. Các nhà kinh tế nhìn chung đồng nhất Đôla hóa không chính thức với sự thay thế tài sản. Có nghĩa là ngoại tệ được nắm giữ chủ yếu với chức năng cất trữ giá trị nhằm giảm tác động của sự giảm giá nội tệ trong điều kiện lạm phát. Tuy nhiên tùy thuộc vào mức độ đôla hóa nền kinh tế và tùy thuộc vào những quy định hạn chế trong hệ thống pháp luật của từng quốc gia về vấn đề sử dụng ngoại tệ mà có những quốc gia, ngoại tệ còn được sử dụng trong cả thanh toán và niêm yết, thông báo giá hàng hóa dịch vụ. Thông thường, trong các quốc gia này các khoản mục như: lương, thuế và những chi phí hàng ngày như hóa đơn tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ vẫn được trả bằng nội tệ còn những hàng hóa, dịch vụ xa xỉ hay trong hoạt động kinh doanh bất động sản được niêm yết và thanh toán bằng ngoại tệ. Việt Nam là một trong số các nước ở châu Á có nền kinh tế bị đôla hóa không chính thức. Ở Việt Nam, nhìn chung công chúng nắm giữ ngoại tệ dưới dạng ngoại tệ tiền mặt hoặc tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại với chức năng cất trữ giá trị còn đối với chức năng phương tiện thanh toán và đơn vị đo lường, mặc dù pháp luật Việt Nam cũng có đưa ra một số quy định hạn chế nhưng do khâu thực thi pháp luật yếu kém nên giao dịch ngoại tệ và việc niêm yết, thông báo giá hàng hóa bằng ngoại tệ vẫn diễn ra phổ biến. Một cách để đo lường quy mô của đôla hóa không chính thức là đo lường quy mô của trái phiếu quốc tế, tài khoản tiền gửi ngân hàng và quy mô của ngoại tệ tiền mặt. Tuy nhiên để đo lường chính xác quy mô của những khoản mục trên là không dễ dàng, thông thường các con số có được là do ước lượng. Theo ước lượng của Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED): người nước ngoài nắm giữ từ 55- 70% đôla tiền giấy. Tổng giá trị USD trong lưu thông hiện nay khoảng 480 tỷ trong đó người nước ngoài nắm giữ 300 tỷ. Một cách khác để đo lường mức độ đôla hóa không chính thức là tỷ lệ tài khoản tiền gửi ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng trên tổng phương tiện thanh toán (M2). Theo đánh giá của IMF nếu ở một quốc gia tỷ lệ này trên 30% thì tình trạng đôla hóa là nghiêm trọng. Trong hầu hết các nước có nền kinh tế bị đôla hóa không chính thức, USD là ngoại tệ lựa chọn. Trường hợp này đặc biệt đúng đối với những quốc gia mà Mỹ là đối tác thương mại, nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất hoặc lớn thứ 2. Điển hình là các nước châu Mỹ Latinh và Caribean. Tuy nhiên từ khi đồng tiền chung châu Âu (EUR) ra đời thì EUR nhanh chóng trở thành ngoại tệ lựa chọn của một số quốc gia ở châu Phi và khu vực Trung Đông. Các quốc gia hiện nay bị đôla hóa không chính thức ( U.S dollar) bao gồm: Hầu hết các nước Châu Mỹ Latinh và vùng Caribean đặc biệt là: Argentina, Bolivia, Mexico, Peru, và vùng Trung Mỹ; Hầu hết các nước thuộc Liên Xô cũ đặc biệt là: Armenia, Azerbaijan, Georgia, Russia, Ukraine; Ngoài ra còn có Mongolia, Mozambique, Romania, Turkey, VietNam. Chúng ta cần phân biệt đôla hóa không chính thức và sự hình thành đồng tiền chung khu vực. Có nhiều người cho rằng việc sử dụng đồng tiền chung khu vực chính là đôla hóa nền kinh tế. Nhận định này là không chính xác vì: Đôla hóa không chính thức là sự xâm nhập bất hợp pháp của một đồng tiền mạnh vào một nền kinh tế, thay thế một phần nội tệ để sử dụng trong thanh toán, cất trữ và niêm yết giá cả. Đây là điều mà chính phủ các nước không mong muốn và luôn nỗ lực đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế tình trạng trên. Còn việc hình thành các đồng tiền chung khu vực xuất phát từ các nước trong cùng khu vực địa lý đã liên kết, hợp tác với nhau thiết lập một đồng tiền chung để làm đối trọng với các đồng tiền mạnh khác ngoài khu vực đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại giữa các nước trong khu vực đó, hạn chế những rủi ro trong thương mại như rủi ro về tỷ giá. Đồng EUR là một ví dụ cụ thể. Ngày 1/1/1999 tỷ lệ hối đoái giữa EUR và các đơn vị tiền tệ quốc gia được quy định không thể thay đổi và EUR trở thành tiền tệ chính thức. Đến ngày 1/1/2002, EUR bắt đầu được phát hành tới người tiêu dùng. Từ khi EUR ra đời và chính thức được đưa vào sử dụng là tiền tệ hợp pháp của các quốc gia thì thương mại và cộng tác kinh tế giữa các nước trong khu vực EUR trở nên vững mạnh hơn. Hơn thế nữa EUR nhanh chóng trở thành một đồng tiền mạnh, ở thế đối trọng với USD và là tiền tệ lựa chọn của một số quốc gia trên thế giới. Bên cạnh EUR, trong thời gian sắp tới đơn vị tiền tệ chung các nước châu Á (ACU) sẽ ra đời với 13 thành viên: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và các nước ASEAN, trong tương lai không xa sẽ hình thành nên đồng tiền chung châu Á. Có thể nói việc hình thành liên minh tiền tệ và sự ra đời của các đồng tiền chung khu vực là xu thế phát triển của thời đại hội nhập trên lĩnh vực tiền tệ quốc tế, không thể coi đó là đôla hóa. Bên cạnh đôla hóa chính thức và đôla hóa không chính thức vẫn còn tồn tại một loại hình đôla hóa nữa tuy không phổ biến đó là đôla hóa bán chính thức. Các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa bán chính thức có hệ thống lưu hành chính thức hai đồng tiền. Ở những nước này, ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp và chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số tiền gửi ngân hàng nhưng việc trả lương, thuế và các chi tiêu hàng ngày vẫn được thực hiện bằng nội tệ. Các nước này vẫn duy trì NHTW để thực hiện chính sách tiền tệ của họ. Một số nước có nền kinh tế đôla hóa bán chính thức điển hình: Cuba, Bahamas, Cambodia, Haiti, Laos, Liberia (U.S dollar); Bhutan (Indian rupee), Bosnia (German mark, Croatian kuna, Yugoslav dinar); Brunei (Singapore dollar); Channel Islands, Isle of Man (British pound); Lesotho, Namibia (Sounth African rand); Taijikistan (Russian ruble). 1.2.NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN ĐÔLA HÓA. Theo thống kê, các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức đều là những quốc gia nhỏ cả về quy mô dân số cũng như diện tích. Đối với những quốc gia này, đôla hóa chính thức nền kinh tế có thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của các nhà lãnh đạo. Theo họ việc chấp nhận một ngoại tệ mạnh là tiền tệ chính thức góp phần làm cho nền kinh tế trở nên ổn định hơn, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng ở mức cao và họ chấp nhận đánh đổi chủ quyền về tiền tệ để đạt được sự ổn định này, vì suy cho cùng mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng là tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và ổn định giá trị đồng tiền. Một cách lý giải nữa của việc chấp nhận đôla hóa chính thức nền kinh tế của các quốc gia là do sự yếu kém trong việc hoạch định, thực thi chính sách tiền tệ của NHTW và sự hoạt động kém hiệu quả của hệ thống ngân hàng thương mại trong nước. NHTW không đủ năng lực để điều hành chính sách tiền tệ do đó chấp nhận trao quyền điều hành cho NHTW nước ngoài để ổn định và phát triển kinh tế nước mình. Trên đây là những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ ý chí của các nhà lãnh đạo. Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khách quan dẫn tới tình trạng đôla hóa nền kinh tế mặc dù các quốc gia không hề mong muốn. Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tình trạng đôla hóa của các quốc gia có liên quan đến sự sụp đổ của hệ thống Bretton Wood. Hệ thống Bretton Wood (BWS) là một hệ thống tiền tệ quốc tế được đi vào hoạt động từ năm 1947. Đây là một hệ thống chế độ tỷ giá cố định nhưng có thể điều chỉnh. Mỗi đồng tiền quốc gia được ấn định một tỷ giá trung tâm với USD và được phép dao động trong biên độ ±1%, tỷ giá đồng USD tự nó được cố định với giá vàng là 35$/ounce. Một đặc điểm nữa của BWS là sự hình thành hai tổ chức quốc tế mới là IMF và WB với hạn mức tín dụng thường xuyên nhằm hỗ trợ cho những quốc gia bị thâm hụt tạm thời BP. Có thể nói hệ thống BWS hoạt động với sự thành công rõ ràng và đáng ghi nhận, trong suốt những năm từ 1947 đến 1971 chỉ xảy ra một số lần điều chỉnh đột xuất. Tuy nhiên sau 24 năm tồn tại BWS bị sụp đổ với những lý giải xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Sau sự sụp đổ của BWS, các quốc gia đều tiến hành thả nổi tỷ giá, và đặc trưng của hệ thống tỷ giá thả nổi này là không có trật tự và rối loạn. Có một số quốc gia khó khăn trong việc tìm kiếm và lựa chọn 1 chế độ tỷ giá phù hợp, điều này cũng trở nên khó khăn trong điều kiện thị trường vốn và thương mại quốc tế tự do hội nhập. Một cách giải quyết mới nhất là từ bỏ đồng tiền chính thống của mình và chấp nhận một tiền tệ ổn định hơn của quốc gia khác. Cũng sau khi hệ thống BWS sụp đổ xảy ra cú sốc dầu đầu tiên. Các nước kém phát triển (LDCs) không xuất khẩu dầu gặp khó khăn đặc biệt, một mặt do giá dầu nhập khẩu tăng, mặt khác do kinh tế các nước công nghiệp bị suy thoái nên xuất khẩu vào những nước này bị giảm sút. Kết quả là LDCs là nhóm nước chịu thâm hụt cán cân vãng lai với khối lượng khổng lồ. Để cân bằng cán cân thanh toán, các nước tiến hành vay nợ nước ngoài và khủng hoảng nợ đã xảy ra với các nước LDCs đặc biệt là các nước châu Mỹ Latinh. Khủng hoảng nợ đã dẫn đến khủng hoảng tài chính và đây chính là điều kiện để ngoại tệ xâm nhập vào nền kinh tế trong nước thực hiện chức năng tiền tệ, thay thế nội tệ. Nguyên nhân thứ hai xuất phát từ những bất ổn tiền tệ trong các quốc gia như khủng hoảng tài chính. Điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 xảy ra với các quốc gia Đông Á. Thái Lan được coi là quốc gia châm ngòi cho cuộc khủng hoảng và sau đó khủng hoảng đã lan ra ở hầu hết các nước trong khu vực. Trước khủng hoảng, NHTW Thái Lan cố gắng duy trì một tỷ giá cố định của đồng baht so với USD, trong một thời gian dài đồng baht bị định giá quá cao so với giá trị thực và đây chính là cơ hội để các nhà đầu cơ vào cuộc, họ găm giữ ngoại tệ và chờ thời cơ đồng baht phá giá. Cũng trong thời gian này thị trường chứng khoán ở Thái Lan phát triển quá nóng song không ổn định. Có thể nói nguyên nhân trực tiếp dẫn tới khủng hoảng tài chính ở Thái Lan là sự tấn công đầu cơ và rút ra hàng loạt của các dòng vốn gián tiếp. Ngày 1/7/1997 Thái Lan đã chính thức tuyên bố thả nổi đồng baht và chỉ sau một ngày đồng baht đã bị mất giá 20% so với USD và mức vốn hóa của thị trường chứng khoán đã giảm mạnh mẽ. Giá cả hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài trở nên đắt đỏ từ đó làm tăng mức giá chung của nền kinh tế. Đồng baht bị mất giá so với USD, lạm phát trong nước ở mức cao đã làm mất lòng tin của dân chúng khi nắm giữ đồng baht và tất yếu họ sử dụng USD trong cất trữ. Thời gian này, nguồn vốn huy động của các NHTM Thái Lan bị đôla hóa nghiêm trọng. Cũng có một số quốc gia, sau khi đối mặt với khủng hoảng tài chính, không thể hồi phục lại được nền kinh tế và do đó giải pháp cuối cùng là từ bỏ nội tệ, chấp nhận ngoại tệ là tiền tệ chính thức của quốc gia mình. Nguyên nhân thứ ba, nền kinh tế phải đối mặt tỷ lệ lạm phát cao hoặc siêu lạm phát trong khi lãi suất tiền gửi nội tệ không mấy hấp dẫn so vớ
Tài liệu liên quan