Vốn là một trong những yêu cầu hàng đầu cho việc đầu tư, xây dựng, nó càng trở nên quan trọng hơn khi đất nước chúng ta đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn, Hiện nay chúng ta đã có tương đối nhiều các tổ chức kinh tế làm nhiệm vụ huy động vốn, tuy nhiên các ngân hàng thương mại luôn đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động này, là một trong các ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT ) đã đạt được nhiều thành tựu trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Góp phần đáng kể vào những thành công trong hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT là Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp. Tuy nhiên để đáp ứng được xu hướng phát triển của tương lai cũng như là mục tiêu phát triển của NHNo&PTNT thì việc phát huy các mặt đã làm được đồng thời tìm ra các hạn chế còn tồn tại và đưa ra các giải pháp khắc phục là vô cùng cần thiết. Qua một thời gian thực tập tại Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt nam. Em nhận thấy mình cần phải tìm hiêủ nhiều hơn về hoạt động huy động vốn, môt hoạt động quan trọng của ngân hàng, Do vậy Em đã mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam”.
72 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1168 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
SỰ CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Vốn là một trong những yêu cầu hàng đầu cho việc đầu tư, xây dựng, nó càng trở nên quan trọng hơn khi đất nước chúng ta đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn, Hiện nay chúng ta đã có tương đối nhiều các tổ chức kinh tế làm nhiệm vụ huy động vốn, tuy nhiên các ngân hàng thương mại luôn đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động này, là một trong các ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT ) đã đạt được nhiều thành tựu trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Góp phần đáng kể vào những thành công trong hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT là Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp. Tuy nhiên để đáp ứng được xu hướng phát triển của tương lai cũng như là mục tiêu phát triển của NHNo&PTNT thì việc phát huy các mặt đã làm được đồng thời tìm ra các hạn chế còn tồn tại và đưa ra các giải pháp khắc phục là vô cùng cần thiết. Qua một thời gian thực tập tại Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt nam. Em nhận thấy mình cần phải tìm hiêủ nhiều hơn về hoạt động huy động vốn, môt hoạt động quan trọng của ngân hàng, Do vậy Em đã mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam”.
MỤC TIÊU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:
Qua nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn để đề xuất một số giải pháp huy động vốn phù hợp với đặc điểm và mục tiêu hoạt động của Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt nam nhằm khai thác tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế, xã hội trong một vài năm tới. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tương đối rộng, đề cập đến tình hình huy động vốn tại Sở giao dịch với các kỳ hạn ngắn, trung, dài hạn đối với các đồng tiền nội tệ và ngoại tệ.
III. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Căn cứ vào các số liệu thực tế để đánh giá, phân tích tình hình huy động vốn tại Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt nam trong 3 năm (2000 – 2002 ) từ đó tìm ra các mặt đã làm được, những hạn chế còn tồn tại và tìm ra nguyên nhân của các hạn chế đó sau đó đưa ra các giải pháp khắc phục. Bên cạnh đó các giải pháp đưa ra còn phải dựa trên những lý thuyết về tài chính, tiền tệ và ngân hàng cũng như mục tiêu hoạt động của Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt nam trong những năm tiếp theo để các giải pháp đó phù hợp với thực thiễn hoàn toàn có thể thực hiện được trong thời gian tới.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của TS.Nguyễn Thị Thu Thảo cùng toàn thể các cô chú, anh chị công tác tại Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt nam đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1.Khái niệm và đặc điểm của ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại đã có quá trình hình thành và phát triển rất lâu đời.Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về ngân hàng thương mại. Sở dĩ các nhà nghiên cứu, các nhà kinh doanh chưa nhất trí với nhau về định nghĩa ngân hàng thương mại là do hoạt động của ngân hàng thương mại rất đa dạng, các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại lại phức tạp, hơn nữa tập quán pháp luật của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ cũng khác nhau dẫn đến quan niệm về ngân hàng thương mại không đồng nhất giữa các vùng, các quốc gia trên thế giới. Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam được Quốc hội Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997 “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.”. Trong đó “ tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dụng chủ yếu là nhận tiền gửi và sử dụng tiền gứi để cấp tín dụng cung ứng các dịch vụ thanh toán.”
Để hiểu rõ hơn về khái niệm ngân hàng thương mại, chúng ta hãy tìm hiểu những đặc điểm của nó. Trước hết, ngân hàng thương mại là một doanh nghiiệp kinh doanh, vì vậy hoạt động của nó cũng nhằm mục tiêu là thu được lợi nhuận. Song hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là một loại kinh doanh đặc thù với đối tượng kinh doanh chủ yếu là quyền sử dụng khoản tiền tệ của ngân hàng thương mại có đặc tính phi vật chất, hay nói cách khác ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ và hoạt động của nó gắn liền với quá trình vận động và lưu thông tiền tệ. Trong quá trình hoạt động của mình, ngân hàng tìm cách huy động, tập trung những nguuồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế bằng cách đưa ra những lợi ích và những tiện ích cho người có tiền nhàn rỗi và từ nguồn vốn đó, ngân hàng tìm cách đầu tư có lợi nhất để bù đắp các khoản chi phí và thu được lợi nhận. Cũng xuất phát từ hoạt động đó, ngân hàng thương mại quản lý một khối lượng lớn nguồn vốn của xã hôị và chịu nhiều rủi ro, đồng thời mang tính xã hội sâu sắc.
Ngoài đặc điểm là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, ngân hàng thương mại còn mang đặc điểm của một trung gian tài chính điển hình. Vai trò trung gian tài chính của ngân hàng thương mại được thể hiện rõ trên hai phương diện: ngân hàng thương mại là trung gian giữa người có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi với người cần vốn, đồng thời còn là trung gian giữa Ngân hàng Trung ương vói công chúng và nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là trung gian giữa người có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi với người cần vốn tạo điều kiện cho cung và cầu về nguồn vốn gặp nhau. Trong nền kinh tế luôn tồn tại những người có những khoản tiền tạm thợi nhàn rỗi chưa dùng đến hay để dành cho những nhu câu chi tiêu sau này, đồng thời cũng có những người có những cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng hiện tại. Tuy nhiên cung và cầu về nguồn vốn này không phải bao giờ cũng dễ dàng gặp được nhau trực tiếp và phù hợp với nhau do khác nhau không những về không gian mà còn về khối lượng, thời hạn của những nguồn vốn đó. Người có tiền nhàn rỗi muốn cho mựơn quyền sử dụng nguồn vốn đố để thu được khoản tiền sinh lợi nhưng chỉ trong số tiền họ có và trong khoảng thời gian tạm thời nhàn rỗi. Trong khi đố người cần vốn lại cần khoản vốn với thời hạn phù hợp với mục đích sử dụng của họ thường có số lượng và thời hạn khác. Hoạt động của ngân hàng thương mại giải quyết được mâu thuẫn này thông qua hoạt động tập trung huy động vốn tạm thời nhàn rỗi đem đầu tư cho vay. Thông qua cầu nối ngân hàng thương mại đã chuyển những nguồn vốn có thời hạn, số lượng khác nhau thành nhũng nguồn vốn phù hợp với nhu cầu của ngưòi cần vốn mặc dù người có tiền nhàn rỗi và người có nhu cầu về vốn không cần trực tiếp gặp nhau. Vì vậy ngân hàng thương mạik đóng vai trò trung gian giữa người có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi và người có nhu cầu về vốn.
Ngân hàng thương mại không chỉ là trung gian giữa người có nguồn vốn tạm thời nhà rỗi với người cần vốn mà còn là trung gian giưã ngân hàng Trung ương với công chúng và nền kinh tế. Ngân hàng Trung ương là ngân hàng của các ngân hàng, là cơ quan tổ chức điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, bằng các công cụ của mình như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất, cửa sổ chiết khấu..đã tác động đến hoạt dộng của ngân hàng thương mại và ngân hàng thương mại đã chuyển tiếp tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế . Ngược lại, hoạt dộng của các ngân hàng thương mại cũng phản hồi lại Ngân hàng Trung ương những thông tin của nền kinh tế để làm cơ sở cho Ngân hàng Trung ương đề ra và chỉ đạo chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và kiểm soát lạm phát phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước trong những thời kỳ nhất định.
2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại:
Cùng với sự phát triển của ngân hàng thương mại thì các hoạt động và dịch vụ của ngân hàng thương mại ngày càng được mở rộng. Song nhìn chung lại, hoạt động của ngân hàng thương mại bao gồm ba hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động trung gian.
2.1.Hoạt động huy động vốn:
Là hoạt động khởi đầu của các hoạt động khác của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại bản chất là một trung gian tài chính có đặc điểm hoạt động chủ yếu không phải bằng nguồn vốn chủ sở hữu, vì vậy nguồn vốn hoạt động, cung cấp vốn cho nền kinh tế thì ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, ngân hàng thương mại phải huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua các hoạt động nhận tiền gửi, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, đi vay các tổ chức tín dụng khác hay từ Ngân hàng Trung ương.
2.2.Hoạt động sử dụng vốn:
Sau khi huy động được vốn, để bù đắp chi phí huy động vốn và có lợi nhận thì ngân hàng thương mại phải tìm cách sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn này để thu lãi. Đây là hoạt động chủ yếu và đem lại tỷ trọng thu nhập lớn nhất cho ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại sủ dụng vốn theo các hướng cơ bản là hoạt động tín dụng, đầu tư chứng khoán, đầu tư mua sắm tài sản cố định và trang thiết bị, hoạt động ngân quỹ trong đó hoạt động tín dụng là quan trọng nhất bởi nó đem lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng.
2.3.Các hoạt động trung gian của ngân hàng thương mại
Các hoạt động trụng gian của ngân hàng bao gồm hoạt động thanh toán, hoạt động quản lý tài sản cho khách hàng, hoạt động phát hành chứng khoán, hoạt động mua bán và bảo quản chứng khoán, hoạt động cung cấp thông tin, tư vấn kinh doanh và quản trị doanh nghiệp…Các hoạt động trung gian này thường đem lại thu nhập từ 20%-30% thu nhập cho ngân hàng, sự đa dạng của các dịch vụ là thước đo sự phát triển của ngân hàng hiện đại, việc phát triển các hoạt động trung gian có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao thu nhập, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Trên đây là ba nhóm hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại, mỗi hoạt động có những đặc điểm khác nhau song có quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Vì vậy đối với các nhà quản trị ngân hàng, không được coi nhẹ hoạt động nào mà phải luôn đặt mối quan hệ giữa chúng trong khi đề ra chiến lược cũng như lập kế hoạch kinh doanh để đạt được hiệu quả trong hoạt động.
3. Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường ngân hàng thương mại có 3 vai trò : Ngân hàng thương mại là thủ quỹ của doanh nghiệp, ngân hàng thương mại có vai trò tạo tiền và vai trò là trung gian tài chính, trung gian tín dụng.
3.1.Ngân hàng thương mại đóng vai trò là thủ quỹ của doanh nghiệp:
Ngân hàng thương mại đóng vai trò như một thủ quỹ cho các doanh nghiệp, với các ưu thế về công nghệ và nhân sự, chuyên môn của mình, ngân hàng đảm đang vai trò này tốt hơn các tổ chức khác. Vai trò thủ quỹ cho các doanh nghiệp bao gồm như: giữ tiền hộ , thanh toán hộ, cho vay các doanh nghiệp .
Các doanh nghiệp thường có các quan hệ thường xuyên với một vài ngân hàng,ngân hàng thực hiện giữ tiền cho doanh nghiệp qua việc doanh nghiệp mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho ngân hàng. Khi cần thanh toán, ngân hàng có thể thực hiện thanh toán hộ như thanh toán chuyển khoản, thanh toán uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thanh toán séc. Vì trong quá trình sản xuất kinh doanh, có khi doanh nghiệp thừa vốn tạm thời, có khi thiếu vốn, các doanh nghiệp có thể vay vốn từ ngân hàng, chiết khấu các thương phiếu…
Với các chức năng này, ngân hàng đã tạo ra các tiện ích cho doanh nghiệp , giảm chi phí hoạt động đẩy nhanh quá trình chuyên môn hoá, phân công lao động xã hội
3.2.Vai trò tạo tiền của ngân hàng thương mại:
Chức năng tạo tiền được thông qua các hoạt động tín dụng và đầu tư của ngân hàng thương mại trong mối quan hệ với hệ thống dự trữ quốc gia( dự trữ bắt buộc từ ngân hàng trung ương) . Sức mạnh của hệ thống ngân hàng thương mại nhằm tạo tiền mang ý nghĩa to lớn. Hệ thống tín dụng năng động là điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế theo hệ số tăng trưởng vững chắc, ngược lại hệ thống tín dụng không tạo được tiền để mở rộng thì sẽ dẫn đến làm mất hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh. Để hiểu rõ hơn về chức năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại chúng ta sẽ đi vào ví dụ Khi một Ngân hàng thương mại bất kỳ cấp vốn tín dụng cho khách hàng A, lập tức số tiền này có thể được chuyển thành tiền gửi của khách hàng B (Mở tại một Ngân hàng thương mại bất kỳ ), Ngân hàng thương mại này lại dùng nguồn vốn này để cho vay các đối tượng khác, như vậy từ một đồng vốn ký thác ban đầu, hệ thống Ngân hàng thương mại có thể tạo ra một số vốn tín dụng lớn hơn rất nhiều lần, tạo ra bội số tín dụng. Đây chính là khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại. Để kiểm soát khả năng này, luật pháp cho phép ngân hàng Nhà nước được quyền buộc các ngân hàng thương mại phải ký gửi tại ngân hàng Nhà nước một phần của tổng số tiền họ nhận được từ nền kinh tế, gọi là khoản dự trữ bắt buộc. (DTBB).
Theo lý thuyết tạo tiền: khi một lượng tiền tăng lên, khả năng cho vay của toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại sẽ tăng lên rất nhiều lần. Ngược lại, khi bớt đi một lượng tiền gửi, khả năng cho vay của toàn hệ thống ngân hàng thương mại sẽ giảm đi nhiều lần. Cụ thể:
Khả năng mở rộng tiền gửi = Số tiền gửi huy động . Hệ số nhân
của ngân hàng ban đầu mở rộng tiền tệ
Hệ số nhân mở rộng tiền tệ = 1/ tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Chức năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại liên quan chặt chẽ với chính sách tiền tệ cuả ngân hàng nhà nước. Thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, ngân hàng Nhà nước có thể tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng bằng cách thay đổi dự trữ bắt buộc.
3.3.Ngân hàng thương mại có vai trò là trung gian tài chính, trung gian tín dụng
Ngân hàng thương mại cung cấp các dịch vụ ngân hàng, các dịch vụ tư vấn cho các cá nhân và doanh nghiệp dựa vào các ưu thế riêng có về công nghệ, nhân sự, về thu thập và xử lý thông tin của mình.
Trong nền kinh tế, do các đơn vị kinh tế có nhu cầu về tiền, vốn vào thời điểm khác nhau là khác nhau, gây ra hiện tượng thừa, thiếu tạm thời. Ngân hàng thương mại là người trung gian có vai trò chuyển đổi kỳ hạn nợ, thay đổi thời kỳ đáo hạn của các khoản, các món nợ
Trong nền kinh tế luôn tồn tại những người nhàn rỗi, muốn kiếm lời nhưng lại không có cơ hội đầu tư, hoặc không có khả năng chịu đựng rủi ro, vì vậy cách tốt nhất là nên gửi tiền vào ngân hàng. Bên cạnh những người đó còn tồn tại những người có nhu cầu về vốn nhưng không gặp được những người thừa vốn kia nên cách tốt nhất là nên đến hỏi vay ngân hàng. Ngân hàng đã giải quyết được rủi ro, giải quyết mâu thuẫn giữa người tiết kiệm và người đi vay
Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế là rất lớn, muốn phát triển kinh tế, hệ thống ngân hàng phải phát triển, thậm chí hệ thống ngân hàng phải đi trước một bước. Muốn phát triển kinh tế trước hết phải phát triển hệ thống ngân hàng.
Khi nói về vai trò của ngân hàng thương mại còn có nhiều cách phân chia khác. Người ta có thể phân chia ngân hàng thương mại qua các vai trò sau: tạo tiền, cơ chế thanh toán và huy động tiết kiệm, mở rộng tín dụng, tạo điều kiện tài trợ ngoại thương, dịch vụ uỷ thác, cất giữ các vật có giá….
II. NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Khi bàn về nguồn vốn của ngân hàng thương mại , chúng ta có nhiều cách tiếp cận khác nhau, có nhiều cách phân chia nguồn vốn ngân hàng thương mại khác nhau. Có thể phân chia nguồn vốn theo thời gian( ngắn hạn, dài hạn) , phân chia theo loại tiền ( nội tệ, ngoại tệ) , hoặc theo đặc điểm của nguồn( tiền nợ , tiền vay) nhưng ta có thẻ tiếp cận theo bảng tổng kết tài sản. Theo bảng tổng kết tài sản thì nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
Bảng 1 : Bảng tổng kết tài sản của ngân hàng thương mại
Nguồn vốn
Tài sản
Tiền gửi
Tiền vay
Vốn chủ sở hữu
Nguồn khác
Dự trữ
Các chứng khoán
Cho vay
Tài sản khác
1.1.Tiền gửi:
Tiền gửi của ngân hàng tạo ra từ dịch vụ ngân hàng cung cấp, đó là dịch vụ nhận gửi tiền.
*Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán hay còn gọi là tiền gửi có thể phát séc (tiền gửi giao dịch, tiền gửi theo yêu cầu). Tiền gửi thanh toán gửi vào ngân hàng nhằm sử dụng các tiện ích do ngân hàng cung cấp như thanh toán hộ, chi trả hộ, thu hộ. Ngân hàng thương mại buộc các khách hàng muốn được ngân hàng cung cấp các loại dịch vụ ngân hàng thì cần phải có một lượng tiền kí quỹ tối thiểu, điều này giúp cho ngân hàng có thể sử dụng lượng vốn này. Tiền gửi thanh toán có số dư tại ngân hàng, thời kì đầu có thể bị thu phí, về sau để khuyến khích khách hàng gửi tiền, ngân hàng không thu phí cho các số dư. Về sau, các ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau, từ việc thu phí, đến không thu phí, ngân hàng thương mại còn trả lãi cho các số dư tại ngân hàng. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng ở tài khoản này không nhằm mục đích thu lãi, mà là sử dụng các tiện ích do các ngân hàng cung cấp. Ngân hàng thường trả lãi rất thấp cho số dư từ tài khoản tiền gửi thanh toán vì vậy chi phí huy động vốn thấp. Đây là ưu điểm của nguồn vốn này. Đây là nguồn vốn có chi phí huy động thấp nhất. Nhưng tính ổn định của nó là thấp nhất, do khách hàng gửi vào đây với mục đích thanh toán nên họ có thể rút ra để chi trả, thanh toán bất cứ lúc nào, mà ngân hàng không được phép từ chối. Biến động của tiền gửi thanh toán phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời vụ, hoặc địa bàn hoạt động của ngân hàng. Để đo độ biến động phức tạp của nguồn vốn này, ta có thể đo tần suất biến động hoặc số vòng quay, hoặc dựa vào các con số thống kê trong lịch sử mà ngân hàng đưa ra kết luận. Sử dụng nguồn vốn tiền gửi thanh toán là ngân hàng phải thận trọng, nếu không rủi ro chi trả sẽ xảy ra, điều này có thể làm giảm uy tín của ngân hàng, hoặc phải tốn quá nhiều chi phí để đi vay, thậm chí có thể là bị phá sản. Để huy động tiền gửi thanh toán , ngân hàng thương mại cần khuyến khích các cá nhân và tổ chức kinh tế mở tài khoản. Lãi suất đôi khi cũng không phải là yếu tố quan trọng, mà ngân hàng cần chú ý tới những tiện ích và dịch vụ do ngân hàng đem lại cho khách hàng.
*Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn (thường chiếm khoảng 40% tổng số tiền gửi) là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi tiền. Trong khoảng thời gian thỏa thuận đó, ngân hàng tùy ý sử dụng số tiền do khách hàng ký gửi, khi khách hàng cần rút tiền thì phải báo trước cho ngân hàng và phải được sự đồng ý của ngân hàng. Tiền gửi có kỳ hạn do các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội tạo ra, từ các quỹ như quỹ khấu hao, quỹ đầu tư, từ các nguồn thu nhập của doanh nghiệp. Khi họ biết trước được thời điểm sử dụng tiền, họ gửi những khoản tiền nhàn rỗi này vào ngân hàng nhằm mục đích thu lợi và an toàn. Ngân hàng thường phải trả lãi cao cho số dư tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, nên chi phí huy động thường cao, nhưng bù lại, tính ổn định lại cao. Ngân hàng có thể yên tâm sử dụng mà không sợ bị rủi ro về chi trả.
Việc huy động tiền gửi có kỳ hạn là nguồn có chi phí cao song ổn định. Vì vậy, lãi suất cho số dư tiền gửi là rất có ý nghĩa cho việc huy động vốn ở ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại có thể tăng lượng vốn bằng cách tăng lãi suất cho số dư ở tài khoản tiền gửi có kỳ hạn.
*Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm do dân cư gửi vào ngân hàng với mục đích an toàn và sinh lợi. Đây là loại tiền gửi có tỷ trọng cao nhất trong tổng số tiền gửi của ngân hàng. Người gửi tiền nhằm mục đích thu lợi, vì vậy lãi suất là yếu tố rất được người gửi tiền quan tâm. Lãi suất huy động tỷ lệ thuận với thời gian gửi tiền sẽ khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn dài hơn.
Lãi suất chi trả cho tiền gửi tiết kiệm là cao nhất, huy động nguồn vốn này sẽ có chi phí huy động lớn nhất. Song tiền gửi tiết kiệm lại rất ổn định, ổn định nhất trong các loại tiền gửi. Để huy động nguồn vốn này, ngân hàng cần chú ý tới nhu cầu tiết kiệm từ dân cư, lượng tiền gửi ph