Chuyên đề Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thăng Long

Cách đây khoảng 20 năm về trước, khái niệm “cho vay tiêu dùng” còn “khá mới” đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam, nhưng chỉ một vài năm trở lại đây, hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành mục tiêu của nhiều TCTD. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, nhu cầu chi tiêu phục vụ đời sống cũng ngày một tăng lên. Tuy nhiên, phần lớn người tiêu dùng không thể chi trả cho tất cả nhu cầu mua sắm cùng lúc, đặc biệt là các vật dụng có giá trị lớn. Thực tế này phát sinh nhu cầu “vay tiêu dùng” và các ngân hàng thương mại chính là nơi cung cấp dịch vụ đó. Cho vay tiêu dùng ra đời tạo điều kiện để người dân có thể thỏa mãn nhu cầu của mình trước khi có khả năng thanh toán, đồng thời mang lại nhiều lợi ích cho xã hội như tăng sức mua, tăng tốc độ chu chuyển hàng hóa trên thị trường v.v đồng thời tạo nguồn thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Tuy cho vay tiêu dùng đã thu hút được một số lượng lớn khách hàng nhưng tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong hoạt động cho vay còn thấp cả về doanh số cho vay lẫn dư nợ. Nếu như ở các nước phát triển, tỷ trọng cho vay tiêu dùng thường chiếm khoảng từ 40% đến 50% trên tổng dư nợ tín dụng thì tỷ lệ này của các TCTD Việt Nam hiện chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 5% trên tổng dư nợ tín dụng. Qua đó cho thấy, tốc độ phát triển kinh tế mạnh như hiện nay và số dân trên 82 triệu người đang mở ra thị trường cho vay tiêu dùng vô cùng rộng lớn và đầy tiềm năng. Chính vì vậy, hoạt động cho vay tiêu dùng cần được các ngân hàng thương mại đẩy mạnh hơn nữa trong thời gian tới, trở thành kênh kết nối hiệu quả giữa nguồn vốn huy động được với nhu cầu bị giới hạn bởi khả năng thanh toán của người tiêu dùng, từ đó tạo lợi nhuận cho chính ngân hàng và đóng góp cho sự phát triển chung của toàn xã hội. - Xu hướng ngày nay cho thấy, ngân hàng nào nắm bắt được cơ hội mở rộng việc cung cấp dịch vụ ngân hàng bán lẻ cho một số lượng khổng lồ dân cư đang “đói” các dịch vụ tài chính tại các nước có nền kinh tế mới nổi, sẽ trở thành những gã khổng lồ toàn cầu trong tương lai. Không nói đến vấn đề trở thành gã khổng lồ hay không nhưng rõ ràng việc nâng cao hiệu quả cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng trở thành một vấn đề rất đáng quan tâm của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Long. Chính vì vậy trên cơ sở những kiến thức được trang bị trong quá trình học tập và nghiên cứu, từ những bài học thực tiễn trong quá trình thực tập tại NHNo& PTNT Thăng Long em đã chọn đề tài “Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thăng Long” để hoàn thành chuyên đề thực tập. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của chuyên đề được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về cho vay tiêu dùng trong ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại NHNo& PTNT Thăng Long. Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại NHNo& PTNT Thăng Long. Do hạn chế về thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm nên phạm vi đề tài chỉ giới hạn trong việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHNo& PTNT Thăng Long những năm gần đây và giải pháp đẩy mạnh hoạt động này trong những năm tới. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cô chú, anh chị công tác tại phòng Tín dụng NHNo& PTNT Thăng Long đã giúp đỡ em hoàn thành báo cáo thực tập này.

doc68 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Cách đây khoảng 20 năm về trước, khái niệm “cho vay tiêu dùng” còn “khá mới” đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam, nhưng chỉ một vài năm trở lại đây, hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành mục tiêu của nhiều TCTD. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, nhu cầu chi tiêu phục vụ đời sống cũng ngày một tăng lên. Tuy nhiên, phần lớn người tiêu dùng không thể chi trả cho tất cả nhu cầu mua sắm cùng lúc, đặc biệt là các vật dụng có giá trị lớn. Thực tế này phát sinh nhu cầu “vay tiêu dùng” và các ngân hàng thương mại chính là nơi cung cấp dịch vụ đó. Cho vay tiêu dùng ra đời tạo điều kiện để người dân có thể thỏa mãn nhu cầu của mình trước khi có khả năng thanh toán, đồng thời mang lại nhiều lợi ích cho xã hội như tăng sức mua, tăng tốc độ chu chuyển hàng hóa trên thị trường v.v…đồng thời tạo nguồn thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Tuy cho vay tiêu dùng đã thu hút được một số lượng lớn khách hàng nhưng tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong hoạt động cho vay còn thấp cả về doanh số cho vay lẫn dư nợ. Nếu như ở các nước phát triển, tỷ trọng cho vay tiêu dùng thường chiếm khoảng từ 40% đến 50% trên tổng dư nợ tín dụng thì tỷ lệ này của các TCTD Việt Nam hiện chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 5% trên tổng dư nợ tín dụng. Qua đó cho thấy, tốc độ phát triển kinh tế mạnh như hiện nay và số dân trên 82 triệu người đang mở ra thị trường cho vay tiêu dùng vô cùng rộng lớn và đầy tiềm năng. Chính vì vậy, hoạt động cho vay tiêu dùng cần được các ngân hàng thương mại đẩy mạnh hơn nữa trong thời gian tới, trở thành kênh kết nối hiệu quả giữa nguồn vốn huy động được với nhu cầu bị giới hạn bởi khả năng thanh toán của người tiêu dùng, từ đó tạo lợi nhuận cho chính ngân hàng và đóng góp cho sự phát triển chung của toàn xã hội. - Xu hướng ngày nay cho thấy, ngân hàng nào nắm bắt được cơ hội mở rộng việc cung cấp dịch vụ ngân hàng bán lẻ cho một số lượng khổng lồ dân cư đang “đói” các dịch vụ tài chính tại các nước có nền kinh tế mới nổi, sẽ trở thành những gã khổng lồ toàn cầu trong tương lai. Không nói đến vấn đề trở thành gã khổng lồ hay không nhưng rõ ràng việc nâng cao hiệu quả cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng trở thành một vấn đề rất đáng quan tâm của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Long. Chính vì vậy trên cơ sở những kiến thức được trang bị trong quá trình học tập và nghiên cứu, từ những bài học thực tiễn trong quá trình thực tập tại NHNo& PTNT Thăng Long em đã chọn đề tài “Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thăng Long” để hoàn thành chuyên đề thực tập. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của chuyên đề được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về cho vay tiêu dùng trong ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại NHNo& PTNT Thăng Long. Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại NHNo& PTNT Thăng Long. Do hạn chế về thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm nên phạm vi đề tài chỉ giới hạn trong việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHNo& PTNT Thăng Long những năm gần đây và giải pháp đẩy mạnh hoạt động này trong những năm tới. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cô chú, anh chị công tác tại phòng Tín dụng NHNo& PTNT Thăng Long đã giúp đỡ em hoàn thành báo cáo thực tập này. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động chính của ngân hàng thương mại. 1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật (Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12) Theo luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: a) Nhận tiền gửi; b) Cấp tín dụng; c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. 1.1.2. Đặc điểm - NHTM là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ vì mục tiêu lợi nhuận - Hoạt động kinh doanh của NHTM được phân vào nhóm hoạt động kinh doanh có mức độ rủi ro cao - Sự tồn tại của NHTM phụ thuộc nhiều vào sự tin tưởng của khách hàng - Các NHTM chịu ảnh hưởng dây chuyền với nhau 1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại. 1.2.1. Sự hình thành hoạt động cho vay tiêu dùng. Cho vay đối với người tiêu dùng được thực hiện để tài trợ cho chính sự tiêu dùng, đây là một trong những xu hướng đang tăng nhanh trong gần hai thập kỷ qua. Cho vay tiêu dùng được hình thành đầu tiên từ các hãng bán lẻ do yêu cầu đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa với hình thức đầu tiên là bán trả góp. Trong quá trình bán trả góp, một số hãng thiếu hụt vốn lưu động đã phải đi vay ngân hàng. Thêm vào đó, nhu cầu tiêu dùng gia tăng mạnh mẽ gắn liền với nhu cầu về hàng tiêu dùng như nhà cửa, xe hơi, đi du lịch, v.v… đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng trong các ngân hàng thương mại.Hoạt động tín dùng tiêu dùng của ngân hàng thương mại xuất hiện nhằm đáp ứng nhu cầu của cả người tiêu dùng và nhà sản xuất. Hơn nữa, sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại đòi hỏi các ngân hàng phải tạo ra các sản phẩm mới hấp dẫn thu hút khách hàng. Cho vay tiêu dùng chính là một sản phẩm hiện đại, là một công cụ giúp các ngân hàng thương mại thu hút được những khách hàng cá nhân. Như vậy có thể thấy rằng cho vay tiêu dùng được hình thành từ việc dung hòa hai mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán hiện tại, mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Cho vay tiêu dùng là một sản phẩm hiện đại phù hợp với nhu cầu phát triển của nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại. 1.2.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại cho vay tiêu dùng. 1.2.2.1. Khái niệm. Nhu cầu tín dụng được biểu hiện cụ thể qua các mục đích chủ yếu như: mua, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp nhà ở; mua sắm xe hơi, xe máy…; mua sắm các đồ dùng sinh hoạt như: đồ gỗ, các phương tiện thông tin và các dụng cụ sinh hoạt khác; các chi phí cho hôn lễ, nghỉ ngơi, v.v… Xuất phát từ đối tượng của tín dụng tiêu dùng và dựa trên khái niệm chung về cho vay, ta có thể hiểu cho vay tiêu dùng như sau: Cho vay tiêu dùng là quan hệ kinh tế giữa một bên là ngân hàng và một bên là cá nhân người tiêu dùng, trong đó ngân hàng chuyển giao tiền cho khách hàng sử dụng với nguyên tắc khách hàng sẽ hoàn trả cả gốc và lãi tại một thời điểm nhất định trong tương lai, nhằm giúp khách hàng có thể sử dụng hàng hóa, dịch vụ trước khi họ có khả năng thanh toán. 1.2.2.2. Đặc điểm cho vay tiêu dùng: Hoạt động cho vay tiêu dùng có những đặc điểm khác so với cho vay thông thường của ngân hàng: + Khách hàng vay là cá nhân và các hộ gia đình. + Mục đích vay nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình không phải xuất phát từ mục đích kinh doanh. Do đó phụ thuộc vào nhu cầu, tính cách của từng đối tượng khách hàng và chu kỳ kinh tế của người đi vay. + Quy mô mỗi món vay nhỏ nhưng tổng số các món vay thì lại lớn. Do khách hàng vay để mua sắm các vật dụng nên số tiền vay thường không lớn, thậm chí là nhỏ, không giống với các món vay kinh doanh. Tuy nhiên, tổng dư nợ cho vay tiêu dùng tại ngân hàng lại tương đối lớn do đây là nhu cầu đa dạng và khá phổ biến với mọi tầng lớp dân cư. + Về lãi suất, do quy mô các khoản vay tiêu dùng thường nhỏ (trừ các khoản vay để mua bất động sản), dẫn đến chi phí để cho vay cao, do vậy lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn lãi suất cho vay thương mại. Có thể đưa ra công thức tính tổng quát như sau: Lãi suất cho vay tiêu dùng = Chi phí huy động vốn + Chi phí hoạt động khác + Rủi ro tổn thất dự kiến + Phần bù kỳ hạn với các khoản cho vay dài hạn + Lợi nhuận cận biên + Chi phí bỏ để hoàn thành một khoản cho vay tiêu dùng lớn. Trong cho vay tiêu dùng, quy mô mỗi món vay nhỏ, thời gian dài, số lượng các món vay lại lớn, các thông tin về khách hàng lạ thường không đầy đủ và chính xác hoàn toàn, do vậy NH mất nhiều thời gian và công sức kể từ khi tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng đến lúc thu hồi nợ. + Nguồn trả nợ của khách hàng được trích từ thu nhập, không nhất thiết phải là từ kết quả của việc sử dụng những khoản vay đó. + Độ rủi ro trong các món cho vay tiêu dùng thường cao vì ngoài các yếu tố khách quan còn có yếu tố chủ quan từ bản thân người vay. 1.2.2.3. Phân loại cho vay tiêu dùng. Cho vay tiêu dùng được phân chia thành các loại khác nhau tùy thuộc vào những tiêu thức khác nhau: * Căn cứ mục đích vay: Cho vay tiêu dùng cư trú: là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình. Cho vay tiêu dùng phi cư trú: là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống nưh mua sắm phưong tiện, đồ dùng, du lịch, học hành hoặc giải trí ... * Căn cứ hình thức -Cho vay tiêu dùng gián tiếp: là hình thức cho vay trong đó NH mua các khoản nợ phát sinh của các DN đã bán chịu hàng hóa hoặc đã chu cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng. Hình thức CVTD này được thực hiện bằng 1 trong hai cách: Cách 1: NH, người bán và người mua hàng phải thỏa thuận với nhau về số tiền vay, mức và thời hạn trả dần, sau đó NH cho người mua hàng vay phần tiền chưa trả đủ cho người bán để giao cho người bán và giữ lại quyền sở hữu tài sản cho đến khi người mua trả góp đủ. Có thể mô tả như sau: Người mua Người bán NHTM (5) (1) (2) (3) (4) Trong đó: 1) Người mau trả trước 20%-30% giá trị của tài sản. 2) Người bán giao tài sản cho người mua đồng thời giữ lại quyền sở hữu tài sản. 3) Người bán giao quyền sở hữu tài sản cho NH làm thế chấp và phiếu bán hàng. 4) NH trả phần tiền còn thiếu cho người bán. 5) Người mua trả góp cho NH theo mức và kỳ hạn được xác định trước. Cách2: được thực hiện tương tự như cách 1 về thời hạn và mức trả dần nhưng khác ở một số điểm là: người bán giao tài sản và giao sở hữu, người bán và người mua thực hiện hành vi mua bán chịu tài sản nên xuất hiện kỳ phiếu, NH chiết khấu kỳ phiếu cho người bán. Có thể miêu tả như sau: Người mua Người bán NHTM (5) (1) (4) (2) (3) Trong đó: 1, Người mua chịu hàng hóa và có kì phiếu cho người bán 2, Người mua kí quỹ 20%-30% giá trị tào sản và cam kết thế chấp tài sản. 3, NH chiết khấu kì phiếu từ người bán. 4, Người bán giao tài sản và quyền sở hữu cho người mua. 5, Người mua tiến hành trả góp cho NH theo mức và kỳ hạn được xác định trước. -Cho vay tiêu dùng trực tiếp: là các khoản CVTD trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ khách hàng. Trong CVTD trực tiếp thường có ba bên: ngân hàng, khách hàng, doanh nghiệp bán lẻ. Khách hàng thường trả trước một phần số tiền mua tài sản cho doanh nghiệp bán lẻ, phần còn lại ngân hàng sẽ thanh toán khi hợp đồng tín dụng được ký kết. Sau khi doanh nghiệp bán lẻ giao tài sản, khách hàng sẽ có nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng. Tín dụng tiêu dùng trực tiếp bao gồm các phương thức: Tín dụng trả theo định kỳ: là phương thức trong đó khách hàng vay và trả trực tiếp ngân hàng với mức trả và thời hạn trả mỗi lần được quy định khi cho vay. Thấu chi: Là nghiệp vụ cho phép một cá nhân rút tiền từ tài khoản vãng lai của anh ta vượt số dư có, tới một hạn mức đã được thỏa thuận. Thẻ tín dụng: là nghiệp vụ tín dụng trong đó ngân hàng đủ điều kiện cấp thẻ và ấn định mức giới hạn tín dụng tối đa mà người có thẻ được phép sử dụng. Căn cứ vào phương thức hoàn trả: theo tiêu thức này, CVTD được phân chia thành ba loại: Cho vay tiêu dùng trả góp: là hình thức cvtd trong đó người vay trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng làm nhiều lần theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Khách hàng và ngân hàng chọn phương thức này trong trường hợp khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập của người vay không đủ để thanh toán hết nợ một lần. Trong đó: Kỳ hạn trả nợ: thường được tính theo tháng vì nguồn trả nợ của người vay là tiền lương được nhận hàng tháng của khách hàng. Số tiền trả mỗi kỳ: phải phù hợp với thu nhập và hài hòa với nhu cầu chi tiêu của khách hàng tại thời điểm trả. Số tiền này có thể được tính theo phương pháp lãi gộp hoặc lãi đơn. Số tiền trả 1 kỳ = Tiền gốc x Lãi suất x Thời hạn vay + Tiền gốc Số kỳ hạn phải thanh toán Theo phương pháp lãi gộp, số tiền này được tính bằng cách lấy gốc nhân với lãi suất và thời hạn cho vay, sau đó cộng gộp vào gốc rồi chia cho số kỳ hạn phải thanh toán ở mỗi kỳ hạn nợ. Theo phương pháp lãi đơn thì số tiền trả mỗi kỳ bằng nhau và bằng vốn vay ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh toán, còn lãi trả mỗi kỳ tính trên số tiền gốc mà khách hàng chưa trả ngân hàng. Thời hạn cho vay: Thông thường các khoản cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay ngắn hạn và trung hạn, thời hạn vay bị giới hạn bởi thời gian hoạt động của tài sản tài trợ. Nếu thời gian này quá dài, ngân hàng dễ gặp rủi ro vì giá trị tài sản ngày càng giảm đi, việc thu nợ từ người vay gặp nhiều khó khăn. Cho vay tiêu dùng trả một lần: Là hình thức vay mà khách hàng trả cả gốc và lãi cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Hình thức vay này thường áp dụng với những khoản vay có giá trị nhỏ và thời hạn vay ngắn. Phần lớn các khoản vay này được dùng để chi trả cho các chuyến du lịch, tiền viện phí, mua các dụng cụ gia đình hoặc sửa chữa nhà cửa. Cho vay tiêu dùng luân chuyển: Là các khoản cho vay trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. 1.2.3. Lợi ích của cho vay tiêu dùng. Lợi ích của cho vay tiêu dùng thể hiện trên các mặt sau: * Đối với người tiêu dùng: Lợi ích quan trọng nhất là khách hàng có thể mua hàng hóa dịch vụ trước khi có đủ nguồn tài chính. Trên thực tế, hầu hết người tiêu dùng không có ngay các khoản tiền lớn trong hiện tại mà phải qua tích lũy lâu dài. vì vậy, cho vay tiêu dùng mang lại lợi ích rất lớn khách hàng, giúp họ có thể thỏa mãn nhu cầu hiện tại trong khi túi tiền của họ chưa đủ để thanh toán. * Đối với người sản xuất: Có thể nói cho vay tiêu dùng gián tiếp kích thích người sản xuất cung cấp ngày càng nhiều mặt hàng có nhiều lợi ích cho xã hội. Hình thức cho vay tiêu dùng làm cho người sản xuất có thể yên tâm phần nào vào thị trường tiềm năng mà họ đã dự đoán. * Đối với ngân hàng thương mại: Sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại đòi hỏi các ngân hàng này ngày càng phải tạo ra các sản phẩm hấp dẫn thu hút khách hàng. Cho vay tiêu dùng là một sản phẩm hiện đại, là công cụ giúp các ngân hàng thu hút những khách hàng cá nhân. Cho vay tiêu dùng tạo thói quen cho người dân khi tiếp cận với các dịch vụ, tiện ích ngân hàng; đa dạng hóa các lĩnh vực đầu tư của ngân hàng, do đó vừa nâng cao thu nhập đồng thời phân tán được rủi ro cho ngân hàng. Mặt khác, thông qua cho vay tiêu dùng sẽ mở rộng được quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động vốn của ngân hàng. * Đối với nền kinh tế xã hội: Cho vay tiêu dùng là đòn bẩy quan trọng kích thích nền sản xuất phát triển (kích cầu), tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cho vay tiêu dùng góp phần thực hiện xóa đói giảm nghèo. Ngoài ra, so đặc thù cho vay tiêu dùng là thủ rục tương đối đơn giản, nhanh gọn nên góp phần quan trọng đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi, từ đó giải quyết tốt các mối quan hệ khác trong xã hội. 1.2.4. Quy trình thực hiện một khoản cho vay tiêu dùng. Quy trình thực hiện một khoản cho vay tiêu dùng cũng tương tự như một khoản vay thông thường, tuy nhiên do cho vay tiêu dùng có đặc điểm khác với cho vay thông thường ở chỗ quy mô món vay nhỏ nhưng tổng số các món vay thì lại lớn nên ngân hàng phải có những phương pháp thẩm định khác nhau đối với từng nhóm khách hàng để hạn chế rủi ro. Quy trình đó có thể tóm tắt thành các bước công việc cụ thể như sau: Bước 1: Đánh giá đơn xin vay tiêu dùng. Có thể nói, đánh giá đơn xin vay là khâu quan trọng nhất trong quy trình thẩm định cho vay tiêu dùng. Khi đánh giá một đơn xin vay tiêu dùng thì một cán bộ tín dụng phải tìm hiểu và phân tích các thông tin sau: Đặc điểm và mục đích vay. Yếu tố chính cần được phân tích trong việc xét duyệt một đơn xin vay tiêu dùng là đặc điểm của người vay và khả năng thanh toán của họ. Nhân viên tín dụng phải được đảm bảo rằng những khách hàng vay vốn ý thức rõ ràng về trách nhiệm phải hoàn trả đầy đủ và đúng hạn các khoản nợ. Thêm vào đó, khách hàng phải có mức thu nhập và có các tài sản giá trị. Thông thường thì những đặc điểm cơ bản của những người đi vay được bộc lộ thông qua mục đích của việc vay tiền. Cán bộ tín dụng cần tìm hiểu về mục đích vay tiền hay nói cách khác là việc khách hàng sẽ sử dụng khoản tiền vay đó như thế nào, có gì chứng minh là họ sẽ hoàn trả khoản vay không? Hay khoản vay đó được đảm bảo bằng tài sản gì? Một cán bộ tín dụng lâu năm thường khuyên những người mới vào nghề là nên bỏ thời gian đi gặp từng khách hàng bởi vì qua những cuộc gặp gỡ tiếp xúc trực tiếp như vậy họ sẽ dễ dàng phát hiện ra những biểu hiện gian dối hoặc những nhược điểm trong những tính cách cũng như sự thành thật của người đi vay. Bằng cách đặt ra những câu hỏi về tình trạng tài chính, cán bộ tín dụng có thể xác định được khách hàng đó có đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng hay không, từ đó đưa ra được kết luận đúng đắn về người vay. Tuy nhiên, hiện nay một số ngân hàng lại sử dụng những hệ thống máy móc tự động trong quá trình xét duyệt đơn xin vay. Việc sử dụng các chương trình máy tính như vậy giúp ngân hàng và khách hàng giảm được rất nhiều chi phí về thời gian, lập giấy tờ cũng đơn giản hơn rất nhiều nhưng sẽ dẫn đến tình trạng có nhiều cán bộ tín dụng chỉ biết đến khách hàng mình qua những thông tin trên máy tính, gửi qua fax, hay điện thoại. Việc này sẽ rất nguy hiểm nếu khách hàng có ý định lừa đảo thì cán bộ tín dụng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu hồi nợ cũng như tìm đến khách hàng để thu hồi khoản nợ đó. Mức thu nhập. Với cán bộ tín dụng, mức thu nhập và sự ổn định trong thu nhập là những thông tin quan trọng. Những khách hàng có mức lương cơ bản và mức lương còn lại sau khi nộp thuế cao sẽ được đánh giá cao hơn. Ngoài những thông tin mà khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng còn kiểm tra người chủ cơ quan nơi khách hàng đang làm việc để đánh giá độ chính xác của mức thu nhập, thời gian làm việc, v.v… Sự ổn định về việc làm và nơi cư trú. Hầu hết các ngân hàng đều không muốn cho vay đối với những người mới làm việc được một vài tháng, nhất là những khoản tiền lớn. Vì vậy, cán bộ tín dụng cũng rất quan tâm đến khoảng thời gian làm việc của người vay. Nếu một người thường xuyên thay đổi việc làm và nơi cư trú thì sẽ rất khó được ngân hàng chấp thuận cho vay. Số dư các tài khoản tiền gửi. Số dư tiền gửi trung bình hàng ngày là một tiêu thức gián tiếp về tổng thu nhập và sự ổn định thu nhập của khách hàng. Người cán bộ tín dụng cũng phải kiểm tra con số này qua các ngân hàng có liên quan. Hoạt động đảo nợ. Đây được coi là một tiêu thức về khả năng quản lý tiền vay của khách hàng. Những khách hàng với khả năng quản lý kém có thể rơi vào tình trạng có quá nhiều các khoản nợ và sẽ gặp nhiều rắc rối với ngân hàng. Bước 2: Xét duyệt cho vay. Tương tự như cho vay thông thường, sau khi hướng dẫn khách hàng làm đầy đủ thủ tục cần thiết và tiến hành thẩm định các điều kiện vay vốn theo đúng quy định, cán bộ tín dụng gửi hồ sơ cùng báo cáo thẩm định tới trưởng phòng hoặc trình giám đốc quyết định tùy theo quy định của từng ngân hàng. Bước 3: Cho vay và kiểm soát trong cho vay. Sau khi xét duyệt cho vay thấy đầy đủ các điều kiện cần thiết, ngân hàng sẽ tiến hành giải ngân cho khách hàng. Trong quá trình cho vay tiêu dùng, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành kiểm tra, giám sát quá trình vay, sử dụng vốn của khách hàng có đúng mục đích hay không. Đồng thời, cán bộ tín dụng cũng thường xuyên đôn đốc khách hàng thực hiện đúng và đầy đủ những điều khoản đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Tài liệu liên quan