Đất nước ta từ khi thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa của nền kinh tế,
chuyển nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang
nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định
hướng XHCN đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng và có ý nghĩa ,
được dư luận trong và ngoài nước đánh giá là hết sức đúng đắn .
Đường lối kinh tế của Việt Nam hiện nay là “ tiếp tục phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần , vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ” Trong chiến lược phát triển kinh tế đến năm
2010, mục tiêu mà Đảng và nhà nước ta đặt ra là sự nghiệp công hoá và hiện đại
hoá đất nước . Đây là mục tiêu quan trọng của đất nước ta trong trong quá trình
vươn lên thoát khỏi sự tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế
giới .
Để thực hiện được công nghiệp hoá hiện đại hoá , “ vốn “ là một nhân tố
được đặt lên hàng đầu . Tiềm năng kinh tế nước ta có , nguồn lao động trong nước
lại dồi dào , câu hỏi cấp thiết đặt ra hiện nay là làm sao để có vốn đầu tư khai
thác? Tựu chung lại có hai loại nguồn vốn có thể thu hút : vốn trong nước và vốn
nước ngoài . Trong đó vốn trong nước giữ vai trò chủ yếu , vốn nước ngoài có ý
nghĩa quan trọng. Vốn trong nước rất nhiều nhưng lại có một vấn đề đặt ra: bằng
cách nào để khơi thông, thu hút được ? Thực tế , trong nền kinh tế cạnh tranh hiện
nay, có rất nhiều chủ thể, thông qua các con đường khác nhau có khả năng cung
cấp dẫn vốn đáp ứng nhu cầu về vốn. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận
được là huy động vốn qua các trung gian tài chính - Ngân hàng thương mại
(NHTM) - là kênh quan trọng nhất, có hiệu quả nhất vì trong nền kinh tế , NHTM
được coi là trung gian tài chính lớn nhất, quan trọng nhất. Nền kinh tế của một
nước chỉ phát triển với tốc độ cao và ổn định khi có chính sách tài chính, tiền tệ
đúng đắn và hệ thống ngân hàng hoạt động đủ mạnh, có hiệu quả cao, có khả
- 2 -năng thu hút, tập trung các nguồn vốn và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn vào
các ngành sản xuất.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này , sau một
thời gian thực tập , nghiên cứu tại Chi nhánh Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Bắc Hà Nội, mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về công tác huy
động vốn của chi nhánh , em đã mạnh dạn chọn đề tài : “ Giải pháp nâng cao chất
lượng công tác huy động vốn tại Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Bắc Hà Nội “ là chuyên đề tốt nghiệp.
Đề tài thực hiện gồm có 3 chương:
Chương I: NHTM và hoạt động huy động vốn tại NHTM.
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Hà Nội.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
công tác huy động vốn tại Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Bắc Hà Nội.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo Lê Thanh Tâm và ban
giám đốc cũng như các anh chị trong phòng kế hoạch Chi nhánh NHNo &
PTNTHN Bắc Hà Nội đã hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình, giúp em hoàn thành
chuyên đề này.
60 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1139 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng công tác huy động vốn tại Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Bắc Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 1 -
Lời mở đầu
Đất nước ta từ khi thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa của nền kinh tế,
chuyển nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang
nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định
hướng XHCN đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng và có ý nghĩa ,
được dư luận trong và ngoài nước đánh giá là hết sức đúng đắn .
Đường lối kinh tế của Việt Nam hiện nay là “ tiếp tục phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần , vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ” Trong chiến lược phát triển kinh tế đến năm
2010, mục tiêu mà Đảng và nhà nước ta đặt ra là sự nghiệp công hoá và hiện đại
hoá đất nước . Đây là mục tiêu quan trọng của đất nước ta trong trong quá trình
vươn lên thoát khỏi sự tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế
giới .
Để thực hiện được công nghiệp hoá hiện đại hoá , “ vốn “ là một nhân tố
được đặt lên hàng đầu . Tiềm năng kinh tế nước ta có , nguồn lao động trong nước
lại dồi dào , câu hỏi cấp thiết đặt ra hiện nay là làm sao để có vốn đầu tư khai
thác? Tựu chung lại có hai loại nguồn vốn có thể thu hút : vốn trong nước và vốn
nước ngoài . Trong đó vốn trong nước giữ vai trò chủ yếu , vốn nước ngoài có ý
nghĩa quan trọng. Vốn trong nước rất nhiều nhưng lại có một vấn đề đặt ra: bằng
cách nào để khơi thông, thu hút được ? Thực tế , trong nền kinh tế cạnh tranh hiện
nay, có rất nhiều chủ thể, thông qua các con đường khác nhau có khả năng cung
cấp dẫn vốn đáp ứng nhu cầu về vốn. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận
được là huy động vốn qua các trung gian tài chính - Ngân hàng thương mại
(NHTM) - là kênh quan trọng nhất, có hiệu quả nhất vì trong nền kinh tế , NHTM
được coi là trung gian tài chính lớn nhất, quan trọng nhất. Nền kinh tế của một
nước chỉ phát triển với tốc độ cao và ổn định khi có chính sách tài chính, tiền tệ
đúng đắn và hệ thống ngân hàng hoạt động đủ mạnh, có hiệu quả cao, có khả
- 2 -
năng thu hút, tập trung các nguồn vốn và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn vào
các ngành sản xuất.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này , sau một
thời gian thực tập , nghiên cứu tại Chi nhánh Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Bắc Hà Nội, mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về công tác huy
động vốn của chi nhánh , em đã mạnh dạn chọn đề tài : “Giải pháp nâng cao chất
lượng công tác huy động vốn tại Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Bắc Hà Nội “ là chuyên đề tốt nghiệp.
Đề tài thực hiện gồm có 3 chương:
Chương I: NHTM và hoạt động huy động vốn tại NHTM.
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Hà Nội.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
công tác huy động vốn tại Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Bắc Hà Nội.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo Lê Thanh Tâm và ban
giám đốc cũng như các anh chị trong phòng kế hoạch Chi nhánh NHNo &
PTNTHN Bắc Hà Nội đã hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình, giúp em hoàn thành
chuyên đề này.
- 3 -
Chương I
Nguồn vốn huy động và chất lượng công tác huy động vốn
trong ngân hàng thương mại.
1.1 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại .
1.1.1 Khái niệm và vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế .
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển
của nền sản xuất hàng hoá. Trải qua hàng trăm năm , đến nay hoạt động của các
ngân hàng thương mại đã trở thành một yếu tố không thể thiếu gắn liền với nền
kinh tế của mọi quốc gia trên thế giới .
Ngân hàng là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá , một động
lực quan trọng cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Với vai trò đó, ngân hàng
không thể đứng ngoài hoạt động của bất cứ quốc gia nào. Vì vậy, mỗi nước đều
xây dựng những khung pháp lý quy định, giới hạn hoạt động của ngân hàng. Mỗi
nước khác nhau sẽ có một khái niệm và mô hình tổ chức ngân hàng khác nhau.
Thông thường, người ta phải dựa vào tính chất và mục đích, đối tượng hoạt động
của nó trên thị trường tài chính.
Trong điều 1 Luật ngân hàng của Pháp ( ngày 13/06/ 1941 ) có ghi : “ Ngân
hàng là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc
của công chúng dưới hình thức ký thác hay dưới hình thức khác và sử dụng tài
nguyên đó cho chính họ , trong các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện
thanh toán ”.
Theo pháp lệnh ngân hàng , hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày
24/05/1990 ( điều 1 , khoản 1 ) của Việt Nam : “ Ngân hàng thương mại là tổ chức
kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay , thực hiện
nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán ”.
- 4 -
NHTM ra đời do yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế: cơ sở nền sản
xuất và lưu thông hàng hoá, và nền kinh tế ngày càng phát triển càng cần đến hoạt
động của các NHTM. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình
nhất là chức năng trung gian tín dụng NHTM đã trở thành một bộ phận thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Sự đóng góp này thể hiện như sau:
Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Với hoạt động đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ
chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế (vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng từ
quá trình sản xuất, từ nguồn tiết kiệm của dân cư...) thông qua nghiệp vụ tín dụng ,
ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ kịp thời
cho quá trình tái sản xuất. Chính nhờ hoạt động của hệ thống ngân hàng thương
mại, đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện cải thiện hoạt
động kinh doanh của mình, góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Vì
vậy, chúng ta có thể khẳng định chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh chính là ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh
tế.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM nếu có
hiệu quả sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền
kinh tế. Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ
thống, các NHTM đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong lưu thông.
Hơn nữa, bằng việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh tế, NHTM thực hiện việc
dắt dẫn các luồng tiền, tập hợp, phân chia vốn của thị trường điều khiển chúng
một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng theo phương châm
“Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà , cung cấp vốn cho
nền kinh tế . Với sự phát triển kinh tế và công nghệ hiện nay,hoạt động ngân hàng
- 5 -
đã có những bước tiến rất nhanh , đa dạng và phong phú hơn song ngân hàng vẫn
duy trì các nghiệp vụ cơ bản sau :
a, Nghiệp vụ huy động vốn :
Đây là nghiệp vụ cơ bản, quan trọng nhất , ảnh hưởng tới chất lượng hoạt
động của ngân hàng .Vốn được ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác
nhau như huy động dưới hình thức tiền gửi , đi vay , phát hành giấy tờ có giá . Mặt
khác trên cơ sở nguồn vốn huy động được , ngân hàng tiến hành cho vay phục vụ
cho nhu cầu phát triển sản xuất , cho các mục tiêu phát triển kinh tế của địa
phương và cả nước . Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng,
tạo uy tín của ngân hàng ngày càng cao, các ngân hàng chủ động trong hoạt động
kinh doanh , mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế và các tổ chức
dân cư, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó các ngân hàng thương mại phải
căn cứ vào chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, của địa phương .
Từ đó đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp nhất là các nguồn vốn trung,
dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước .
b, nghiệp vụ sử dụng vốn
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp vụ sử
dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của ngân hàng, quyết định
năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường . Do vậy ngân hàng cần phải
nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình sao cho hợp lý nhất .
Một là, ngân hàng tiến hành cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống kê, nhìn
chung thì khoảng 60%- 75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động cho vay.
Thành công hay thất bại của một ngân hàng tuỳ thuộc chủ yếu vào việc thực hiện
kế hoạch tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của
ngân hàng. Các loại cho vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục
đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả...
Hai là tiến hành đầu tư
- 6 -
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu
cầu khác nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi
hỏi Ngân hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung
cấp đầy đủ kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho
vay, ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có 2 hình thức chủ yếu mà các ngân
hàng thương mại có thể tiến hành là:
Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn vào
các doanh nghiệp, các công ty khác.
Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
Ba là nghiệp vụ ngân quỹ.
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành
sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu quan trọng đó là hàng loạt các
nhân tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an toàn. Nghề ngân
hàng là một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của mình, ngân hàng
không thể bỏ qua sự “an toàn”. Vì vậy, ngoài việc cho vay và đầu tư để thu được
lợi nhuận, ngân hàng còn phải sử dụng một phần nguồn vốn huy động được để
đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện các quy định về dự trữ bắt
buộc do Trung ương đề ra.
c, nghiệp vụ khác :
Là trung gian tài chính , ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những lợi
thế đó là ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và
dịch vụ . Để thanh toán nhanh chóng , thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng
đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc , uỷ
nhiệm chi, nhờ thu , các loại thẻ …cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử , kết nối
các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần . Mặt khác ,các ngân hàng
thương mại còn tiến hành môi giới, mua, bán chứng khoán cho khách hàng và
làm đại lý phát hành chứng khoán cho các công ty . Ngoài ra ngân hàng còn thực
- 7 -
hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay , uỷ thác đầu tư , uỷ thác cấp phát ,
uỷ thác giải ngân và thu hộ…
Như vậy ,các nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho ngân hàng tồn
tại và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như
hiện nay. Vì các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động
qua lại với nhau.Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn,
ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy
động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho ngân hàng nhưng mục đích
chính là thu hút khách hàng, qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng
vốn có hiệu quả.
1.2 Nguồn vốn huy động và hiêu quả huy động vốn trong ngân hàng
thương mại
1.2.1 Khái niệm vốn huy động trong ngân hàng thương mại
NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau các trung gian tài
chính lại được phân chia khác nhau. Tuy nhiên, luôn tồn tại một điểm chung là vai
trò chủ đạo của các ngân hàng thương mại đóng góp khối lượng tài sản và tầm
quan trọng đối với nền kinh tế. Để có được vị trí đó NHTM phải đặt yếu tố lợi
nhuận lên hàng đầu và công cụ duy nhất mà các NHTM phải có trước tiên là vốn.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo lập
hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh
doanh khác.
Vốn của ngân hàng được hình thành qua các nguồn khác nhau . Để bắt đầu
hoạt động của ngân hàng thì chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định ,
được gọi là vốn ban đầu . Trong quá trình hoạt động , ngân hàng gia tăng khối
lượng vốn của mình thông qua các hoạt động huy động vốn như nghiệp vụ tiền
gửi , nghiệp vụ đi vay và các nghiệp vụ khác ( dịch vụ uỷ thác , trung gian thanh
toán…)
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ do ngân hàng huy động được từ các tổ
chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp
- 8 -
vụ tín dụng , thanh toán , các nghiệp vụ kinh doanh khác… Vốn huy động chiếm
tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại , nó đóng vai
trò rất quan trọng trong mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng .
1.2.2 Tầm quan trọng của vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thương mại .
Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Khác với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, hoạt
động của ngân hàng có những đặc trưng riêng, vốn không chỉ là phương tiện kinh
doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng là tổ chức kinh
doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và
thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Quá trình kinh doanh tiền tệ của
ngân hàng được mã hoá bằng công thức T-T’, trong đó T là nguồn vốn bỏ ra ban
đầu, T’ là nguồn vốn thu về sau một quá trình đầu tư, tiến hành hoạt động kinh
doanh: T’>T. Từ công thức này, có thể khẳng định ngân hàng nào trường vốn là
ngân hàng có nhiều thế mạnh trong cạnh tranh. Vì vậy, ngoài nguồn vốn ban đầu
cần thiết (vốn điều lệ) theo quy định thì ngân hàng luôn phải chăm lo tới việc tăng
trưởng nguồn vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
trên thương trường.
Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau , nếu không có uy tín thì
ngân hàng không thể tồn tại và ngày càng mở rộng hoạt động của mình. Uy tín
được thể hiện ở khả năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Khả
năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng
lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ
thuận với vốn của ngân hàng nói chung và vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng.
Với khả năng huy động vốn cao , ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy
mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả, góp phần
vừa giữ được chữ tín, vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng trên thương trường.
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
- 9 -
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh
tranh giúp các doanh nghiệp có khả năng tự hoàn thiện mình hơn. Với ngân hàng
vốn chính là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thực tế đã
chứng minh: quy mô vốn, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại là
điều kiện tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn, và nguồn vốn lớn sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần
kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời hạn, lãi suất. Kết
quả của sự gia tăng trên giúp ngân hàng kinh doanh đa năng trên thị trường, phân
tán rủi ro, tạo thêm vốn cho ngân hàng và khi đó, tất yếu trên thương trường sức
cạnh tranh của ngân hàng sẽ tăng lên.
- 10 -
1.2.3 Nguồn vốn huy động
1.2.3.1 Nguồn tiền gửi :
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại . Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động , nghiệp vụ đầu tiên là mở các
tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân
hàng huy động tiền của các doanh nghiệp , các tổ chức và của dân cư .
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng , chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền
của ngân hàng . Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn
tiền có chất lượng ngày càng cao , các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều
hình thức huy động khác nhau .
a, phân loại theo thời hạn :
- tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền đúng như tên gọi của nó là thời gian gửi tiền không xác
định, khách hàng (cá nhân , tổ chức) có quyền rút tiền ra bất cứ lúc nào. Mục đích
của khách hàng đối với loại tiền này là hưởng những tiện ích trong thanh toán khi
có nhu cầu chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Vì vậy đây là
bộ phận tiền chỉ nhàn rỗi tạm thời chứ không phải là khoản để dành.
-Tiền gửi có kỳ hạn :
Ngược với khoản tiền gửi không kỳ hạn, đây là khoản tiền gửi với thời gian
xác định. Nguyên tắc tiến hành khoản tiền gửi này là người gửi chỉ được rút tiền
khi đến thời hạn như đã thoả thuận có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1
năm hoặc trên thế nữa. Theo quy định, ngân hàng có quyền từ chối việc rút tiền
trước thời hạn của người gửi tiền. Tuy nhiên, ở một số nước, quy định này đã
được nới lỏng: các ngân hàng cho phép người gửi tiền được rút ra trước hạn
nhưng phải báo trước cho ngân hàng một khoảng thời gian nhất định, nếu không
báo trước người gửi sẽ không được hưởng lãi suất hoặc rất thấp.
b, phân loại theo đối tượng :
- tiền gửi của dân cư
- 11 -
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng
đến.Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng , họ đều có thể gửi tiết
kiệm với mục tiêu đảm bảo an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm , đặc
biệt là nhu cầu bảo toàn . Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm , các ngân
hàng đều khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà
bằng cách ở rộng mạng lưới huy động , đưa ra các hình thức huy động đa dạng và
lãi suất cạnh tranh hấp dẫn …
- tiền gửi của các doanh nghiệp , các tổ chức xã hội .
Các doanh nghiệp do yêu cầu của hoạt đông sản xuất kinh doanh nên các
đơn vị này thường gửi một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng tiện ích
trong thanh toán. NHTM là một trung gian tài chính, nó quan hệ với các đối tượng
này thông qua việc mở tài khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và đáp ứng
yêu cầu thanh toán của họ. Do có sự đan xen giữa các khoản phải thu và các
khoản phải thanh toán nên ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi nhất định,
điều này lí giải vì sao ngân hàng huy động được nhiều nguồn vốn nhất trong lĩnh
vực này, có chi phí thấp và được sử dụng cho vay không chỉ ngắn hạn mà còn cả
trung hạn. Tuy nhiên nguồn này có hạn chế là tính ổn định và độ lớn phụ thuộc
vào quy mô, loại hình của doanh nghiệp.
c, phân loại theo mục đích :
- tiền gửi tiết kiệm :
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân được gửi vào ngân
hàng, nhằm hưởng lãi suất theo qui định . Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu nhập
bằng tiền của các cá nhân chưa sử dụng được gửi vào các tổ chức tín dụng . Nó là
một dạng đặc biệt của tích luỹ tiền tệ, trong tiêu dùng cá nhân . Khi gửi tiền người
gửi được giao một sổ tiết kiệm coi như giấy chứng nhận tiền gửi vào ngân hàng .
Đến thời hạn khách hàng rút tiền ra được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số tiền
lãi trên tổng số tiền gửi tiết kiệm .Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn .
- tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán .
- 12 -
Đây là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ
ngân hàng giữ và thanh toán hộ . Trong phạm vi số dư cho phép , các nhu cầu chi
trả của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều được ngân hàng thực hiện . Các khoản thu
bằng tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh
toán theo yêu cầu . Lãi suất của khoả