Bắt đầu từ Đại hội Đảng năm 1986, Việt Nam đã tiến hành quá trình đổi mới nền kinh tế, xoá bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Công cuộc đổi mới nền kinh tế đã tạo ra nhiều thành phần kinh tế mới, trong đó có các DNNQD. Hiện nay, các DNNQD đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước, góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần đang kể vào GDP của đất nước. Xét về mặt quản lý thì DNNQD chính là lực lượng quan trọng góp phần nâng cao hiệu suất và tính linh hoạt của nền kinh tế. Tuy nhiên hiện nay các DNNQD Việt Nam chưa phát triển xứng với tiềm năng vốn có của nó vì gặp phải nhiều lý do.
Đồng thời, trong những năm qua thì ngành ngân hàng Việt Nam cũng đã tiến hành đổi mới trong tổ chức cũng như trong hoạt động kinh doanh của mình. Các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng phong phú hơn, đáp ứng được ngày càng nhiều hơn nhu cầu của khách hàng. Hoạt động chủ yếu của các NHTM vẫn là tín dụng. Các ngân hàng luôn chú trọng đa dạng hoá hình thức cho vay, cũng như đa dạng hoá các hình thức khách hàng. Trong đó đối tượng khách hàng là các DNNQD ngày càng được ngân hàng quan tâm hơn vì đây là đối tượng khách hàng đầy tiềm năng đối với ngân hàng. Tuy nhiên hiện nay, do nhiều lý do mà hoạt động tín dụng đối với các DNNQD tại các NHTM vẫn còn gặp nhiều khó khăn, lý do chủ yếu là do chất lượng tín dụng đối với đối tượng khách hàng này của các ngân hàng vẫn còn chưa cao. Chính vì vậy mà việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNQD tại các ngân hàng có vai trò đặc biết quan trọng đến sự phát triển của các ngân hàng và các DNNQD. Hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề này, qua quá trình thực tập, tìm hiểu thực trạng cũng như những khó khăn trong việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNQD tại SGD – NHĐT&PTVN, tôi đã chon đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Qua chuyên đề này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo Th.S Lê Hương Lan và các cán bộ nhân viên tại SGDI – NHĐT&PTVN, những người đã tận tình giúp đỡ em để em có thể hoàn thành chuyên đề này.
Nội dung chuyên đề ngoài lời mở đầu và phần kết luận còn bao gồm ba chương:
Chương I - Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Chương II - Thực trạng về chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Chương III - Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
74 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1289 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Bắt đầu từ Đại hội Đảng năm 1986, Việt Nam đã tiến hành quá trình đổi mới nền kinh tế, xoá bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Công cuộc đổi mới nền kinh tế đã tạo ra nhiều thành phần kinh tế mới, trong đó có các DNNQD. Hiện nay, các DNNQD đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước, góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần đang kể vào GDP của đất nước. Xét về mặt quản lý thì DNNQD chính là lực lượng quan trọng góp phần nâng cao hiệu suất và tính linh hoạt của nền kinh tế. Tuy nhiên hiện nay các DNNQD Việt Nam chưa phát triển xứng với tiềm năng vốn có của nó vì gặp phải nhiều lý do.
Đồng thời, trong những năm qua thì ngành ngân hàng Việt Nam cũng đã tiến hành đổi mới trong tổ chức cũng như trong hoạt động kinh doanh của mình. Các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng phong phú hơn, đáp ứng được ngày càng nhiều hơn nhu cầu của khách hàng. Hoạt động chủ yếu của các NHTM vẫn là tín dụng. Các ngân hàng luôn chú trọng đa dạng hoá hình thức cho vay, cũng như đa dạng hoá các hình thức khách hàng. Trong đó đối tượng khách hàng là các DNNQD ngày càng được ngân hàng quan tâm hơn vì đây là đối tượng khách hàng đầy tiềm năng đối với ngân hàng. Tuy nhiên hiện nay, do nhiều lý do mà hoạt động tín dụng đối với các DNNQD tại các NHTM vẫn còn gặp nhiều khó khăn, lý do chủ yếu là do chất lượng tín dụng đối với đối tượng khách hàng này của các ngân hàng vẫn còn chưa cao. Chính vì vậy mà việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNQD tại các ngân hàng có vai trò đặc biết quan trọng đến sự phát triển của các ngân hàng và các DNNQD. Hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề này, qua quá trình thực tập, tìm hiểu thực trạng cũng như những khó khăn trong việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNQD tại SGD – NHĐT&PTVN, tôi đã chon đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Qua chuyên đề này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo Th.S Lê Hương Lan và các cán bộ nhân viên tại SGDI – NHĐT&PTVN, những người đã tận tình giúp đỡ em để em có thể hoàn thành chuyên đề này.
Nội dung chuyên đề ngoài lời mở đầu và phần kết luận còn bao gồm ba chương:
Chương I - Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Chương II - Thực trạng về chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Chương III - Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI
QUỐC DOANH
1.1. Tín dụng Ngân hàng Thương mại.
1.1.1. Khái niệm.
Tín dụng Ngân hàng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá. Nó tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau mà người ta đưa ra các khái niệm khác nhau về tín dụng ngân hàng:
Theo định nghĩa hiện nay thì Tín dụng Ngân hàng Thương mại (NHTM) là mối quan hệ giữa một bên là NHTM và một bên là khách hàng của ngân hàng dựa trên nguyên tắc tin tưởng và hoàn trả. Trong đó Ngân hàng chuyển giao tiền hoặc tài sản cho khách hàng trong một thời hạn nhất định, đồng thời bên nhận tiền hay tài sản phải cam kết phải hoàn trả đầy đủ theo thời hạn và kèm theo phần lãi do hai bên thoả thuận. Theo cách khác thì tín dụng ngân hàng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức tiền tệ hay hiên vật từ NHTM sang người sử dụng sau đó người sử dụng hoàn trả tại một thời điểm trong tương lai với lượng giá trị lớn hơn.
Như vậy, theo định nghĩa trên thì tín dụng NHTM được thể hiện qua các nội dung sau:
- Ngân hàng sẽ chuyển giao cho khách hàng (người vay) một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hay dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản.
- Khách hàng (người đi vay) chỉ được sử dụng tạm thời trong một khoảng thời gian nhất định. Sau khi hết thời hạn theo thoả thuận phải hoàn trả lại cho ngân hàng (người cho vay).
- Giá trị mà khách hàng hoàn trả lại cho ngân hàng thường lớn hơn giá trị lúc vay, tức là khách hàng phải trả thêm lãi.
1.1.2. Phân loại tín dụng NHTM.
Theo các tiêu thức khác nhau thì có các cách phân loại tín dụng ngân hàng khác nhau. Sau đây là các cách phân loại tín dụng ngân hàng phổ biến hiện nay:
* Căn cứ theo thời gian cho vay:
- Tín dụng ngắn hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc cho nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn. Nó bao gồm các loại chính: bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp; chiết khấu chứng từ có giá...
- Tín dụng trung hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Loại tín dụng này thường được sử dụng để đầu tư mua sắp tài sản cố định, đổi mới trang thiết bị, cải tiến kỹ thuật...
- Tín dụng dài hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn của khách hàng như: xây dựng nhà xưởng, máy móc, thiết bị, những dự án có thời gian thu hồi vốn dài...
* Căn cứ vào hình thức bảo đảm:
- Tín dụng không có tài sản bảo đảm: Là hình thức tín dụng trong đó Ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên uy tín của khách hàng mà không cần cầm cố, thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
- Tín dụng có tài sản bảo đảm: Là hình thức tín dụng trong đó khách hàng nếu muốn được ngân hàng cho vay thì phải có tài sản để cấm cố, thế chấp hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba được ngân hàng đồng ý.
* Căn cứ theo hình thức cấp tín dụng:
- Chiết khấu thương phiếu: Là hình thức tín dụng mà khách hàng sẽ mang thương phiếu còn hạn đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu.
- Cho vay:
+ Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng giấy đề nghị vay vốn và trình phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ tiến hành phân tích khách hàng, xác định quy mô cho vay, thời hạn cho vay, thời hạn giải ngân, lãi suất, tài sản đảm bảo nếu cần... và sau đó ký hợp đồng cho vay.
+ Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá. Đầu năm hoặc đầu quý, người vay phải làm giấy đề nghị vay luân chuyển, sau đó Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức cho vay... Hạn mức cho vay có thể được thoả thuận trong một năm hoặc vài năm, đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời gian để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng. Vì thủ tục vay chỉ phải thực hiện một lần nên rất thuận tiện cho khách hàng.
+ Cho vay theo hạn mức: Là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức cho vay. Hạn mức có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ, đó là số dư tại thời điểm tính.
+ Cho vay thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng cho phép khách hàng được chi trội vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định trong một thời hạn xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
+ Cho vay trả góp: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn cho vay đã thoả thuận. Hình thức này thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, hoặc cho vay đối với tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định.
+ Cho vay gián tiếp: Là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Hình thức này thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng...
- Cho thuê tài sản (Cho thuê tài chính): Là hình thức tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và cá động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết mmua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê đã được hai bên thoả thuận
- Bảo lãnh: Bão lãnh của Ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
1.1.3. Vai trò của tín dụng NHTM trong nền Kinh tế thị trường.
Tuỳ từng trình độ phát triển của mỗi nước mà vai trò của tín dụng NHTM có khác nhau. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì vai trò của tín dụng NHTM được thể hiện rõ nét, thể hiện qua các mặt sau:
* Tín dụng NHTM thực hiện quá trình huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để đưa vào đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh,góp phần tái sản xuất mở rộng nền kinh tế.
Vốn là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong bất kỳ nền kinh tế nào cũng có nguồn tiền nhàn rỗi và chưa được sử dụng, tín dụng ngân hàng đã tập trung các nguồn tiền đó thông qua hoạt động huy động vốn của mình theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi để có thể mang nguồn vốn đó cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
* Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất, là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế mũi nhọn.
Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường thông qua các công cụ tài chính tín dụng để sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tài nguyên và sức lao động. Muốn phát huy thế mạnh về tài nguyên để chuyển hướng cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội thì không thể thiếu vai trò của tín dụng ngân hàng. Trong đó, tín dụng ngân hàng tạo nguồn vốn bằng cách huy động tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua lãi suất linh hoạt, phù hợp với tỉ lệ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát để đầu tư vào các lĩnh vực, các công trình cần thiết cho đất nước nhưng đang gặp khó khăn do thiếu vốn; Bên cạnh đó ngân hàng còn tập trung tín dụng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn mà sự phát triển của các ngành này đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của kinh tế đất nước.
* Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ.
Sự phát triển của tín dụng NHTM làm tăng mạnh các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, từ đó thúc đẩy lưu thông tiền tệ. Đây cũng là một biện pháp hữu hiệu để kiềm chế lạm phát.
* Tín dụng Ngân hàng thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm soát các hoạt động kinh tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
Sự vận động của tín dụng Ngân hàng cũng như việc quản lý tập trung thống nhất công tác tín dụng đã tạo điều kiện cho nó phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén mối quan hệ giữa quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp với tình hình hoạt động của nền kinh tế. Trên cơ sở đó, Nhà nước có biện pháp kịp thời phát huy những nhân tố tích cực và hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra để thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy, tín dụng ngân hàng được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế không thể thiếu được trong cả công tác quản lý, kiểm soát các quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội và củng cố chế độ hạch toán kinh tế.
* Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện để phát triển kinh tế đối ngoại của đất nước.
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay thì muốn kinh tế đất nước phát triển nhanh, vững mạnh thì kinh tế đối ngoai đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhờ có tín dụng ngân hàng mà các thành phần kinh tế của đất nước đã có vốn, từ đó nâng cấp, đổi mới máy móc thiết bị, tiến hành xuất khẩu hàng hoá ra thế giới. Như vậy, tín dụng Ngân hàng đã trở thành cầu nối quan trọng giữa kinh tế trong nước và kinh tế thế giới.
1.1.4. Quy trình tín dụng của NHTM.
Quy trình tín dụng là một tập hợp các thao tác, thủ tục mà cán bộ tín dụng phải làm khi thực hiện xem xét một yêu cầu tín dụng của khách hàng. Quy trình tín dụng là những quy định của cơ quan cấp trên quản lý Ngân hàng ban hành, buộc Ngân hàng và cán bộ tín dụng phải tuân thủ. Quy trình tín dụng tại các NHTM bao gồm các bước sau:
- Bước 1: Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và hồ sơ vay vốn. Cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm hướng dẫn đầy đủ, rõ ràng cho khách hàng về thể lệ vay, tránh gây phiền hà cho khách hàng.
- Bước 2: Điều tra, thu thập, tổng hợp các thông tin về khách hàng và phương án vay vốn. Những thông tin này phải được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau để đảm bảo có được thông tin chính xác nhất, như là từ các bạn hàng, từ sự đánh giá của cán bộ tín dụng, từ các tổ chức liên quan, thông tin từ thị trường, điều tra quốc tế...
- Bước 3: Phân tích, thẩm định khách hàng và phương án vay vốn. Thẩm định tư cách pháp nhân, các giai đoạn phát triển, thẩm định tình hình tài chính của Doanh nghiệp.
- Bước 4: Thẩm định dự án đầu tư.
+ Thẩm định sự cần thiết của dự án.
+ Thẩm định phương tiện kỹ thuật, tổ chức quản lý tài chính.
Tuỳ theo từng món vay cụ thể mà cán bộ tín dụng cần xác định cụ thể nội dung và phương pháp thẩm định thích hợp để vừa đảm bảo chất lượng và thời gian thẩm định, tránh việc thẩm định quá rườm rà, phức tạp làm mất cơ hội kinh doanh của khách hàng.
- Bước 5: Quyết định cho vay.
- Bước 6: Kiểm soát vốn cho vay và thu nợ gốc, lãi, tiền thuê.
1.2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới đất nước, đó là sự nghiệp đổi mới toàn diện, trên nhiều lĩnh vực... Trong đó đổi mới cơ cấu kinh tế là một trong những ưu tiên quan trọng của Nhà nước. Phương hướng chủ yếu nhằm đổi mới cơ cấu kinh tế ở nước ta là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đây là bước phát triển mang tính quy luật trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) là doanh nghiệp mà trong đó Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn điều lệ (không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài). Bao gồm: Các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần mà trong đó Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn điều lệ, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và các đơn vị theo hình thức hợp tác xã.
1.2.2. Phân loại doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Có nhiều tiêu thức để phân loại các DNNQD, nhưng có các tiêu thức chủ yếu sau:
* Phân loại theo loại hình doanh nghiệp, bao gồm các loại hình sau:
- Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn: Là công ty trong đó phần vốn góp của tất cả các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần vốn góp được ghi rõ trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành viên được thực hiện tự do. Nhưng việc chuyển nhượng vốn góp cho người không phải thành viên công ty phải được sự nhất trí của nhóm thành viên đại diện cho ít nhất ¾ số vốn điều lệ của công ty. Có công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên.
- Công ty cổ phần: Là công ty mà trong đó số thành viên được gọi là cổ đông của công ty phải ít nhất là 3 người trong suốt quá trình hoạt động của công ty. Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
- Hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển đời sống của hộ gia đình cũng như phát triển kinh tế của địa phương, đất nước.
* Phân loại theo ngành kinh doanh thì DNNQD bao gồm:
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực xây dựng.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực vận tải, bưu chính, viễn thông.
- DNNQD hoạt động trong các ngành dịch vụ khác.
* Phân loại theo quy mô doanh nghiệp thì DNNQD bao gồm:
- DNNQD có quy mô vừa và nhỏ: Là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký kinh doanh không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
- DNNQD có quy mô lớn: Là những doanh nghiệp có tính chất tư hữu, có số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng và số lao động lớn hơn 300 người.
1.2.3. Đặc điểm của DNNQD ở nước ta hiện nay.
1.2.3.1. DNNQD có số lượng lớn.
Trong những năm gần đây, doanh nghiệp Việt Nam nói chung và DNNQD Việt Nam nói riêng đã tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp, số lượng lao động và vốn. Năm 1991, một năm sau khi ban hành luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân, tổng số DNNQD chỉ có 414 doanh nghiệp. Đến năm 1999, số lượng DNNQD đã tăng lên con số 30.500 doanh nghiệp. Tính bình quân giai đoạn này, mỗi năm tăng khoảng 3.252 doanh nghiệp, tương ứng với tốc độ tăng 32%/ năm. Đến năm 2003, số lượng DNNQD đã tăng lên 55.236 doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng 88 % trong tổng số doanh nghiệp ở nước ta.
1.2.3.2. DNNQD ở nước ta có quy mô lao động và quy mô vốn nhỏ bé.
Mặc dù có số lượng rất lớn nhưng độ tập trung vốn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chưa cao, còn rời rạc, quy mô nhỏ bé. Số lượng DNNQD có quy mô vốn lớn rất ít, hầu như không có. Theo số liệu thống kê thì năm 2005, số vốn của các DNNQD chỉ chiếm 19% tổng số vốn của toàn bộ các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam.
* Xét về vốn sản xuất: Năm 2005, số doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu đồng chiếm khoảng 62,4% trong tổng số doanh nghiệp; số doanh nghiệp có số vốn trên 500 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng chiếm khoảng 24,3%, còn lại là các doanh nghiệp có số vốn trên 1 tỷ đồng. Tuy những năm gần đây, số vốn bình quân của một DNNQD đã tăng lên, đạt được gần 5 tỷ đồng/doanh nghiệp, nhưng so với số vốn bình quân của một doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là khoảng 170 tỷ đồng, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là khoảng 145 tỷ đồng thì số vốn bình quân của DNNQD quá nhỏ bé.
* Xét về số lượng lao động: Số lao động trong các DNNQD vào khoảng 1,9 triệu người, chiếm 37% tổng số lao động của toàn khu vực doanh nghiệp nhưng so với tỷ lệ số DNNQD trong tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam thì có thể thấy số lao động bình quân của một DNNQD là thấp.
Như vây, phần lớn các DNNQD ở Việt Nam là thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chỉ mới thực sự tồn tại và phát triển trong khoảng thời gian chưa dài, do đó chưa có điều kiện tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất và quy mô.
1.2.3.3. Trình độ quản lý và công nghệ sản xuất lac hậu, thấp kém.
Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi người quản lý không những phải có trình độ mà còn phải có kinh nghiệm dày dạn. Bởi vì nền kinh tế nước ta mới chuyển sang cơ chế thị trường nên những kiến thức về kinh tế, về quy luật kinh doanh không phải ai cũng nắm bắt được; mặt khác cũng bởi vì các trường đào tạo quản lý kinh doanh và quản lý pháp luật còn quá thiên về phương pháp lý thuyết mà ít chú ý tới phương pháp giải quyết các vấn đề thực tế, mặt khác chi phí đào tạo quản lý nói chung còn rất cao. Từ những lý do trên làm cho trình độ quản lý của DNNQD còn thấp, gây ra nhiều khó khăn trong việc quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Những người quản lý ở các doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn trong công tác tổ chức nhân sự, trong việ