Sự hội nhập mạnh mẽ của đất nước vào nền kinh tế thế giới đã tạo ra nhiều cơ hội tìm kiếm lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp nhưng cũng đặt họ trước một thách thức lớn là sự cạnh tranh gay gắt từ phía các đối thủ nước ngoài mới xâm nhập vào Việt Nam. Ngoài việc có một chiến lược cạnh tranh đúng hướng, yếu tố quyết định tới sự thành bại của doanh nghiệp chính là sự cải tiến về máy móc thiết bị sản xuất, đổi mới dây chuyền công nghệ. Tuy nhiên do khả năng vốn tự có của các doanh nghiệp Việt nam còn hạn chế nên nếu không có sự hỗ trợ vốn từ bên ngoài thì họ khó thể thực hiện được. Việc huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán còn hạn chế do quy mô còn nhỏ bé của thị trường này, hơn nữa không phải doanh nghiệp nào cũng đủ điều kiện để huy động được vốn bằng cách này. Do đó, vốn tín dụng ngân hàng, đặc biệt là tín dụng trung dài hạn vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp phát nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng hoạt động của mình. Để hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thực sự mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp, ngân hàng và nền kinh tế, yêu cầu phải nâng cao chất lượng của hoạt động này không lúc nào là không cần thiết.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển là một đơn vị cung cấp tín dụng trung và dài hạn có thâm niên lâu năm, đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong thời gian thực tập tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, được quan sát thực tiễn cấp phát tín dụng trung dài hạn, em nhận thấy vẫn còn có một số hạn chế nhất định khiến cho tín dụng trung dài hạn chưa phát huy hết được vai trò quan trọng với ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế. Vì vậy, em đã quyết định chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội" để thực hiện chuyên đề thực tập.
Kết cấu của chuyên đề này bao gồm:
Chương 1. Tổng quan về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại.
Chương 2. Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Chương 3. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Để hoàn thành được chuyên đề thực tập này, em đã nhận được sự giúp đỡ hướng dẫn tận tình của các cán bộ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, các cô chú, anh chị ở phòng Tín dụng 2, và đặc biệt là sự chỉ bảo của Thày giáo, Tiến sĩ Đàm Văn Huệ. Em xin chân thành cảm ơn.
77 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Sự hội nhập mạnh mẽ của đất nước vào nền kinh tế thế giới đã tạo ra nhiều cơ hội tìm kiếm lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp nhưng cũng đặt họ trước một thách thức lớn là sự cạnh tranh gay gắt từ phía các đối thủ nước ngoài mới xâm nhập vào Việt Nam. Ngoài việc có một chiến lược cạnh tranh đúng hướng, yếu tố quyết định tới sự thành bại của doanh nghiệp chính là sự cải tiến về máy móc thiết bị sản xuất, đổi mới dây chuyền công nghệ. Tuy nhiên do khả năng vốn tự có của các doanh nghiệp Việt nam còn hạn chế nên nếu không có sự hỗ trợ vốn từ bên ngoài thì họ khó thể thực hiện được. Việc huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán còn hạn chế do quy mô còn nhỏ bé của thị trường này, hơn nữa không phải doanh nghiệp nào cũng đủ điều kiện để huy động được vốn bằng cách này. Do đó, vốn tín dụng ngân hàng, đặc biệt là tín dụng trung dài hạn vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp phát nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng hoạt động của mình. Để hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thực sự mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp, ngân hàng và nền kinh tế, yêu cầu phải nâng cao chất lượng của hoạt động này không lúc nào là không cần thiết.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển là một đơn vị cung cấp tín dụng trung và dài hạn có thâm niên lâu năm, đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong thời gian thực tập tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, được quan sát thực tiễn cấp phát tín dụng trung dài hạn, em nhận thấy vẫn còn có một số hạn chế nhất định khiến cho tín dụng trung dài hạn chưa phát huy hết được vai trò quan trọng với ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế. Vì vậy, em đã quyết định chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội" để thực hiện chuyên đề thực tập.
Kết cấu của chuyên đề này bao gồm:
Chương 1. Tổng quan về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại.
Chương 2. Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Chương 3. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Để hoàn thành được chuyên đề thực tập này, em đã nhận được sự giúp đỡ hướng dẫn tận tình của các cán bộ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, các cô chú, anh chị ở phòng Tín dụng 2, và đặc biệt là sự chỉ bảo của Thày giáo, Tiến sĩ Đàm Văn Huệ. Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên
Nguyễn Thị Hồng Nhung
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm
Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về ngân hàng thương mại (NHTM):
Ở Hoa Kỳ: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hoặc tài trợ và đầu tư.
Ở Thổ Nhĩ Kỳ: NHTM là Hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền ký thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ hối phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn hay tín dụng khác.
Ở Việt Nam: Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 1997: "Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan". Trong đó: " Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán".
Từ các quan điểm trên có thể đưa ra một khái niệm chung tương đối đầy đủ về NHTM là: Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhiều nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
NHTM có các chức năng cơ bản sau:
- Trung gian tài chính: Chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ các hộ gia đình, thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần khác để đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác.
- Tạo phương tiện thanh toán: Quá trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống ngân hàng trung ương của mỗi nước. Đó là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng thanh toán qua nhiều ngân hàng.
- Trung gian thanh toán: Thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ (như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quĩ và phân phối tiền giấy và tiền đúc).
1.1.2. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Huy động vốn
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn cho vốn vay. Vì vậy có thể coi huy động vốn là điều kiện cần để ngân hàng bắt đầu hoạt động. Ngân hàng tiến hành thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội bằng các nghiệp vụ:
- Nhận tiền gửi: Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Đây là nghiệp vụ đầu tiên khi ngân hàng bắt đầu hoạt động. Bằng cách mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, ngân hàng đã huy động được tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
- Đi vay: Mặc dù tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM nhưng khi khả năng huy động bị hạn chế, ngân hàng vẫn phải đi vay để đáp ứng nhu cầu chi trả cấp bách. NHTM có thể vay Ngân hàng Nhà nước thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu hay tái cấp vốn, vay trên thị trường liên hàng hoặc vay trên thị trường chứng khoán bằng cách phát hành các giấy nợ.
1.1.2.2. Sử dụng vốn
Cùng giống như bất kỳ doanh nghiệp nào, NHTM cũng hoạt động vì mục tiêu sinh lời. Do đó, với số vốn đã huy động được, ngân hàng phải tiến hành các hoạt động đầu tư để trang trải các chi phí huy động vốn, chi phí hoạt động và đặc biệt là để tìm kiếm lợi nhuận.
- Hoạt động tín dụng: Là hoạt động đặc trưng của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn nhất và mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động chứa đựng rủi ro cao, ảnh hưởng tới sự an toàn của ngân hàng.
- Các hoạt động đầu tư khác: Ngoài hoạt động tín dụng, NHTM cũng tham gia vào các hoạt động đầu tư khác như: mua bán chứng khoán, góp vốn liên doanh liên kết,… nhằm mục tiêu đa dạng hoá danh mục đầu tư và tối thiểu hoá rủi ro.
1.1.2.3. Các hoạt động khác
Bên cạnh các hoạt động mang tính truyền thống và đặc trưng, NHTM cũng tiến hành các hoạt động khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận như: cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý,…
1.2. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm tín dụng và phân loại
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng xuất phát từ chữ Latin Creditium có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng Anh gọi là Credit. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mượn dựa trên sự tin tưởng.
Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau đây:
- Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thâm hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
- Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
- Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.
Như vậy có thể hiểu: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hay hàng hoá) giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho vay khi đến hạn thanh toán.
Như vậy, khái niệm tín dụng gồm ba mặt cơ bản:
- Có sự chuyển giao quyền sử dụng một tài sản từ người này sang người khác.
- Sự chuyển giao này mang tính chất tạm thời.
- Khi hoàn lại tài sản đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm thêm một lượng giá trị dôi thêm - gọi là lãi hay lợi tức.
Một quan hệ được gọi là tín dụng khi có đầy đủ cả ba mặt trên.
Tín dụng có các hình thức chủ yếu là: tín dụng thương mại, tín dụng Nhà nước và tín dụng ngân hàng. Tín dụng thương mại là việc mua bán chịu (hay mua bán trả chậm) hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng với một bên là tất các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Trong nền kinh tế hiện đại, tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất không chỉ với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Không một doanh nghiệp nào có thể tồn tại vững chắc trên thương trường mà không vay vốn của ngân hàng. Việc vay vốn từ ngân hàng đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, đặc biệt là các dự án mở rộng sản xuất hay đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
1.2.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Có nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng ngân hàng:
Căn cứ vào thời hạn cho vay: Tín dụng được chia là ba loại sau:
- Tín dụng ngắn hạn: là các khoản cho vay có thời hạn dưới 12 tháng. Đối với NHTM, tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất.
- Tín dụng trung hạn: là các khoản cho vay có thời hạn có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: là các cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên.
Căn cứ vào hình thức bảo đảm: Tín dụng được chia làm hai loại:
- Cho vay không có đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa trên uy tín của bản thân khách hàng.
- Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba.
Căn cứ vào mục đích sử dụng:
- Cho vay bất động sản: là khoản cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là khoản cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là khoản cho vay giúp nông dân trang trải các chi phí sản xuất và bảo quản sản phẩm.
- Cho vay cá nhân: là khoản cho vay nhằm đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đất tiền, sửa chữa và xây dựng nhà cửa.
- Tài trợ thuê mua: ngân hàng mua thiết bị máy móc hay phương tiện để cho khách hàng thuê.
- Cho vay khác: gồm các khoản cho vay không bao gồm các khoản cho vay ở trên và cho vay kinh doanh chứng khoán.
Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
- Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng.
- Cho vay bằng tài sản: hình thức cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ biến tại các NHTM là tài trợ thuê mua.
Căn cứ vào phương thức hoàn trả:
- Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ.
- Cho vay phi trả góp: là loại cho vay mà vốn gốc và lãi được thanh toán một lần theo kỳ hạn đã thoả thuận.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu.
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng:
- Cho vay trực tiếp: ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay cũng hoàn trả vốn gốc và lãi trực tiếp cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
1.2.2. Khái niệm và phân loại tín dụng trung và dài hạn
1.2.2.1. Khái niệm
Tín dụng trung và dài hạn là một bộ phận của tín dụng ngân hàng khi phân chia theo tiêu thức thời hạn, là hoạt động tài chính trong đó ngân hàng cho khách hàng vay vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án phát triển sản xuất - kinh doanh, phục vụ đời sống.
Tín dụng trung và dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ 1 năm trở lên. Tuỳ theo từng nước mà thời hạn cho vay đối với tín dụng trung và dài hạn là khác nhau. Ở Việt Nam, tín dụng trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ 12 tháng đến 60 tháng. Tín dụng dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ 60 tháng trở lên.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất - kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn về xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
1.2.2.2. Phân loại tín dụng trung và dài hạn
Các tiêu thức để phân loại tín dụng trung và dài hạn cũng giống như tín dụng nói chung
Căn cứ vào thời hạn cho vay
- Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm, tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn.
- Tín dụng dài hạn: có thời hạn cho vay từ 5 năm trở lên, tài trợ cho công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu, đường, mấy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu.
Căn cứ vào hình thức đảm bảo
- Tín dụng trung và dài hạn có đảm bảo.
- Tín dụng trung và dài hạn không có đảm bảo.
Căn cứ mục đích sử dụng
- Tín dụng trung và dài hạn phục vụ cho hoạt động sản xuất - kinh doanh.
- Tín dụng trung và dài hạn phục vụ cho tiêu dùng: là các khoản tín dụng được cung cấp chủ yếu cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân như xây dựng nhà ở, mua sắm phương tiện đi lại,…
Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
- Tín dụng trung và dài hạn cấp bằng tiền.
- Tín dụng trung và dài hạn cấp bằng hiện vật: thông qua hình thức tài trợ thuê mua.
Căn cứ vào phương thức hoàn trả
- Tín dụng trung và dài hạn trả góp: là các khoản tín dụng trung và dài hạn trong đó người đi vay trả vốn gốc và lãi theo các kỳ hạn đều đặn trong thời hạn cho vay.
- Tín dụng trung và dài hạn trả một lần: người đi vay trả vốn gốc và lãi một lần vào cuối thời hạn cho vay.
- Tín dụng trung và dài hạn có kỳ hạn trả nợ mang tính thời vụ: người đi vay có thể hoàn trả bất cứ khi nào có thu nhập.
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng
- Tín dụng trung và dài hạn trực tiếp.
- Tín dụng trung và dài hạn gián tiếp.
Căn cứ vào đồng tiền cho vay:
- Tín dụng trung và dài hạn cấp bằng đồng ngoại tệ: chủ yếu cấp cho những khách hàng hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và các doanh nghiệp có dự án liên doanh liên kết với nước ngoài.
- Tín dụng trung và dài hạn cấp bằng đồng nội tệ: chiếm tỷ trong chủ yếu trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của NHTM.
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của đối tượng xin vay:
- Tín dụng trung và dài hạn đầu tư trong nước: là các khoản tín dụng được cấp cho khách hàng để thực hiện các dự án đầu tư trong nước.
- Tín dụng trung và dài hạn tài trợ cho xuất nhập khẩu: là các khoản tín dụng được cấp cho khách hàng nhằm hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu, gồm có tín dụng người cung cấp (cấp cho các nhà xuất khẩu) và tín dụng người mua (cấp cho các nhà nhập khẩu).
1.2.3. Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn
1.2.3.1. Vốn đầu tư lớn, thời hạn dài và thu hồi vốn chậm
Như đã nêu trên, đối tượng tài trợ của tín dụng trung và dài hạn là tài sản cố định và các công trình xây dựng. Đặc điểm của đối tượng này là có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu. Do đó, khoản cho vay để tài trợ cho các đối tượng này đòi hỏi một số vốn đầu tư lớn. Mặt khác, nguồn để trả nợ là quỹ khấu hao cơ bản và lợi nhuận thu được từ dự án. Vì vậy, thời hạn trả nợ thường kéo dài đến khi dự án kết thúc, dẫn đến thu hồi vốn chậm.
1.2.3.2. Độ rủi ro cao
Do lượng vốn đầu tư lớn và thời gian thu hồi vốn chậm nên độ rủi ro của các khoản tín dụng trung và dài hạn là cao. Một dự án có thời gian đầu tư kéo dài có thể chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như: thiên tai, chiến tranh, sự thay đổi của môi trường chính sách, môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh,… Điều này khiến cho việc dự đoán các rủi ro có thể xảy ra với các khoản tín dụng trung và dài hạn là không thể lường trước hết được. Mặt khác, do có số vốn đầu tư lớn nên khi rủi ro xảy ra với các khoản tín dụng này sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đến NHTM so với các khoản tín dụng ngắn hạn.
1.2.3.3. Lợi nhuận từ các khoản tín dụng trung và dài hạn lớn
Do mối tương quan tỉ lệ thuận giữa lợi nhuận và rủi ro, nên các khoản tín dụng trung và dài hạn - vốn chứa đựng rủi ro cao - luôn có mức lãi suất rất cao. Thêm vào đó, do khoản cho vay thường có số vốn lớn nên thu nhập mà khoản tín dụng này đem lại cho ngân hàng là lớn.
1.2.4. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn
1.2.4.1. Đối với doanh nghiệp
Là một chủ thể trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh từ phía các đối thủ khác. Để có thể tồn tại và phát triển, tất yếu doanh nghiệp phải thắng thế trong cạnh tranh. Muốn vậy, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược sản xuất - kinh doanh hợp lý, phù hợp với năng lực, điều kiện của bản thân và điều kiện thị trường. Do đó, về lâu dài doanh nghiệp phải chú trọng đến việc mở rộng sản xuất, mua sắm máy móc trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm và giảm thiểu chi phí đến mức thấp nhất có thể. Muốn thực hiện được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đầu tư rất lớn. Để huy động vốn cho các kế hoạch sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp có thể tìm kiếm từ các nguồn sau:
Tự tích luỹ bằng lợi nhuận không chia: là một phương thức tạo nguồn tài chính khá quan trọng đối với doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp tránh được sự phân chia kiểm soát với bên ngoài. Tuy nhiên, phương thức tài trợ này đòi hỏi một thời gian dài mới mang lại một lượng vốn đáng kể cho doanh nghiệp, do đó có thể khiến doanh nghiệp bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh. Hơn nữa, tự tích luỹ chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có lợi nhuận. Điều này là khó khăn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động.
Phát hành cổ phiếu, trái phiếu: nguồn này có ưu điểm là có thể tập trung được lượng vốn cần thiết trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, nếu phát hành cổ phiếu có thể dẫn đến sự phân chia quyền kiểm soát công ty. Nếu phát hành trái phiếu, doanh nghiệp sẽ phải chịu nhiều chi phí tốn kém như: chi phí giao dịch, chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, lệ phí đăng ký chứng khoán,… Hơn nữa, không phải trái phiếu của doanh nghiệp nào cũng được công chúng đầu tư tín nhiệm, không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ điều kiện để được phép phát hành trái phiếu ra công chúng. Thêm vào đó, trái phiếu không tạo ra sự linh hoạt về kỳ hạn của khoản nợ.
Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng: có ưu thế hơn so với các nguồn trên, thể hiện ở chỗ: 1, Nó giúp cho doanh nghiệp chớp lấy thời cơ kinh doanh nhờ rút ngắn thời gian tìm kiếm vốn. Thủ tục vay ngân hàng tuy chặt chẽ nhưng nếu tuân thủ đúng thì thời gian để doanh nghiệp nhận được khoản tín dụng là ngắn hơn rất nhiều so với tự tích luỹ hay phát hành trái phiếu, cổ phiếu. 2, Không dẫn đến sự phân chia quyền kiểm soát công ty với bên ngoài so với việc phát hành cổ phiếu. 3, Mọi doanh nghiệp chỉ cần có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư khả thi đều có thể được ngân hàng cấp tín dụng. 4, Tín dụng trung và dài hạn tạo ra sự linh hoạt về kỳ hạn: doanh nghiệp có thể vay vốn ngân hàng theo kỳ hạn phù hợp với yêu cầu kinh doanh và chu kỳ thu nhập. Việc điều chỉnh kỳ hạn nợ của các khoản tín dụng trung và dài hạn là dễ dàng: khi doanh nghiệp làm ăn thuận lợi, nhanh chóng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi, có thể trả nợ ngân hàng trước hạn. Ngược lại, khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất - kinh doa