Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính ngắn hạn của công ty kết cấu thép cơ khí xây dựng

Các quan hệ tài chính doanh nghiệp được thể hiện trong cả quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, nhà doanh nghiệp phải xử lý các quan hệ tài chính thông qua phương thức giải quyết ba vấn đề quan trọng sau đây: Thứ nhất: nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với loại hình sản xuất kinh doanh lựa chọn. Đây là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp, là cơ sở để dự toán vốn đầu tư. Thứ hai: Nguồn vốn đầu tư mà doanh nghiệp có thể khai thác là nguồn nào? Thứ ba: Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế nào? Chẳng hạn việc thu tiền từ khách hàng và trả tiền cho nhà cung cấp? Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ tới quản lý vốn, TSLĐ của doanh nghiệp. Ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi vấn đề về tài chính doanh nghiệp nhưng đó là ba vấn đề lớn nhất và quan trọng nhất. Nghiên cứu tài chính doanh nghiệp thực chất là nghiên cứu cách thức giải quyết ba vấn đề đó. Trong các doanh nghiệp, nhà quản lý tài chính có trách nhiệm đưa ra lời giải cho ba vấn đề nêu trên. Nhà quản lý tài chính không phải chỉ quan tâm đến việc sẽ nhận dược bao nhiêu tiền mà còn phải quan tâm tới việc khi nào nhận được và nhận được như thế nào. Đánh giá quy mô, thời hạn và rủi ro của các dòng tiền trong tương lai là vấn đề cốt lõi của quá trình dự toán vốn đầu tư. Hoạt động tài chính ngắn hạn gắn với các dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ. Nhà quản lý tài chính cần phải xử lý sự lệch pha của các dòng tiền. Quản lý ngắn hạn các dòng tiền không thể tách rời vốn lưu động ròng của doanh nghiệp. Vốn lưu động ròng được xác định là khoản chênh lệch giữa TSLĐ và nợ ngắn hạn. Một số vấn đề về quản lý TSLĐ sẽ được làm rõ trong các phần sau như: Doanh nghiệp nên nắm giữ bao nhiêu tiền và dự trữ? Doanh nghiệp sẽ tài trợ ngắn hạn bằng cách nào? Mua chịu hay vay ngắn hạn và trả tiền ngay? Nếu vay ngắn hạn thì doanh nghiệp nên vay ở đâu và vay như thế nào?

doc83 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1256 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính ngắn hạn của công ty kết cấu thép cơ khí xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH NGẮN HẠN I. Công tác quản lý tài chính ngắn hạn 1. Vị trí của công tác quản lý tài chính ngắn hạn trong doanh nghiệp. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp được thể hiện trong cả quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, nhà doanh nghiệp phải xử lý các quan hệ tài chính thông qua phương thức giải quyết ba vấn đề quan trọng sau đây: Thứ nhất: nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với loại hình sản xuất kinh doanh lựa chọn. Đây là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp, là cơ sở để dự toán vốn đầu tư. Thứ hai: Nguồn vốn đầu tư mà doanh nghiệp có thể khai thác là nguồn nào? Thứ ba: Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế nào? Chẳng hạn việc thu tiền từ khách hàng và trả tiền cho nhà cung cấp? Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ tới quản lý vốn, TSLĐ của doanh nghiệp. Ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi vấn đề về tài chính doanh nghiệp nhưng đó là ba vấn đề lớn nhất và quan trọng nhất. Nghiên cứu tài chính doanh nghiệp thực chất là nghiên cứu cách thức giải quyết ba vấn đề đó. Trong các doanh nghiệp, nhà quản lý tài chính có trách nhiệm đưa ra lời giải cho ba vấn đề nêu trên. Nhà quản lý tài chính không phải chỉ quan tâm đến việc sẽ nhận dược bao nhiêu tiền mà còn phải quan tâm tới việc khi nào nhận được và nhận được như thế nào. Đánh giá quy mô, thời hạn và rủi ro của các dòng tiền trong tương lai là vấn đề cốt lõi của quá trình dự toán vốn đầu tư. Hoạt động tài chính ngắn hạn gắn với các dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ. Nhà quản lý tài chính cần phải xử lý sự lệch pha của các dòng tiền. Quản lý ngắn hạn các dòng tiền không thể tách rời vốn lưu động ròng của doanh nghiệp. Vốn lưu động ròng được xác định là khoản chênh lệch giữa TSLĐ và nợ ngắn hạn. Một số vấn đề về quản lý TSLĐ sẽ được làm rõ trong các phần sau như: Doanh nghiệp nên nắm giữ bao nhiêu tiền và dự trữ? Doanh nghiệp sẽ tài trợ ngắn hạn bằng cách nào? Mua chịu hay vay ngắn hạn và trả tiền ngay? Nếu vay ngắn hạn thì doanh nghiệp nên vay ở đâu và vay như thế nào? 2. Khái quát chung về công tác quản lý tài chính ngắn hạn Công tác quản lý tài chính doanh nghiệp thường bao gồm những nội dung chủ yếu sau: Tham gia đánh giá, lựa chọn các dự án đầu tư và kế hoạch kinh doanh; Xác định nhu cầu vốn, tổ chức huy động vốn để đáp ứng cho hoạt động của doanh nghiệp; Tổ chức sử dụng có hiệu số vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản thu, chi, đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp; Thực hiện phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ của doanh nghiệp; Đảm bảo kiểm tra, kiểm soát thường xuyên đối với hoạt động của doanh nghiệp, thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp; Thực hiện việc dự báo và kế hoạch hoá tài chính doanh nghiệp. Trong đó, công tác quản lý tài chính ngắn hạn là việc quản lý ngắn hạn các dòng tiền. Sự vận động của tiền trong doanh nghiệp thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ vận động đơn giản của tiền Hao mòn TSCĐ Sản phẩm Tồn kho NVL và lao động Phải trả TSCĐ Phải thu Tiền Phải trả phải nộp khác Vay, tự tài trợ… Có thể mô tả sơ đồ đó như sau: - Công ty mua nguyên vật liệu để sản xuất, phần lớn những khoản mua này chưa trả ngay tạo những khoản phải trả người bán. Phần còn lại có thể được trả ngay bằng tiền. - Lao động được sử dụng để chuyển nguyên vật liệu thành sản phẩm cuối cùng và thông thường tiền lương không được trả ngay vào lúc công việc được thực hiện từ đó hình thành các khoản phải trả cán bộ công nhân viên. - Tiền được đầu tư để mua sắm TSCĐ có thể được thanh toán ngay hoặc trả chậm hình thành nên các khoản phải trả. Hao mòn TSCĐ thể hiện giá trị TSCĐ chuyển vào sản phẩm. - Sản phẩm có thể chưa bán được ngay hình thành hàng tồn kho. Khi bán một phần thu tiền ngay một phần bán chịu do đó tạo nên các khoản phải thu. Tại một thời điểm nào đó trong quá trình vận động nói trên, doanh nghiệp phải thanh toán những khoản phải trả, nếu những khoản thanh toán này được thực hiện trước khi thu được những khoản phải thu thì sẽ tạo ra những luồng tiền ra ròng. Luồng tiền này phải được tài trợ bằng một nguồn tài trợ nào đó như từ bán hàng tồn kho hay giảm đầu tư ngắn hạn. Ngoài ra, tiền của doanh nghiệp còn được hình thành từ các nguồn khác như đi vay ngân hàng, vay huy động qua phát hành cổ phiếu…hoặc tự tài trợ bằng các nguồn khác. Nhưng tiền cũng được sử dụng để nộp ngân sách, trả đơn vị nội bộ hay các khoản phải trả, phải nộp khác… Sơ đồ vận động miêu tả mối quan hệ giữa TSLĐ và nợ ngắn hạn trong doanh nghiệp, trong đó tương ứng với bên phải sơ đồ là nợ ngắn hạn và bên trái là TSLĐ. Qua sơ đồ trên có thể thấy toàn bộ công tác quản lý tài chính ngắn hạn liên quan chủ yếu đến công tác quản lý TSLĐ và nợ ngắn hạn bởi đó là hoạt động tài chính hàng ngày của doanh nghiệp. Quản lý ngắn hạn các dòng tiền không thể tách rời quản lý hai khoản mục có tính ngắn hạn trong doanh nghiệp là TSLĐ và nợ ngắn hạn. Do đó, có thể nói công tác quản lý tài chính ngắn hạn có bản chất giống như quản lý vốn lưu động trong doanh nghiệp vì nó cũng liên quan đến TSLĐ và nợ ngắn hạn. Nhưng quản lý vốn lưu động tập trung chủ yếu vào quản lý TSLĐ còn nợ ngắn hạn chỉ được xem xét như một nguồn hình thành vốn lưu động. Quản lý tài chính ngắn hạn xem xét TSLĐ và nợ ngắn hạn trên góc độ ngang nhau và có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Không xem trọng quản lý TSLĐ hay nợ ngắn hạn mà xem xét chúng như hai hình thức biểu hiện của hoạt động quản lý tài chính trong ngắn hạn của doanh nghiệp. Có thể nói công tác quản lý tài chính ngắn hạn và quản lý vốn lưu động là hai cách tiếp cận khác nhau đối với TSLĐ và nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. 3. Tài sản lưu động 3.1. Tài sản lưu động là gì? Đối tượng lao động (nguyên, nhiên vật liệu, bán thành phẩm…) và các tư liệu lao động là những điều kiện cần thiết để tiến hành sản xuất kinh doanh. Đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật được gọi là các TSLĐ còn về hình thái giá trị gọi là Vốn lưu động của doanh nghiệp. TSLĐ là những tài sản thuộc quyền sơ hữu của doanh nghiệp mà thời gian sử dụng, thu hồi, luân chuyển thường dưới một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Giá trị các loại TSLĐ của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của chúng. Quản lý và sử dụng hợp lý các loại TSLĐ có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. 3.2. Những thành phần trong tài sản lưu động 3.2.1 Tiền và các khoản tương đương tiền Tiền mặt là một loại tài sản mà doanh nghiệp nào cũng có và sử dụng . Tiền mặt bao gồm các khoản mục đặc thù như: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi Ngân hàng, tiền đang chuyển… Tiền mặt có thể chuyển thành loại tài sản khác, dùng để mua hàng hoá hoặc để trả nợ dễ dàng hàng mọi tài sản có khác do vậy tiền mặt là tài sản có tính luân chuyển hay tính thanh khoản cao nhất. Vì tiền mặt là phương tiện điển hình mà các công ty dùng để luân chuyển nên nhà quản lý giỏi thường yêu cầu công ty nên có tiền mặt thặng dư. Hơn nữa, biến động có tính thời vụ của doanh số thường dẫn đến có tiền mặt thặng dư trong một số tháng trong năm. Thay vì phải đem số tiền mặt thặng dư này để vào tài khoản ở Ngân hàng có lãi suất rất thấp nhiều công ty đem đầu tư số tiền mặt thặng dư của họ với hy vọng có được lợi nhuận cao hơn. Có thể đầu tư tiền mặt thặng dư vào các tín phiếu của Nhà nước, trái phiếu của công ty hay cổ phiếu. Nếu những khoản đầu tư này có thể chuyển thành tiền mặt một cách nhanh chóng và nếu nhà quản lý có ý xem các khoản đầu tư này như là một nguồn tiền mặt để thoả mãn các nhu cầu thanh toán ( các khoản tương đương tiền ) thì các khoản đầu tư này được gọi là đầu tư ngắn hạn hay đầu tư tạm thời. Tiền mặt được giữ trong doanh nghiệp vì một số mục tiêu sau: Đảm bảo giao dịch kinh doanh hàng ngày, những giao dịch này thường là thanh toán cho khách hàng và thu tiền từ khách hàng, từ đó tạo nên số dư giao dịch. Bù đắp cho Ngân hàng về việc Ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp. Số dư tiền mặt loại này gọi là số dư bù đắp. Đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp biến động không lường trước được của các luồng tiền vào và ra trong doanh nghiệp, loại tiền này tạo nên số dư dự phòng. Hưởng lợi thế trong thương lượng mua hàng ( trả tiền ngay bao giờ cũng được ưu đãi ) loại tiền này tạo nên số dư đầu cơ. Hiệu quả trong sử dụng tiền mặt và lượng tiền mặt được giữ trong doanh nghiệp là bao nhiêu cho hiệu quả sẽ được trình bày ở phần sau. 3.2.2 Các khoản phải thu Các khoản phải thu được hình thành từ tín dụng thương mại của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường việc mua bán chịu là không thể thiếu, việc mua bán chịu ( TDTM ) hình thành các khoản phải thu và phải trả trong đó doanh nghiệp mua chịu khách hàng hình thành khoản phải trả và doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng hình thành khoản phải thu. Khoản phải thu phản ánh nghĩa vụ đòi nợ của doanh nghiệp. Tỷ lệ các khoản phải thu trong các doanh nghiệp có thể khác nhau tuỳ từng loại hình và lĩnh vực hoạt động tuy nhiên chúng thường chiếm từ 15% đến 20% trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Các khoản phải thu bao gồm: Phải thu của khách hàng, trả trước cho người bán, VAT được khấu trừ, phải thu nội bộ, phải thu khác, dự phòng phải thu khó đòi. Ngoài phải thu của khách hàng và trả trước cho người bán phản ánh quan hệ mua bán hàng hoá thì VAT được khấu trừ, phải thu nội bộ… mang bản chất là khoản phải thu vì nó phản ánh số nợ phải thu mà doanh nghiệp có quyền thu hồi. Dự phòng phải thu khó đòi dùng để bù đắp những khoản phải thu quá hạn trên 2 năm hoặc không thể thu được do khách hàng không có khả năng trả nợ. Dự phòng phải thu khó đòi làm giảm các khoản phải thu vì nó được trích % từ khoản phải thu và nếu thành nợ khó đòi thì không thể thu được. 3.2.3 Dự trữ hàng tồn kho Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ, tồn kho là những bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp Dự trữ, hàng tồn kho là tài sản mà doanh nghiệp tồn trữ để bán và sản xuất. Hàng tồn kho được bán trong vòng 1 năm và được sử dụng vào quá trình sản xuất trong vòng 1 năm hoặc 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh nên mang tính ngắn hạn. Dự trữ, hàng tồn kho có 3 loại chính: Nguyên vật liệu tồn kho phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, sản phẩm dở dang và thành phẩm tồn kho. Tuỳ theo ngành nghề kinh doanh mà tỷ trọng các loại dự trữ trên khác nhau. Trong doanh nghiệp sản xuất tỷ trọng tài sản tồn kho dự trữ sản xuất thường lớn. Còn trong doanh nghiệp thương mại tồn kho chủ yếu là sản phẩm hàng hoá chờ tiêu thụ. Mức dự trữ tồn kho của doanh nghiệp cũng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như quy mô sản xuất và nhu cầu nguyên vật liệu cho sản xuất, khả năng sẵn sàng cung ứng của thị trường, thời gian vận chuyển nguyên vật liệu, thời gian của một chu kỳ sản xuất, khả năng tiêu thụ sản phẩm… Việc quản lý tồn kho dự trữ trong các doanh nghiệp là rất quan trọng vì nó chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng tài sản (thường từ 15 đến 30%) và điều quan trọng là dự trữ tồn kho đúng mức, hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp không bị gián đoạn sản xuất, không thiếu sản phẩm hàng hoá để bán và sử dụng tiết kiệm, hợp lý đồng vốn bỏ ra. 3.2.4 Tài sản lưu động khác Ngoài những khoản mục trên TSLĐ còn bao gồm: Tạm ứng: là khoản tiền hay vật tư mà doanh nghiệp giao cho cá nhân hay bộ phận thuộc nội bộ doanh nghiệp để thực hiện nhiệm vụ được giao. Chi phí trả trước: ( chi phí chờ phân bổ ) là những khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng chưa tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh của kỳ này mà đựơc tính cho 2 hay nhiều kỳ hạch toán sau đó. Như tiền thuê TSCĐ trả trước, lãi tiền vay trả trước… Tài sản thiếu chờ xử lý: là những tài sản mất mát, thiếu hụt chưa rõ nguyên nhân phải chờ người có thẩm quyền xử lý. 4. Nợ ngắn hạn Nợ ngắn hạn là những khoản tiền mà doanh nghiệp có trách nhiệm trả trong vòng một chu kỳ hoạt động kinh doanh bình thường hoặc trong vòng một năm. Nợ ngắn hạn bao gồm: Vay ngắn hạn, nợ dài hạn đến hạn trả, phải trả người bán, người mua trả tiền trước, thuế và các khoản phải nộp, phải trả công nhân viên, phải trả đơn vị nội bộ, phải trả phải nộp khác. Trong đó các khoản phải trả, phải nộp trong doanh nghiệp bao gồm các khoản thuế phải nộp nhưng chưa nộp, những khoản phải trả công nhân viên nhưng chưa đến kỳ trả, các khoản đặt cọc của khách hàng ( người mua trả tiền trước) và phải trả đơn vị nội bộ… là phần vốn không lớn lắm nhưng đôi khi nó giúp doanh nghiệp giải quyết những nhu cầu vốn mang tính chất tạm thời. Nhìn chung các nguồn này có ưu điểm là lãi suất cho vay là ưu đãi thường nhỏ hơn lãi suất cho vay của thị trường, thời hạn trả có thể linh hoạt hơn bên ngoài tức là có thể kéo dài thời hạn trả mà không bị tính lãi do đó đây là nguồn vốn có hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhược điểm của các nguồn này là quy mô vốn vay phụ thuộc vào chính sách của công ty trong từng thời kỳ nên không thể đáp ứng ngay lập tức nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Hơn nữa một số khoản không được hoàn trả đúng thời hạn có thể sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vay ngắn hạn là loại vay mà doanh nghiệp có nghĩa vụ phải trả trong vòng một chu kỳ hoạt động hoặc một năm. vay ngắn hạn thường từ các nguồn như vay ngân hàng hoặc vay huy động từ bên ngoài ( phát hành trái phiếu …). Đối với vay Ngân hàng thì điều kiện tín dụng phức tạp hơn và chịu sự kiểm soát của ngân hàng. Có một số hình thức như vay theo hạn mức tín dụng, vay bằng cách thế chấp khoản phải thu, thương phiếu… ưu điểm của nguồn này là đáp ứng nhu cầu vốn tức thời cho doanh nghiệp song nhược điểm chính của nguồn này là lãi suất tương đối cao, điều kiện cho vay khắt khe, đồng thời quy mô và thời gian vốn vay ngắn. Nợ dài hạn đến hạn trả là số nợ dài hạn đến hạn thanh toán trong chu kỳ kinh doanh. Phải trả người bán là nguồn tài trợ ngắn hạn được ưa chuộng của các doanh nghiệp. Cũng như các khoản phải thu, phải trả người bán được hình thành từ quan hệ tín dụng thương mại và công cụ để thực hiện loại tín dụng này chủ yếu là thương phiếu (kỳ phiếu, hối phiếu). Có ưu điểm là nguồn tài trợ tiệnlợi, linh hoạt cả về thời gian thanh toán, điều kiện chiết khấu và qui mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp và khách hàng, rút ngắn chu kỳ sản xuất kinh doanh ngoài ra còn có thể tạo vốn mới bằng cách chiết khấu thương phiếu. Nhược điểm là rủi ro trong quna hệ tín dụng thương mại sẽ cao khi quy mô tăng. Là khoản phải trả người bán nên doanh nghiệp không được hưởng chiết khấu hay giảm giá do đó có thể làm cho chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên. Phải trả phải nộp khác bao gồm các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ, các khoản thu hộ, giữ hộ, các khoản lãi phải trả các bên tham gia liên doanh, nhận ký quỹ, ký cược ngắn hạn… không mang tính chất trao đổi mua bán. II. Hiệu quả công tác quản lý tài chính ngắn hạn Hiệu quả công tác quản lý tài chính ngắn hạn nói chung 1.1 Hiệu quả kinh doanh Để hiểu được hiệu quả hoạt động tài chính ngắn hạn phải đặt trong tổng thể hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện sự phát triển theo chiều sâu, nó phản ánh trình độ khai thác nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là chỉ tiêu tương đối được biểu hiện bằng kết quả sản xuất so với chi phí sản xuất và ngược lại. Một cách khái quát thì: “Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để đạt được mục tiêu xác định.” Có thể đánh giá hiệu quả kinh doanh nói chung bằng chỉ tiêu: H = K C Trong đó: K – Kết quả đạt được C – Chi phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả đó H – Hiệu quả kinh doanh Nâng cao hiệu quả kinh doanh là sử dụng hợp lý các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh, với chi phí không đổi, nhưng tạo ra được nhiều kết quả hơn. Như vậy phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ làm giảm giá thành, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Cần chú ý rằng, trình độ lợi dụng các nguồn lực hay hiệu quả kinh doanh chỉ có thể được phản ánh bằng số tương đối hay các tỷ số. Hiệu quả kinh doanh có thể đánh giá ở các góc độ khác nhau, phạm vi khác nhau và thời kỳ khác nhau. Trên cơ sở đó hiệu quả kinh doanh được phân thành: - Hiệu quả kinh doanh tổng hợp và bộ phận: Hiệu quả kinh doanh tổng hợp đánh giá khái quát hiệu quả cho cả doanh nghiệp trong một thời kỳ xác định. Hiệu quả kinh doanh bộ phận là hiệu quả kinh doanh chỉ xét trên từng lĩnh vực cụ thể như: sử dụng lao động, hoạt động tài chính, sử dụng máy móc, tiêu thụ sản phẩm… - Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn và dài hạn: Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn là hiệu quả kinh doanh được xem xét, đánh giá trong từng khoảng thời gian ngắn như tuần, tháng, quý, năm…(1 chu kỳ sản xuất kinh doanh ). Hiệu quả kinh doanh dài hạn là hiệu quả kinh doanh được xem xét trong thời gian dài thường là vài năm gắn với các chiến lược và kế hoạch dài hạn của doanh nghiệp. Vì mục tiêu tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp trong điều kiện các nguồn lực khan hiếm và cạnh tranh ngày càng gay gắt phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Từ cách đánh giá hiệu quả kinh doanh bộ phận và trong ngắn hạn ta đi đến việc đánh giá hiệu quả hoạt động bộ phận tài chính và trong ngắn hạn hay hiệu quả hoạt động tài chính ngắn hạn của doanh nghiệp. 1.2 Hiệu quả công tác quản lý tài chính ngắn hạn Các chính sách tín dụng thương mại, hệ thống quản lý hàng tồn kho, mở rộng sử dụng nợ và khả năng thanh toán…. của doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Tiền mặt – các hình thức biến đổi theo thời gian của tiền mặt như hàng tồn kho, khoản phải thu…và quay trở lại thành tiền mặt-là mạch máu của mọi công ty. Nếu dòng tiền bị tắc nghẽn nghiêm trọng hay thiếu hụt tạm thời cũng có thể dẫn tới phá sản một công ty. Có một chân lý là một công ty đang làm ăn có lãi thì không có gì đảm bảo là công ty đó có khả năng thanh toán trong tương lai. Đó là vấn đề liên quan đến công tác quản lý tài chính ngắn hạn của doanh nghiệp. Công tác quản lý tài chính ngắn hạn hiệu quả khi các luồng tiền của công ty đáp ứng nhu cầu chi trả hay tài sản lưu động tài trợ được cho nợ ngắn hạn. Mặt khác, hoạt động tài chính ngắn hạn hiệu quả khi lượng tiền mặt được duy trì ở một mức phù hợp. Các khoản phải thu ở trong giới hạn an toàn và dự trữ đủ cho sản xuất kinh doanh, thêm vào đó là một khoản nợ có khả năng chi trả, đáp ứng yêu cầu giảm chi phí nhưng không gây khó khăn cho việc thanh toán. Hiệu quả công tác quản lý tài chính ngắn hạn là phần quan trọng trong hiệu quả hoạt động tài chính nói chung vì đây là hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp. Dựa vào việc dánh giá hoạt động tài chính hàng ngày sẽ rút ra được những hạn chế cần khắc phục một cách kịp thời, dự báo những thay đổi trong tương lai, dự toán vốn đầu tư…Hoạt động tài chính hàng ngày có hiệu quả sẽ báo hiệu một tình hình tài chính có hiệu quả, nói là báo hiệu bởi tài chính luôn hàm chứa rủi ro. Tóm lại, công tác quản lý tài chính ngắn hạn hiệu quả khi tạo ra nhiều lợi nhuận nhất mà vẫn đảm bảo tính ổn định và an toàn. Đó là khi đạt đến sự cân bằng, sự tự chủ về tài chính, khả năng thanh toán được đảm bảo và có hiệu quả kinh doanh. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác quản lý tài chính ngắn hạn 2.1. Vốn lưu động ròng Tại sao hiệu quả quản lý tài chính ngắn hạn lại liên quan đến Vốn lưu động ròng? Công tác quản lý tài chính ngắn hạn bao gồm hai nội dung chính là quản lý tài sản lưu động và nợ ngắn hạn. Tài sản lưu động và nợ ngắn hạn có mối quan hệ với nhau thông qua Vốn lưu động ròng . Vốn lưu động ròng = TSLĐ - Nợ ngắn hạn. Vốn lưu động ròng hay viết tắt là NWC là phần chênh lệch giữa TSLĐ và Nợ ngắn hạn, nó phản án
Tài liệu liên quan