Trong gần hai thập kỷ qua Việt Nam đã đạt được những kết quả to lớn trong việc chuyển đổi từ nền kinh tế hoạch hoá tập trung do Nhà nước điều hành và quản lý sang hệ thống kinh tế định hướng theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Việt Nam đang dần hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới nhờ sự phát triển thương mại quốc tế, sự tăng đầu tư nước ngoài và qua việc tham gia các tổ chức như : gia nhập Khu vực mậu dịch tự do Châu á ( AFTA), trở thành thành viên của diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APFC) và tổ chức thương mại thế giới (WTO). Những cải cách toàn diện về kinh tế xã hội tạo nên sự tăng trưởng kinh tế đáng kể, gần 8% hàng năm và làm cho Việt Nam trở thành một nước có khả năng hấp dẫn các hoạt động đầu tư kinh doanh. Để có được thành quả như vậy do rất nhiều yếu tố trong đó việc phát triển KCN, KCX đã đóng một vai trò hết sức quan trọng, góp phần rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Đối với những nước thuần nông như Việt Nam thì việc phát triển KCN, KCX trước hết tạo tiền đề cho đô thị hoá nông thôn, tạo bước chuyển chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới theo hướng phát triển công nghiệp. KCN, KCX cũng chính là càu nối giữa nước ta với thế giới bên ngoài, nó làm vai trò tiên phong trong viêc chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở cửa.
Từ năm 1992 lần đầu tiên tại Việt Nam xuất hiện một mô hình tổ chức phát triển sản xuất mới- khu chế xuất Tân Thuận( Thành phố Hồ Chí Minh ). Đến nay cả nước có hơn 73 KCN, KCX , KCNC được thành lập. Trong đó có 69 KCN ,3 KCX và 1 KCNC, với tổng diện tích đất trên 13.300ha (không kể khu Dung Quất 14000 ha là khu kinh tế tổng hợp ).
Việc phát triển KCN đã mang lại lợi ích to lớn: Tác động tích cực đến đầu tư, sản xuất công nghiệp để xuất khẩu và phục vụ tiêu dùng trong nước; làm tăng trưởng nhanh và vững chắc GDP; tạo điều kiện cho việc bảo vệ môi sinh, môi trường; Nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân; Tạo điều kiện cho việc chuyển giao công nghệ; Góp phần hình thành và phát triển các đô thị mới và giảm sự cách biệt giữa các vùng. Giá trị sản lượng của các KCN và KCX bình quân trong những năm vừa qua đạt khoảng 1,7 đến 1,8 tỷ USD, giá trị xuất khẩu đạt 1,1 đến 1.2 tỷ USD. Đến nay các KCN trong cả nước đã thu hút trên 400 nghìn lao động.
Tuy nhiên các KCN vừa mới xây dựng còn bộc lộ nhiều nhược điểm về quy hoạch và phân bố mạng lưới các KCN, thiếu các cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào, đặc biệt là các khu dân cư. Pháp luật và sự quản lý của nhà nước đối với các KCN còn có những vấn đề chưa phù hợp.Việc cung cấp lao động có tay nghề cũng còn bất cập và chưa chú trọng đến công tác tiếp thị, vận động đầu tư Vì vậy nhiều KCN đã có cơ sở hạ tầng nhưng không thu hút được các nhà đầu tư, chỉ lấp đầy được khoảng 30 đến 35 % lô đất XNCN. Các KCN tập trung, KCX vừa được xây dựng chủ yếu thu hút các doanh nghiệp công nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp có quy mô lớn. Trong khi đó lại thiếu các cụm công nghiệp và KCN cho các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ.
Xuất phát từ thực tế như vậy với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến quy hoạch KCN, KCX, sau một thời gian nghiên cứu, người viết xin mạnh dạn chọn đề tài: “ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUY HOẠCH VÀ QUẢN LÝ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT Ở VIỆT NAM ”
Chuyên đề không đề cập đến quy hoạch và quản lý ở một vài khu cụ thể, mà xem xét, đánh giá hoạt động này một cách tổng thể trên cả nước, nghiên cứu thực trạng quy hoạch hiện nay ở các KCN, KCX và mạnh dạn đưa ra một vài giải pháp, mô hình mới có thể áp dụng cho KCN,KCX ở Việt Nam trong thời gian tới.
89 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong gần hai thập kỷ qua Việt Nam đã đạt được những kết quả to lớn trong việc chuyển đổi từ nền kinh tế hoạch hoá tập trung do Nhà nước điều hành và quản lý sang hệ thống kinh tế định hướng theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Việt Nam đang dần hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới nhờ sự phát triển thương mại quốc tế, sự tăng đầu tư nước ngoài và qua việc tham gia các tổ chức như : gia nhập Khu vực mậu dịch tự do Châu á ( AFTA), trở thành thành viên của diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APFC) và tổ chức thương mại thế giới (WTO). Những cải cách toàn diện về kinh tế xã hội tạo nên sự tăng trưởng kinh tế đáng kể, gần 8% hàng năm và làm cho Việt Nam trở thành một nước có khả năng hấp dẫn các hoạt động đầu tư kinh doanh. Để có được thành quả như vậy do rất nhiều yếu tố trong đó việc phát triển KCN, KCX đã đóng một vai trò hết sức quan trọng, góp phần rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Đối với những nước thuần nông như Việt Nam thì việc phát triển KCN, KCX trước hết tạo tiền đề cho đô thị hoá nông thôn, tạo bước chuyển chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới theo hướng phát triển công nghiệp. KCN, KCX cũng chính là càu nối giữa nước ta với thế giới bên ngoài, nó làm vai trò tiên phong trong viêc chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở cửa.
Từ năm 1992 lần đầu tiên tại Việt Nam xuất hiện một mô hình tổ chức phát triển sản xuất mới- khu chế xuất Tân Thuận( Thành phố Hồ Chí Minh ). Đến nay cả nước có hơn 73 KCN, KCX , KCNC được thành lập. Trong đó có 69 KCN ,3 KCX và 1 KCNC, với tổng diện tích đất trên 13.300ha (không kể khu Dung Quất 14000 ha là khu kinh tế tổng hợp ).
Việc phát triển KCN đã mang lại lợi ích to lớn: Tác động tích cực đến đầu tư, sản xuất công nghiệp để xuất khẩu và phục vụ tiêu dùng trong nước; làm tăng trưởng nhanh và vững chắc GDP; tạo điều kiện cho việc bảo vệ môi sinh, môi trường; Nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân; Tạo điều kiện cho việc chuyển giao công nghệ; Góp phần hình thành và phát triển các đô thị mới và giảm sự cách biệt giữa các vùng. Giá trị sản lượng của các KCN và KCX bình quân trong những năm vừa qua đạt khoảng 1,7 đến 1,8 tỷ USD, giá trị xuất khẩu đạt 1,1 đến 1.2 tỷ USD. Đến nay các KCN trong cả nước đã thu hút trên 400 nghìn lao động.
Tuy nhiên các KCN vừa mới xây dựng còn bộc lộ nhiều nhược điểm về quy hoạch và phân bố mạng lưới các KCN, thiếu các cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào, đặc biệt là các khu dân cư. Pháp luật và sự quản lý của nhà nước đối với các KCN còn có những vấn đề chưa phù hợp.Việc cung cấp lao động có tay nghề cũng còn bất cập và chưa chú trọng đến công tác tiếp thị, vận động đầu tư… Vì vậy nhiều KCN đã có cơ sở hạ tầng nhưng không thu hút được các nhà đầu tư, chỉ lấp đầy được khoảng 30 đến 35 % lô đất XNCN. Các KCN tập trung, KCX vừa được xây dựng chủ yếu thu hút các doanh nghiệp công nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp có quy mô lớn. Trong khi đó lại thiếu các cụm công nghiệp và KCN cho các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ.
Xuất phát từ thực tế như vậy với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến quy hoạch KCN, KCX, sau một thời gian nghiên cứu, người viết xin mạnh dạn chọn đề tài: “ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUY HOẠCH VÀ QUẢN LÝ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT Ở VIỆT NAM ”
Chuyên đề không đề cập đến quy hoạch và quản lý ở một vài khu cụ thể, mà xem xét, đánh giá hoạt động này một cách tổng thể trên cả nước, nghiên cứu thực trạng quy hoạch hiện nay ở các KCN, KCX và mạnh dạn đưa ra một vài giải pháp, mô hình mới có thể áp dụng cho KCN,KCX ở Việt Nam trong thời gian tới.
Trong khi nghiên cứu vấn đề, chuyên đề đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, đi từ những nội dung có tính chất lý luận đến các vấn đề thực tiễn, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề đang nghiên cứu. Ngoài ra, các phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp, lấy ví dụ... cũng được sử dụng để làm nổi bật vấn đề.
Chuyên đề được trình bày với kết cấu gồm 3 chương:
Chương I : Tổng quan về khu công nghiệp, khu chế xuất – quy hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất.
Chương II : Thực trạng quy hoạch và quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất hiện nay.
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất.
Chuyên đề này được hoàn thành với sự hướng dẫn của thầy giáo TS Nguyễn Tiến Dũng, cùng các cán bộ công nhân viên chức trong ban quan lý khu đô thị mới Nam Trung Yên. Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với sự chỉ bảo tận tình và những ý kiến đóng góp của Thầy, và các cán bộ nhân viên trong ban đã giúp đỡ em viết đề tài trong thời gian vừa qua.
Khoá luận đã đề cập đến một vấn đề khá lớn và tương đối phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian và kinh nghiệm thực tiễn. Do điều kiện thời gian nghiên cứu chưa nhiều, khả năng có hạn nên khoá luận khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ dẫn của thầy, cô giáo và những người có quan tâm đến vấn đề này.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT – QUY HOẠCH KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT.
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ KCN, KCX.
1. Các khái niệm cơ bản .
1.1 Sự hình thành của KCN, KCX trên thế giới
Điểm khởi đầu của quá trình công nghiệp hoá ở Châu Âu diễn ra vào những năm cuối thế kỷ XVIII tại Anh, gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất với sự phát minh ra máy hơi nước và máy dệt. Những nguồn lợi mang lại từ việc khai thác tại các nước thuộc địa, quyền tự do của công dân và tự do kinh doanh buôn bán đã hội tụ đủ điều kiện cho sự phát triển sản xuất theo phương thức công nghiệp tại hòn đảo này. Sau đó công nghiệp hoá được mở rộng nhanh chóng trên toàn châu Âu, tạo nên một nhu cầu mới về công trình công nghiệp hoá. Và chính cuộc cách mạng công nghiệp lại đồng thời tạo ra kỷ thuật mới và vật liệu mới để thực hiện các nhiệm vụ xây dựng vừa mới được đặt ra, trước hết là công nghiệp sản xuất và chế tạo thép . Đây có thể coi là móc đầu tiên của sự hình thành các công trình công nghiệp.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, sự phát triển nhanh chóng của các nước công nghiệp phát triển gặp phải những khó khăn gay gắt về nguồn nhân công tiền công thấp ở trong nước và nguồn nguyên liệu cho công nghiệp vốn trước đây được tước đoạt một cách tự do từ các nước thuộc địa, nay đã giành được độc lập. Mặt khác, do trình độ công nghệ còn bị hạn chế, nên kỹ thuật tự động hoá chưa đủ sức giải quyết những khó khăn này của các nước phát triển.
Trong khi đó, các nước đang phát triển vừa mới thoát ra khỏi ách đô hộ thực dân của chủ nghĩa đế quốc lại rơi vào tình trạng khó khăn trong phát triển kinh tế, thất nghiệp gia tăng, thiếu vốn đầu tư và ngoại tệ để khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, xây dựng nền kinh tế dân tộc. Mặt khác, do thiếu vốn, thiếu kỹ thuật công nghệ tiên tiến, thiếu cán bộ quản lý và công nhân lành nghề có trình độ cao nên các nước đang phát triển khó có điều kiên tạo đầy đủ ngay một lúc trên phạm vi cả nước những điều kiện và yếu tố để có được những sản phẩm công nghiệp chế tạo để có được ngay những sản phẩm công nghiệp chế tạo đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới .
Vì vậy có sự gặp nhau về nhu cầu phát triển kinh tế của các nước phát triển và các nước đang phát triển. Sự thôi thúc tìm kiếm nguồn nhân công giá rẻ và nguyên liệu đã thúc đẩy các nước phát triển di chuyển các cơ sở sản xuất công nghiệp dùng nhiều lao động, tài nguyên ra nước ngoài, đến gần các nguồn lực đó. Còn các nước đang phát triển, thấy được lợi thế và hạn chế của mình, đã cố gắng tạo ra một môi trường kinh tế thích hợp để thu hút đầu tư từ bên ngoài nhằm giải quyết những bế tắc của mình và thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Khu công nghiệp, Khu chế xuất được thành lập trên cơ sở kiến tạo những điều kiện, yếu tố thuận lợi về pháp lý và kỹ thuật hạ tầng trên một địa bàn hạn chế phù hợp với khả năng về tài chính, quản lý ; là một sách lược khôn khéo; linh hoạt và rất có ý nghĩa cả về phương diện vận dụng tư duy lý thuyết kinh tế vào thực tiễn các quan hệ kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển.
Khu công nghiệp,Khu chế xuất cũng chính là những hình thức tạo ra những điều kiện có thể lợi dụng và phát huy nhanh chóng các lợi thế so sánh của một nước hoặc một vùng bằng cách tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Rõ ràng xét về mặt lợi ích và hiệu quả theo nguyên lý của lý thuyết lợi thế so sánh, khu chế xuất là nơi hội tụ về quyền lợi của các nước đang phát triển và các công ty xuyên quốc gia, người nắm giữ phần lớn nguồn đầu tư nước ngoài trên thế giới hiện nay.
1.2 Bối cảnh hình thành chủ trương xây dựng các khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam :
Thập kỷ 60 là thời kỳ hình thành và phát triển các khu công nghiệp tập trung khá mạnh mẽ trên địa bàn cảc nước:
Ở miền Bắc, thực hiện đường lối công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, do đó nhiều khu công nghiệp lớn đã được xây dựng, gắn với các đô thị hiện có như: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Bắc Giangv.v…hoặc là các cơ sở để phát triển các thành phố mới như: Khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên, Khu công nghiệp Việt Trì - Lâm Thao. Khu công nghiệp Uông bí, Khu công nghiệp Phả Lại- Chí Linh, Khu công nghiệp Xuân Hoà, Xuân Mai, Hoà Bình,Bỉm Sơn…
Ở Miền Nam , dưới chế độ Mỹ- Nguỵ phần lớn các Khu công nghiệp phát triển ở các đô thị lớn là: Sài Gòn, Biên Hoà, Tân Mai, Nha Trang, Cần Thơ, Đà Nẵng. Từ giữa những năm 60, tại miền Nam cơ quan SONADEZI được thành lập, với chức năng quản lý và phát triển các Khu công nghiệp tập trung từ khâu quy hoạch, đầu tư xây dựng đến quản lý quá trình vận hành- khai thác và sử dụng các Khu công nghiệp tập trung.
Sau năm 1975, miền Nam được giải phóng, cả nước có khoảng 3000 xí nghiệp công nghiệp thu hút 10% tổng lao động xã hội của cảc nước và đongs góp 32.4% trong tổng sản phẩm kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này đã phải hoạt động trong những điều kiện hết sức khó khăn do thiếu năng lượng, thiếu nguyên vật liệu, cơ sở hạ tầng kỹ thuật yếu kém, công nghệ thiết bị lạc hậu nên năng suất lao động thấp, các nhà máy chỉ phát huy được khoảng 30-40% công suất. Tình hình quản lý các khu công nghiệp rất yếu kém, dẫn đến tình trạng phát triển tự phát, vô tổ chức gây ảnh hưởng xấu đến tình trạng phát triển tự phát, vô tổ chức gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất của từng xí nghiệp .
Từ năm 1986- 1990sau đại hội toàn quốc lần thứ 5, chủ trương phát triển công nghiệp đã được đổi mới, theo hướng phục vụ sản xuất nông nghiệp, chế biến nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng và chuẩn bị cơ sở vật chất phát triển công nghiệp nặng cho những giai đoạn sau.
Từ năm 1991, thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000, nhà nước đã có chủ trương ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp như : Công nghiệp chế biến các nông sản, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và nông thôn; Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; Công nghiệp tư liệu sản xuất khai thác chế biến khoáng sản, ưu tiên phát triển ngành năng lượng, đẩy nhanh công nghiệp chế biến dầu khí, nâng cao năng năng lực bưu điện, ổn định ngành than, phát triển một số ngành công nghiệp vật liệu, nguyên liệu, điện tử, tin học v.v…
Ngày 18/10/1991, Hội đồng Bộ trưởng đã có nghị định 322/HĐBT ban hành kèm theo quy chế Khu chế xuất tại Việt Nam, mở đầu cho một giai đoạn hình thành các khu công nghiệp tập và Khu chế xuất trên lãnh thổ Việt nam, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần coá sự quản lý của Nhà nước theo định hưóng Xã hội chủ nghĩa.
1.3 Định nghĩa KCN, KCX trên thế giới và Việt Nam
Định nghĩa Khu công nghiệp :
Tuỳ điều kiện từng nước mà Khu công nghiệp có những nội dung hoạt động kinh tế khác nhau. Nhưng tựu trung lại, hiện nay trên thế giới có hai mô hình phát triển Khu công nghiệp, cũng từ đó hình thành hai định nghĩa khác nhau về khu công nghiệp.
- Định nghĩa 1:
Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở... Khu công nghiệp theo quan niệm này về thực chất là khu hành chính - kinh tế đặc biệt như khu công nghiệp Batam Indonesia, các công viên công nghiêp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu.
- Định nghĩa 2:
Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống. Đi theo quan niệm này, ở một số nước như Malaixia, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan đã hình thành nhiều khu công nghiệp với qui mô khác nhau.
- Định nghĩa của Việt Nam:
Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao - ban hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu công nghiệp là "khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất". Như vậy, khu công nghiệp ở Việt Nam được hiểu giống với định nghĩa hai.
Định nghĩa về Khu chế xuất
Với tính chất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, đứng ngoài chế độ mậu dịch và thuế quan của một nước, ngày nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khu chế xuất, và do đó, có nhiều định nghĩa khác nhau về mô hình kinh tế này.
- Định nghĩa của Hiệp hội các khu chế xuất thế giới( WEPZA):
Theo điều lệ hoạt động của WEPZA, khu chế xuất bao gồm tất cả các khu vực được Chính phủ các nước cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, khu công nghiệp tự do hoặc bất kì khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được WEPZA công nhận. Định nghĩa này về cơ bản đồng nhất khu chế xuất với khu vực miễn thuế. Theo định nghĩa này, có thể xếp Hồng Kông và Singapo vào các khu chế xuất.
- Định nghĩa của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc( UNIDO):
Theo UNIDO, khu chế xuất là "khu vực được giới hạn về hành chính, có khi về địa lý, được hưởng một chế độ thuế quan cho phép tự do nhập khẩu trang bị và sản phẩm nhằm mục đích sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chế độ thuế quan được ban hành cùng với những qui định luật pháp ưu đãi, chủ yếu về thuế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài." Khái niệm khu chế xuất bao hàm viêc thành lập các nhà máy hiện đại trong một khu công nghệp và một loạt những ưu đãi nhằm khuyến khích việc đầu tư của các nhà kinh doanh nước ngoài vào nước sở tại. Với định nghĩa hẹp nói trên của UNIDO, về bản chất hoạt động kinh tế khu chế xuất khác với khu mậu dịch tự do, cảng tự do. Bởi hoạt động chính trong khu chế xuất là sản xuất công nghiệp, mặc dù trên thực tế các hoạt động kinh doanh cũng được thực hiện tại một số khu chế xuất.
- Định nghĩa của Việt Nam:
Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao- ban hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu chế xuất là "khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập”. Như vậy, về cơ bản, khu chế xuất ở Việt Nam cũng được hiểu theo như định nghĩa hẹp của UNIDO.
1.4. Sự giống và khác nhau giữa KCN, KCX:
a. Giống nhau:
- Một là, qui mô khu chế xuất và khu công nghiệp gần như nhau, khoảng một vài trăm ha. Thí dụ diện tích khu chế xuất Tân Thuận là 300 ha, khu chế xuất Linh Trung là 60 ha, khu chế xuất Hải Phòng là 100 ha; diện tích khu công nghiệp Biên Hoà là 365 ha, khu công nghiệp Nội Bài là 100 ha, khu công nghiệp Sài Đồng là 97 ha...
- Hai là, các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp chủ yếu có qui mô vừa và nhỏ, thường dưới 5 triệu đôla, với số lao động khoảng từ 300 đến 400 người. Những ngành nghề đặc trưng trong khu chế xuất và khu công nghiệp là: điện tử, sợi dệt, may mặc, chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng, cơ khí chế tạo, các ngành không gây ô nhiễm môi trường hoặc gây ô nhiễm ít có thể xử lí bằng các biện pháp và phương tiện trong khu...
- Ba là, đối tượng đầu tư trong khu chế xuất và khu công nghiệp là các tổ chức kinh tế và cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam, các tổ chức kinh tế và cá nhân ở nước ngoài.
- Bốn là, về hình thức đầu tư, trong khu chế xuất và khu công nghiệp được thành lập doanh nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư, doanh nghiệp liên doanh, hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Năm là, để xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu chế xuất và khu công nghiệp, có thể dùng phương thức trong nước tự đầu tư hoặc kêu gọi đầu tư trực tiếp của nước ngoài theo hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Sáu là, để quản lí Nhà nước đối với khu chế xuất và khu công nghiệp, Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban quản lí. Ban quản lí khu chế xuất và khu công nghiệp là cơ quan thực hiện dịch vụ quản lí "một cửa" cho các nhà đầu tư.
b. Khác nhau:
- Thứ nhất, về mục tiêu hoạt động, doanh nghiệp khu chế xuất phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị trường ngoài nước, còn doanh nghiệp khu công nghiệp được tiêu thụ sản phẩm tại thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Thứ hai, do xuất phát từ mục tiêu khác nhau, nên có một số điều kiện ưu đãi dành cho các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp cũng khác nhau.
Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài ban hành vào tháng 7 năm 2000 và Nghị định số 24/ 2000/ NĐ- CP ngày 31 tháng 7 năm 2000 qui định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp dành cho doanh nghiệp khu công nghiệp và doanh nghiệp khu chế xuất như sau:
+ Đối với doanh nghiệp khu chế xuất, bất kể là của chủ đầu tư trong hay ngoài nước đều được hưởng mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cao và như nhau, doanh nghiệp sản xuất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10%, được miễn 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo; doanh nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là 15%, được miễn 2 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo.
+ Đối với doanh nghiệp khu công nghiệp, doanh nghiệp sản xuất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% (với điều kiện xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở lên) được miễn 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo, là 15% (với điều kiện xuất khẩu trên 50% sản phẩm) được miễn 2 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo; doanh nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là 20%, được miễn 1 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo.
2. Mục tiêu và đặc điểm của khu công nghiệp, khu chế xuất:
2.1. Mục tiêu:
Sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp, khu chế xuất trên thế giới gắn liền với những mục tiêu của các nước thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất và những mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài.
Mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài:
- Giảm chi phí sản xuất sản phẩm bằng cách tận dụng các yếu tố sản xuất rẻ ở các nước đang phát triển.
Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế các nước phát triển, nhất là từ đầu những năm 60, đã vấp phải khó khăn về nguồn lao động ở các nước đó. Khi tại các nước này, nguồn nhân công tiền công thấp ngày càng khan hiếm, giá lao động, chi phí bảo hiểm xã hội ngày một tăng, đã thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia nhanh chóng quyết định chuyển các ngành công nghiệp có hàm lượng lao động sống cao sang các nước đang phát triển. Thêm vào đó, do giá đất ngày càng cao, sự phát triển của các ngành dùng nhiều nguyên liệu, công nghiệp tiêu chuẩn hóa như cơ khí chế tạo, sản xuất cấu kiện... không đòi hỏi trình độ công nghệ cao tại các nước tư bản phát triển tỏ ra không còn hiệu quả do các khoản chi phí vận chuyển nguyên liệu nhập khẩu từ bên ngoài ngày càng tăng, làm giảm khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường thế giới. Điều này có thể giúp chúng ta lí giải vì sao các công ty xuyên quốc gia lại thường đầu tư vào nh