Môi giới chứng khoán là một nghiệp vụ cơ bản của các công ty chứng khoán. Khởi thuỷ của các công ty chứng khoán là các nhà tài chính trung gian giúp khác hàng mua bán các giấy tờ có giá và các nhà tài chính này hoạt động độc lập không thuộc một tổ chức nào. Khi mà thị trường các giấy tờ có giá phát triển đến một trình độ cao hơn đó là thị trường chứng khoán thì nó đòi hỏi các nhà trung gian tài chính này phải tập họp lại hoạt động theo tổ chức và công ty chứng khoán ra đời.
Thị trường chứng khoán Việt Nam tuy phôi khai từ những năm 90 của thế kỷ trước, tuy nhiên thị trường chính thức đi vào hoạt động đánh dấu bằng việc đi vào hoạt động hai Trung tâm Giao dịch chứng khoán đó là TTGDCK Tp.Hồ Chí Minh(tháng 7/2000) và TTGDCK Hà Nội(tháng 3/2005). TTGDCK Tp.Hồ Chí Minh đi vào hoạt động được hơn 5 năm, 5 năm là khoảng thời gian không dài đối với quá tình hình thành và phát triển của một doanh nghiệp đặc biệt là đối với các công ty chứng khoán. Tuy nhiên 5 năm cũng là khoảng thời gian đủ để nhìn nhận và đánh giá lại vai trò của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong những kết quả đạt được thì một thành công lớn nhất rong 5 năm qua đó là góp phần đào tạo được qua thực tiễn một đội ngũ các nhà môi giới, phân tích, tư vấn hiểu nghề, biết việc để hỗ trợ, tư vấn có hiệu quả vào quá trình ra quyết định của các nhà đầu tư cũng như vào quyết định ra nhập thị trường chứng khoán của một số doanh nghiệp.
Bên cạnh những vấn đề đạt được thì còn tồn tại rất nhiều hạn chế mà trong đó lợi nhuận của các công ty chứng khoán thu được từ nghiệp vụ môi giới còn rất thấp, chưa xứng đáng là nghiệp vụ cơ bản hàng đầu của các công ty chứng khoán. Có rất nhiều nguyên nhân để giải thích cho vấn đề này, đó là do: Việc các công ty chưa có một đội ngũ nhân viên môi giới chuyên nghiệp nên chưa thu hút được khách hàng; hay việc các công ty chứng khoán rơi vào cuộc chiến giảm mức phí môi giới để tạo sự cạnh tranh và một nguyên nhân khác là thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển, hệ thống văn bản pháp quy thiếu đồng bộ . Những vấn đề này làm cho nghiệp vụ môi giới của các công ty chứng khoán nói chung và của công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương nói riêng chưa thực sự phát triển. Đây chính là lý do em chọn đề tài: “Giải pháp phát triển hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam” để làm báo cáo chuyên đề thực tập.
89 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1271 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp phát triển hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
1.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Môi giới chứng khoán là một nghiệp vụ cơ bản của các công ty chứng khoán. Khởi thuỷ của các công ty chứng khoán là các nhà tài chính trung gian giúp khác hàng mua bán các giấy tờ có giá và các nhà tài chính này hoạt động độc lập không thuộc một tổ chức nào. Khi mà thị trường các giấy tờ có giá phát triển đến một trình độ cao hơn đó là thị trường chứng khoán thì nó đòi hỏi các nhà trung gian tài chính này phải tập họp lại hoạt động theo tổ chức và công ty chứng khoán ra đời.
Thị trường chứng khoán Việt Nam tuy phôi khai từ những năm 90 của thế kỷ trước, tuy nhiên thị trường chính thức đi vào hoạt động đánh dấu bằng việc đi vào hoạt động hai Trung tâm Giao dịch chứng khoán đó là TTGDCK Tp.Hồ Chí Minh(tháng 7/2000) và TTGDCK Hà Nội(tháng 3/2005). TTGDCK Tp.Hồ Chí Minh đi vào hoạt động được hơn 5 năm, 5 năm là khoảng thời gian không dài đối với quá tình hình thành và phát triển của một doanh nghiệp đặc biệt là đối với các công ty chứng khoán. Tuy nhiên 5 năm cũng là khoảng thời gian đủ để nhìn nhận và đánh giá lại vai trò của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong những kết quả đạt được thì một thành công lớn nhất rong 5 năm qua đó là góp phần đào tạo được qua thực tiễn một đội ngũ các nhà môi giới, phân tích, tư vấn hiểu nghề, biết việc để hỗ trợ, tư vấn có hiệu quả vào quá trình ra quyết định của các nhà đầu tư cũng như vào quyết định ra nhập thị trường chứng khoán của một số doanh nghiệp.
Bên cạnh những vấn đề đạt được thì còn tồn tại rất nhiều hạn chế mà trong đó lợi nhuận của các công ty chứng khoán thu được từ nghiệp vụ môi giới còn rất thấp, chưa xứng đáng là nghiệp vụ cơ bản hàng đầu của các công ty chứng khoán. Có rất nhiều nguyên nhân để giải thích cho vấn đề này, đó là do: Việc các công ty chưa có một đội ngũ nhân viên môi giới chuyên nghiệp nên chưa thu hút được khách hàng; hay việc các công ty chứng khoán rơi vào cuộc chiến giảm mức phí môi giới để tạo sự cạnh tranh và một nguyên nhân khác là thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển, hệ thống văn bản pháp quy thiếu đồng bộ…. Những vấn đề này làm cho nghiệp vụ môi giới của các công ty chứng khoán nói chung và của công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương nói riêng chưa thực sự phát triển. Đây chính là lý do em chọn đề tài: “Giải pháp phát triển hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam” để làm báo cáo chuyên đề thực tập.
2.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ môi giới của công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Viết Nam cũng như việc nghiên cứu sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam để tìm ra những yếu tố tác động tới hoạt động của các công ty chứng khoán, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm phát triển hoạt động môI giới tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng kết hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp so sánh và phương pháp phân tích hoạt động sản suất kinh doanh của công ty trên cơ sở các báo cáo tài chính, các định hướng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung và của công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng. Đề tài đã đưa ra các cơ sở lý luận trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn để rút ra những kết luận và những đề xuất chủ yếu.
4. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI.
Ngoài phần giới thiệu chung thì đề tài gồm ba chương :
Chương 1: Khái quát hoạt động môi giới của các công ty chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu và thu thập tài liệu, tuy nhiên do hạn chế về thời gian nghiên cứu và kiến thức nên báo cáo không tránh khỏi những sai lầm trong hạn chế. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ của thầy đề báo cáo của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm công ty chứng khoán
Để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán hiệu quả, một yếu tố không thể thiếu được là các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị trường . Mục tiêu của việc hình thành thi trường chứng khoán khoán là tạo nên kênh huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế và tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán.Thị trường chứng khoán không giống như các thị trường hàng hoá thông thường khác vì hàng hoá của thị trường là các chứng khoán - một loại hàng hoá đặc biệt. Với loại hàng hoá này người mua người bán không trực tiếp có thể mua bán do chứng khoán là loại hàng hoá chỉ có giá trị chứ không có giá trị sử dụng nên không thể đánh giá cũng như nhận xét được loại hàng hoá này có thực sự là tốt hay xấu. Do vậy công ty chứng khoán ra đời làm trung gian giữa người mua và người bán chứng khoán bởi vì chỉ có các công ty chứng khoán với đội ngũ nhân viên có đủ năng lực trình độ, có khả năng phân tích sẽ đứng ra kết nối giữa người mua và người bán. Để thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động một cách có hiệu quả, trật tự và công bằng thì không thể thiếu sự có mặt của công ty chứng khoán- một thành viên không thể thiếu của thị trường chứng khoán.
Nguồn gốc ban đầu của công ty chứng khoán bắt nguồn từ các nhà môi giới cá nhân hoạt động độc lập. Lúc này, khi mà thị trường chưa phát triển, số lượng các nhà đầu tư tham gia thị trường còn ít, các nhà môi giới độc lập có thể đảm nhận việc trung gian giữa người mua và người bán. Khi mà thị trường chứng khoán phát triển, số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường ngày càng nhiều, chức năng và hoạt động giao dịch của nhà môi giới tăng lên đòi hỏi sự ra đời của công ty chứng khoán là sự tập hợp của các nhà môi giới riêng lẻ
Như vậy Công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán nhằm thu phí. Công ty chứng khoán được Uỷ ban chứng khoán cấp phép thành lập hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực chứng khoán, có tư cách pháp nhân và phải đáp ứng đầy đủ các quy định về nguồn vốn đối với từng nghiệp vụ hoạt động và thực hiện chế độ hạch toán kế toán độc lập. Như vậy thực chất công ty chứng khoán là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực chứng khoán với các nghiệp vụ chính là môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn phát hành.
Theo quyết định số 55/2004/QĐ-BTC ngày 17 tháng 6 năm 2004 của bộ trưởng Bộ tài chính thì “Công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập theo pháp luật Việt Nam để kinh doanh chứng khoán theo giấy phép kinh doanh chứng khoán do Uỷ ban chứng khoán nhà nước cấp.”
Theo điều 65 của Nghị định 144/NĐ-CP về Chứng khoán và thị trường chứng khoán thì Công ty chứng khoán được thực hện các nghiệp vụ:
Môi giới chứng khoán;
Tự doanh chứng khoán;
Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán;
Bảo lãnh phát hành chứng khoán;
Tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán.
Ngoài ra công ty chứng khoán còn được thực hiện các dịch vụ lưu ký chứng khoán và dịch vụ tài chính khác phù hợp với quy định của pháp luật.
Cũng theo điều 66 của NĐ 144 thì để được cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán thì công ty chứng khoán cần đáp ứng các điều kiện đó là:
Có phương án hoạt động kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và phát triển ngành chứng khoán.
Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật cho kinh doanh chứng khoán.
Có mưc vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh như sau:
+ MôI giới chứng khoán: 3 tỷ đồng Việt Nam;
+ Tự doanh chứng khoán: 12 tỷ đồng Việt Nam;
+ Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán: 3 tỷ đồng Việt Nam;
+ Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 22 tỷ đồng Việt Nam;
+ Tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán: 3 tỷ đồng Việt Nam;
Trong trường hợp công ty xin cấp giấy phép cho nhiều loại hình kinh doanh thì vốn pháp định là tổng số vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh mà công ty được cấp phép.
Giám đốc, Phó giám đốc(Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc), các nhân viên kinh doanh của công ty chứng khoán phải đáp ứng đủ điều kiện để được cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp.
Giấy phép bảo lãnh phát hành chỉ được cấp cho công ty có Giấy phép tự doanh.
Trên thực tế, một công ty chứng khoán không nhất thiết phải thực hiện tất cả các nghiệp vụ vừa nêu nhưng một nghiệp vụ tiêu biêu biểu thể hiện rõ bản chất của công ty chứng khoán đó là nghiệp vụ môi giới và nó trở thành nghiệp vụ cơ bản mà hầu hết các công ty chứng khoán đều tham gia.
1.1.2. Phân loại công ty chứng khoán
1.1.2.1. Theo hình thức tổ chức hoạt động của công ty chứng khoán.
Chia theo hình thức tổ chức hoạt động thì hiện nay công ty chứng khoán có ba loại hình đó là công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh.
Công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập, các thành viên góp vốn gọi là các cổ đông. Các cổ đông chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn góp của mình. Dựa trên số lượng cổ phần nắm giữ mà Đại hội cổ đông bầu ra hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng quản trị và ban giám đốc. Giám đốc(Tổng giám đốc có thể là thành viên hội đồng quản trị nhưng cũng có thể là người được thuê ngoài). Giám đốc chịu trách nhệm trước Hội đồng quản trị trước tình hình hoạt động kinh doanh của công ty.
Theo loại hình công ty này thì hiện nay ở Việt Nam có 7 công ty đó là:
Công ty cổ phần chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh.
Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt.
Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn.
Công ty cổ phần chứng khoán Đệ Nhất.
Công ty cổ phần chứng khoán Hải Phòng.
Công ty cổ phần chứng khoán Mê Kông.
Công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long.
Công ty trách nhiệm hữu hạn(TNHH).
Đây là loại hình công ty mà thao đó các thành viên góp vốn phải chịu trách nhiệm giới hạn trong số vốn mà họ đã góp. Công ty TNHH có hai loại hình chính là công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH nhiều thành viên. Tuỳ vào lượng vốn góp của các bên mà xác định chức Chủ tich hội đồng quản trị.
Ưu điểm của hai loại hình công ty này là có thể huy động vốn dễ dàng thông qua việc bổ xung vốn của các thành viên góp vốn hoặc huy động vốn trên thị trường chứng khoán thông qua việc phát hành cổ phiếu( đối với công ty cổ phần) và phát hành trái phiếu (đối với công ty TNHH).
Theo loại hình công ty TNHH thì hiện nay ở Việt Nam có 6 công ty đó là:
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Đầu tư & phát triển Việt Nam.
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Thương mại Cổ phần nhà Hà Nội.
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Đông Á
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Á Châu ACB.
Công ty hợp danh.
Là loại hình công ty có từ hai thành viên góp vốn tạo nên. Tuỳ vào số vốn góp của các bên tham gia mà xác định thành viên ban giám đốc. Thành viên tham gia vào việc điều hành công ty được gọi là thành viên hợp danh. Các thành viên phải chịu trách nhiệm vô hạn về những nghĩa vụ tài chính của công ty bằng toàn bộ tìa snả của mình. Ngược lại các thành viên không tham gia điều hành công ty được gọi là thành viên góp vốn, họ chỉ chịu trách nhiệm về những khoản nợ của công ty trong giới hạn phần vốn góp của mình vào công ty.
Theo loại hình công ty này thì hiện nay ở Việt Nam chưa có công ty chứng khoán nào.
1.1.2.2.Theo hình thức kinh doanh.
Nếu phân chia theo tiêu thức này thì có 6 loại công ty chứng khoán :
Công ty môi giới: Loại công ty này còn được gọi là công ty thành viên vì nó là thành viên củaSở giao dịch chứng khoán. Công việc kinh doanh chủ yếu cảu công ty môI giới là mua và bán chứng khoán cho khách hàng của họ trên Sở giao dịch chứng khoán mà công ty đó là thành viên.
Công ty đầu tư ngân hàng: Loại công ty này phân phối mới được phát hành cho công chúng qua việc mua bán chứng khoán do công ty cổ phần phát hành và bán lại cho công chúng theo giá tính gộp cả lợi nhuận của công ty. Vì vậy công ty này còn được gọi là nhà bảo lãnh phát hành.
Công ty giao dịch phi tập trung: Công ty này mua bán chưng khoán tại thị trường OTC.
Công ty dịch vụ đa năng: Những công ty này không bị giới hạn hoạt động ở một lĩnh vực nào của ngành công nghiệp chứng khoán. ngòi 3 dịch vụ trên, họ còn cung cấp cho khách hàng dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, niêm yết chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán, uỷ nhiệm các giao dịch buôn bán cho khách hàng trên thị trường OTC. Sự kết hợp giữa các sản phẩm và kinh nghiệm của công ty sẽ quyết định cơ sở các dịch vụ mà họ có thể cung cấp cho khach hàng.
Công ty buôn bán chứng khoán: Là công ty đứng ra mua bán chứng khoán với chi phí do công ty tự chịu, công ty này pahỉ cố gằng bán chứng khoán với giá cao hơn giá mua vào. Vì vậy loại công ty này hoạt động với tư cách là ngừi uỷ thác chứ không phải là đại lý nhận uỷ thác.
Công ty buôn bán chứng khoán không nhận hoa hồng: Đây là loại hình công ty mà theo đó công ty này nhận chênh lệch giá qua việc mua bán chứng khoán, do đó họ còn được gọi là nhà tạo lậo thị trường, nhất là trên thị trường giao dịch OTC.
Các công ty chứng khoán là đối tượng quản lý của các nguyên tắc, quy chế do Uỷ ban chứng khoán nhà nước ban hành. Các quy chế này chi phối kinh doanh của các công ty chứng khoán, kiểm soát họ trong mối quan hệ của các công ty chứng khoán.
1.1.3.Vai trò của công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán là một thành viên không thể thiếu của thị trường chứng khoán, nó có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó vừa đóng via trò là nhà đầu tư trên thị trường cho chính mình lại vừa là tổ chức trung gian giúp kết nối giữa người mua và người bán, giữa tổ chức phát hành và các nhà đầu tư và hơn nữa nó còn cung cấp các dịch vụ nhằm “bôi trơn” thị trường giúp cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả hơn và trở thành kênh huy dộng vốn dài hạn cho nền kinh tế. Với các chủ thể khác nhau tham gia thị trường thì công ty chứng khoán đều có những vai trò khác nhau:
1.1.3.1.Đối với tổ chức phát hành.
Mục tiêu của các tổ chức phát hành khi tham gia thị trường chứng khoán là huy động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán nợ và chứng khoán vốn. Vì vậy thông qua hoạt động bảo lãnh phát hnàh, đại lý phát hành, các công ty chứng khoán có vai trò tạo ra cơ chế huy dộng vốn phục vụ các nhà phát hành.
Thông qua hình thức bảo lãnh phát hành, công ty chứng khoán sẽ giúp tổ chức phát hành các công đoạn từ việc tư vấn cho doanh nghiệp lựa chọn phương thức xác định giá trị doanh nghiệp, xây dựng phương án cổ phần hoá, tư vấn phát hành. Khi tham gia thị trường chứng khoán không phải tất cả các công ty đều có được chiến lược kinh doanh hợp lý, thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành công ty chứng khoán giúp tổ chức phát hành xây dựng được chiến lược kinh doanh, chiến lược cạnh tranh hợp lý. Và cũng thông qua hình thức bảo lãnh phát hành thì công ty mới chắc chắn được là thu được vốn theo đúng dự định. Không những thế, công ty chứgn khoán còn giúp doanh nghiệp bình ổn giá chứng khoán sau khi phát hành trong giai đoạn đầu.
Một nguyên tắc hoạt động căn bản của thị trường chưng khoán là nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này đòi hỏi các nhà đầu tư và các tổ chức phát hành không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua một tổ chức trung gian - đó là các công ty chứng khoán. Tổ chức phát hành đến với các công ty chứng khoán để chào bán chứng khoán cảu mình phát hành ra và ngược lại các nhà đầu tư lại đến các công ty chứng khoán để có thể mua bán các chứng khoán phục vụ mục đích riêng của mình.
1.1.3.2.Đối với các nhà đầu tư tham gia trên thị trường.
Không phải nhà đầu tư nào khi tham gia thị trường chứng khoán cũng hiểu biết sâu rộng về thị trường chứng khoán. Khi tham gia thị trường các nhà đầu tư phảI chấp nhận sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro, để có thể tối đa được lợi nhuận trong mức rủi ro mà mình có thể chấp nhận được thì không phảI nhà đầu tư nào cũng có thể biết được. Hơn nữa chứng khoán không giống như các loại hàng oá thông thường khác, không thể nhận biết được sự tốt xấu qua việc cầm nắm, nhận biết bởi vì chứng khoán là loại hàng hoá chỉ có giá trị chứ không có giá trị sử dụng. Do đó khi tham gia thị trường nàh đầu tư sẽ đối mặt với rât nhiều rỉu ro tiềm ẩn. Rủi ro đó có thể là xuất phat từ phía các nhà đầu tư nắm giữ những chưng khoán không có độ an toàn cao, mức sinh lời không cao…. Và những rỉu ro này có thể xuất phat từ chính thị trường mà nhà đầu tư không thể lường trước hết được. Vởy làm thế nào các nhà đầu tư khi tham gia thị trường có thể giảm thiểu được rủi ro mà vẫn đạt được mục tiêu sinh lợi, câu trả lời là các nhà đầu tư nên tìm đến các công ty chứng khoán bởi vì chỉ có các công ty chứng khoán với những đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực trình độ, có khả năng phân tích và nhận định thị trường sẽ giúp các nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro.
Thông qua các hoạt động như môI giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, công ty chứng khoán sẽ giúp nhà đầu tư giảm thiêu chi phí giao dịch, giảm thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Với các laọi hang hoá thông thường, việc mua bán trung gian sẽ là tăng chi phí cho cả người mua và người bán. Nhưng đối với thị trường chứng khoán, nơI diễn ra ác hoạt động mau bán đối với những loại hàng hoá đặc biệt thì nguyên tắc tung gian sẽ làm giảm chi phí, công sức và thời gian tìm kiếm của các nhà đầu tư khi phảI tìm kiếm được loịa chứng khoán phù hợp với mục đích của mình.
1.1.3.3. Đối với thị trường chứng khoán.
Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán bao gồm các nhà phát hành, các nhà đầu tư và các tổ chức tàI chính trung gian. Khi tham gia thị trường, các cong ty chứng khoán có hai vai trò chính.
- Thứ nhất, các công ty chứng khoán góp phần tạo lập giá cả chứng khoán và đIều tiết thị trường. Theo nguyên lý nền kinh tế thị trường thì giá cả của các hàng hoá tren thị tường phả do thị trường quyết đinh, hay nói cách khác là do cung cầu quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra được mức giá cuối cùng, người mua và người bán phải thông qua các công ty chứng khoán vì các nhà đầu tư không được trực tiếp tham gia vào thị trường. Trên thị trường sơ cấp, thông qua hoạt dộng tư vấn phát hành và bảo lãnh phát hành, các công ty chứng khoán sẽ đưa ra mức gia khởi đIểm đầu tiên cho loại chứng khoán đó trước khi thực hiện chào bán rộng rãi ra công chúng, nó trở thành mức gia tham chiếu của chứng khoán đó. Trên thị trường thứ cấp, các công ty chứng khoán tham gia thị trường với cả hai tư cách là nhà đầu tư và là nhà tài chính trung gian. Với tư cách là nhà đầu tư trên thị trường, thì các công ty chứng khoán là các nhà đầu tư lớn trên thị trường, việc mua bán của các công ty chứng khoán sẽ ảnh hưởng phần nào tới giá cả của chứng khoán thông qua hoạt động tạo lập thị trường.
Các công ty chứng khoán còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia đều tiết thị trường. Nhờ đó sẽ bảo vệ được các nhà đàu tư khi tham gia thị trường và giảm thiểu rủi ro. Khi tham gia bảo lãnh phát hành các công ty chứng khoán cam kết sẽ giúp tổ chức phát hành bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu. Để bảo vệ các khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều công ty chứng khoán đã giành những tỷ lệ nhất định các giao dịch đểt thực hiện vai trò bình ổn thị trường.
- Thứ hai: các công ty chứng khoán có chức năng cung cấp các dịch vụ nhằm bôi trơn thị trường. Khi tham gia thị trường, các công ty chứng khoán cung cấp các dịch vụ hỗ trợ giao dịch như các hợp đồng cầm cố, hợp đồng tín dụng, các hợp đồng ứng trước tiền bán chứng khoán, tiền nhận cổ tức và cung cấp các dịch vụ khác như thực hiện lưu ký chứng khoán cho khách hàng, thay mặt tổ chức phát hành chi trả tiền cổ tức/trái tưc cho các cổ đông. Tất cả các dịch vụ này đã góp phần làm tăng tính thanh khoản cho các loại chứng khoán và cho thị trường.
1.1.3.4.Đối với các cơ quan quản lý thị trường.
Các công ty chứng khoán có vai trò cung cấp thông tin về thị trường chứng khoán cho các cơ quan quản lý thị trường. Thông qua việc lưu