Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay, thương mại quốc tế đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam. Từ lâu, xuất khẩu đã trở thành hoạt động kinh doanh thế mạnh của Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Đây là lĩnh vực kinh doanh đã thu về một nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước, góp một phần không nhỏ trong công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá của đất nước. Vì vậy vai trò của hoạt động xuất khẩu đã được Đảng và Nhà nước ta nhận thức được từ rất sớm và nhấn mạnh từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 như sau : “Xuất khẩu là một trong ba chương trình cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế xã hội trong 5 năm 1986-1990, không những có ý nghĩa sống còn đối với tình hình trước mắt mà còn là những điều kiện ban đầu không thể thiếu được để triển khai Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong những chặng đường tiếp theo”.
Hoạt động xuất khẩu phát triển là cơ sở cho hoạt động nhập khẩu phát triển góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Với tu duy đổi mới “Việt Nam mong muốn làm bạn với tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới” đã tạo điều kiện cho sự mở rộng thị trường xuất nhập khẩu và tìm kiếm các đối tác thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam.
Việt Nam với đặc trưng là một nước nhiệt đới gió mùa có những đặc điểm rất riêng về điều kiện về khí hậu, địa hình, đất đai và cả yêu tố con người. Tận dụng được những lợi thế này, Việt Nam đã và đang phát triển được những loại cây nông nghiệp như lúa, cao su, cà phê, chè, hạt điều, hạt tiêu Đây là những mặt hàng góp phần không nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu nói chung của đất nước cũng như kim ngạch xuất khẩu nông sản nói riêng. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới, xuất khẩu hạt tiêu thứ nhất trên thế giới, xuất khẩu cà phê thứ ba trên thế giới
Việt Nam và đặc biệt các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu trong nước phải chịu những ảnh hưởng không nhỏ do sự suy thoái của các nền kinh tế. Nhận thức rõ được vấn đề và diễn biến phức tạp của nền kinh tế cũng như những trước những đòi hỏi thực tế trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản, cùng với những kiến thức được trang bị tại nhà trường và những thực tế tìm hiểu được trong quá trình thực tập tại công ty xuất nhập khẩu Intimex, em đã nhận thấy được việc mở rộng thị trường xuất khẩu là giải pháp cần thiết cho hoạt động kinh doanh của công ty trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “ Giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về xuất khẩu và phát triển thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex
Chương III: Giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex
Bằng những kiến thức thu thập được trong quá trình học tập cũng như quá trình thực tập, cùng với nhiệt tình, tạo điều kiện thuận lợi của các anh chị, cô chú trong phòng kinh tế tổng hợp và đặc biệt là sự quan tâm, giúp đỡ tận tình cô giáo hướng dẫn Th.S Đặng Thị Thuý Hồng, em đã cố gằng hoàn thành chuyên đề một cách tốt nhất theo đúng yêu cầu đặt ra.
Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo để bài viết của được được hoàn thiện hơn.
84 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1420 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu theo mặt hàng của công ty ( 2004-2008 ) 28
Bảng 2: Kim ngạch nhập khẩu theo mặt hàng của Công ty (2003 - 2007) 29
Bảng 3: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, doanh thu và nộp ngân sách nhà nước trong các năm 2004 – 2008 của công ty 29
Bảng 4: Kim ngạch và sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex 31
Bảng 5: Cơ cấu thị trường xuất khẩu nông sản của công ty Intimex giai đoạn 2004-2008 32
Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex vào một số thị trường giai đoạn 2005-2008 32
Bảng 7: Cơ cấu hình thức xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex giai đoạn 2005-2008 36
Bảng 8: Tỷ trọng xuất khẩu của hàng nông sản giai đoạn 2005-2008 37
Bảng 9: Kế hoạch xuất khẩu nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex theo mặt hàng năm 2008 và định hướng năm 2010 60
Bảng 10: Kế hoạch xuất khẩu nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex theo thị trường năm 2008 và định hướng năm 2010 61
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay, thương mại quốc tế đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam. Từ lâu, xuất khẩu đã trở thành hoạt động kinh doanh thế mạnh của Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Đây là lĩnh vực kinh doanh đã thu về một nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước, góp một phần không nhỏ trong công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá của đất nước. Vì vậy vai trò của hoạt động xuất khẩu đã được Đảng và Nhà nước ta nhận thức được từ rất sớm và nhấn mạnh từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 như sau : “Xuất khẩu là một trong ba chương trình cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế xã hội trong 5 năm 1986-1990, không những có ý nghĩa sống còn đối với tình hình trước mắt mà còn là những điều kiện ban đầu không thể thiếu được để triển khai Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong những chặng đường tiếp theo”.
Hoạt động xuất khẩu phát triển là cơ sở cho hoạt động nhập khẩu phát triển góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Với tu duy đổi mới “Việt Nam mong muốn làm bạn với tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới” đã tạo điều kiện cho sự mở rộng thị trường xuất nhập khẩu và tìm kiếm các đối tác thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam.
Việt Nam với đặc trưng là một nước nhiệt đới gió mùa có những đặc điểm rất riêng về điều kiện về khí hậu, địa hình, đất đai và cả yêu tố con người. Tận dụng được những lợi thế này, Việt Nam đã và đang phát triển được những loại cây nông nghiệp như lúa, cao su, cà phê, chè, hạt điều, hạt tiêu…Đây là những mặt hàng góp phần không nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu nói chung của đất nước cũng như kim ngạch xuất khẩu nông sản nói riêng. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới, xuất khẩu hạt tiêu thứ nhất trên thế giới, xuất khẩu cà phê thứ ba trên thế giới…
Việt Nam và đặc biệt các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu trong nước phải chịu những ảnh hưởng không nhỏ do sự suy thoái của các nền kinh tế. Nhận thức rõ được vấn đề và diễn biến phức tạp của nền kinh tế cũng như những trước những đòi hỏi thực tế trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản, cùng với những kiến thức được trang bị tại nhà trường và những thực tế tìm hiểu được trong quá trình thực tập tại công ty xuất nhập khẩu Intimex, em đã nhận thấy được việc mở rộng thị trường xuất khẩu là giải pháp cần thiết cho hoạt động kinh doanh của công ty trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “ Giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về xuất khẩu và phát triển thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex
Chương III: Giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của công ty xuất nhập khẩu Intimex
Bằng những kiến thức thu thập được trong quá trình học tập cũng như quá trình thực tập, cùng với nhiệt tình, tạo điều kiện thuận lợi của các anh chị, cô chú trong phòng kinh tế tổng hợp và đặc biệt là sự quan tâm, giúp đỡ tận tình cô giáo hướng dẫn Th.S Đặng Thị Thuý Hồng, em đã cố gằng hoàn thành chuyên đề một cách tốt nhất theo đúng yêu cầu đặt ra.
Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo để bài viết của được được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU VÀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Những vấn đề chung về xuất khẩu của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh nhằm thu doanh lợi bằng cách bán hàng sản phẩm, hàng hoá hoặc dịch vụ vượt qua biên giới hải quan trên cơ sở tiền tệ làm phương tiện thanh toán.
Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá (bao gồm hàng hoá hữu hình và vô hình) trong nước. Khi sản xuất trong nước phát triển và sự trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia ngày càng trở nên phổ biến, phân công lao động quốc tế hình thành rõ rệt thì hoạt động xuất khẩu phát triển như một tất yếu khách quan của nền kinh tế mỗi quốc gia
Xuất khẩu đã dần được khẳng định là hoạt động cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế của mỗi quốc gia nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng phát triển. Chính phủ mỗi quốc gia đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích mở rộng sản xuất ở các khu vực tư nhân nhằm giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước. Vì vậy, việc mở rộng xuất khẩu là một chính sách kinh tế, là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại.
Hiện nay, hoạt động xuất khẩu đã phát triển rất mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nó trở thành hoạt động tất yếu của mỗi quốc gia trên con đường phát triển kinh tế. Do mỗi quốc gia có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực và điều kiện kinh tế xã hội dẫn đến sự khác biệt về lợi thế trong các lĩnh vực khác nhau. Việc tiến hành trao đổi các phẩm hàng hoá hay dịch vụ giữa các quốc gia chính là biện pháp hữu hiệu để các quốc gia có thể khai thác tối đa lợi thế, khắc phục các hạn chế, tận dụng triệt để các cơ hội và hạn chế các thách thức tạo ra sự cân bằng các yếu tố trong quá trình sản xuất và tiêu dùng.
Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu không phải chỉ diễn ra giữa các quốc gia có lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Ngay cả khi quốc gia đó không có lợi thế về điều kiện tự nhiên, nguồn tài nguyên thiên nhiên…thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu và thu được lợi ích không nhỏ từ hoạt động này. Điều này đã được chứng minh thông qua lý thuyết lợi thế so sánh.
Lý thuyết này đã chỉ ra rằng một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế thông qua hoạt động xuất khẩu để tạo ra những lợi ích cho mình, nếu bỏ qua thì chính quốc gia đó đã từ bỏ đi một nguồn lợi không nhỏ từ hoạt động này và sẽ đánh mất cơ hội phát triển của chính quốc gia đó. Khi tiến hành hoạt động xuất khẩu, các quốc gia vẫn có thể thu được lợi ích cho mình thông qua việc chuyên môn hoá vào sản xuất loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng là ít bất lợi thế nhất để trao đổi với quốc gia khác, đồng thời nhập khẩu những loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chung là bất lợi nhất dù hiệu quả sản xuất của quốc gia đó là thấp.
1.1.2. Vai trò của xuất khẩu
Ngày nay khi mà quá trình hội nhập kinh tế đang phát triển mạnh mẽ và trở thành một xu hướng phát triển chung trên toàn thế giới thì thương mại quốc tế thông qua xuất khẩu đã trở thành cầu nối về kinh tế giữa các quốc gia. Khi tham gia hoạt động này, các nền kinh tế trên thế giới có cơ hội xích lại gần nhau hơn, phát triển mạnh mẽ hơn không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn có các lĩnh vực khác như khoa học công nghệ, y tế, giáo dục…Chính bởi vậy, thương mại quốc tế cũng như xuất khẩu có vai trò như sau:
1.1.2.1. Ở cấp độ vĩ mô
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, góp phần tăng dự trữ ngoại tệ, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Mỗi quốc gia là chủ thể khi tham gia vào thương mại quốc tế thông qua hoạt động xuất khẩu. Chính vì vậy lợi ích mà nó đem lại sẽ tạo ra một nguồn vốn quan trọng và bền vững cho con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi quốc gia, giúp quốc gia đó có thể phát triển nền kinh tế, thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Để phát triển kinh tế, điều quan trọng với mỗi quốc gia là nguồn vốn, nguồn vốn này có thể huy động từ nhiều hoạt động khác nhau như đầu tư nước ngoài, viện trợ, vay nợ…nhưng nguồn vốn an toàn và bền vững nhất chính là nguồn vốn có được từ hoạt động xuất khẩu bởi nó thể hiện được nội lực phát triển của quốc gia đó đồng thời quốc gia đó cũng không phải chịu bất cứ điều kiện nào từ phía nhà cung cấp vốn.
Trong tương lai, nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài có tăng lên hay không phụ thuộc rất nhiều vào tiềm lực cũng như khả năng xuất khẩu của mỗi quốc gia. Vì vậy, tăng cường hoạt động xuất khẩu, thu về càng nhiều ngoại tệ cho quốc gia chính là biện pháp hữu hiệu nhất để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế.
Xuất khẩu đóng góp vào việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất và phân công lao động quốc tế phát triển
Nhờ có những thành quả to lớn của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới, quá trình sản xuất hàng hoá và dịch vụ đã phát triển không ngừng với những bước tiến quan trọng đã dẫn đến sự dịch chuyển về cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá ở quốc gia trên thế giới. Xu hướng này tất nhiên không phải là ngoại lệ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Khi hoạt động xuất khẩu ngày càng phát triển và trở nên phổ biến trên toàn thế giới thì các ngành kinh tế có thế mạnh của mỗi quốc gia sẽ được tăng cường, mở rộng và ngược lại những ngành có hiệu quả thấp sẽ dần bị thu hẹp. Dần dần theo thời gian mỗi quốc gia sẽ tập trung nguồn lực phát triển các mặt hàng chủ lực và có lợi thế so sánh so với các quốc gia khác dẫn đến sự phân công lao động quốc tế ngày càng trở nên sâu sắc
Xuất khẩu tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân
Xuất khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất, muốn tăng cường xuất khẩu thì quy mô sản xuất phải được mở rộng, tốc độ sản xuất cần phải được nâng cao, các ngành nghề truyền thống phải được khôi phục, các ngành nghề mới ra đời đòi hỏi một lực lượng lao động rất lớn. Điều này góp phần giải quyết nhu cầu việc làm và tạo ra nguồn thu nhập ổn định co người lao động.
Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu những sản phẩm tiêu dùng, đó là những sản phẩm trong nước không sản xuất ra được hoặc sản xuất khong đáp ứng được nhu cầu. Nhờ đó chất lượng cuộc sống của người dân được cải thiện, nâng cao và tình hình trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy mối quan hệ kinh tế đối ngoại, thúc đẩy giao lưu kinh tế văn hóa xã hội giữa các quốc gia
Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế văn hoá xã hội có có sự tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu phát triển góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế, đầu tư, tín dụng, vận tải quốc tế, phát triển và tăng cường giao lưu văn hoá chính trị giữa các quốc gia. Ngược lại, khi các quan hệ kinh tế, chính trị văn hoá giữa các quốc gia phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và mở rộng sản xuất.
1.1.2.2. Ở cấp độ vi mô
Mở rộng và đa dạng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp xuất khẩu
Thị trường tiêu thụ là nhân tố rất quan trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp xuất khẩu. Khi mà thị trường trong nước trở nên bão hoà và nền kinh tế thế giới đang lâm vào tình trạng khủng hoảng như hiện nay thì các công ty buộc phải khai thác thị trường quốc tế nhằm tìm kiếm khách hàng và cơ hội bán hàng tại các thị trường này. Việc duy trì những thị trường xuất khẩu truyển thống và mở rộng xuất khẩu sang những thị trường tiềm năng giúp cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng nhanh thông qua việc tăng doanh số bán hàng tại các thị trường.
Đặc biệt trong giai đoạn khó khăn hiện nay thì đa dạng hoá thị trường tiêu thụ sản phẩm chính là biện pháp giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu khai thác được những cơ hội bán hàng quốc tế, giúp cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp giải quyết được những khó khăn trước mắt về đầu ra cho sản phẩm và ổn định nguồn thu cho doanh nghiệp.
Tăng doanh thu bán hàng và tiếp thu kinh nghiệm quốc tế
Mục tiêu của các doanh nghiệp kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu là thu được lợi nhuận lớn. Tăng doanh thu bán hàng thông qua xuất khẩu chính là hình thức kinh doanh tối ưu được các doanh nghiệp lựa chọn khi mà nền kinh tế trong nước cũng như thế giới gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa, khi tham gia vào thị trường quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ thu được nhiều kinh nghiệm trong việc tạo nguồn hàng, quản trị, nâng cao chất lượng sản phẩm…do phải tìm hiểu và thích ứng với nhiều sự khác biệt về môi trường văn hoá, kinh tế, chính trị khác nhau.
1.1.3. Các hình thức xuất khẩu
1.1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp
Là phương thức mua bán trong đó hàng hóa được xuất khẩu trực tiếp từ nước người bán (nước xuất khẩu) sang nước người mua ( nước nhập khẩu) mà không qua nước thứ ba ( nước trung gian).
Khi lựa chọn hình thức xuất khẩu này, các nhà xuất khẩu phải nắm bắt được nhu cầu của thị trường, từ đó xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp để thoả mãn nhu cầu cũng như thị hiếu tiêu dùng của khách hàng tại các thị trường. Nếu làm tốt được điều này, các nhà xuất khẩu sẽ thu được lợi nhuận lớn nhất từ hoạt động xuất khẩu do không phải chia sẻ lợi nhuận. Đây là ưu điểm lớn nhất của hình thức xuất khẩu này.
Tuy nhiên, hình thức xuất khẩu trực tiếp cũng tồn tại một số nhược điểm như: chi phí cho hình thức xuất khẩu này là cao, điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu có quy mô nhỏ; đòi hỏi doanh nghiệp phải có một đội ngũ nhân viên giỏi về nghiệp vụ, giàu về kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất khẩu do tính chất của hoạt động xuất khẩu luôn phải chịu sự biến động thất thường trên thị trường thế giới. Đây cũng chính là nhược điểm của hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam, do vậy hình thức xuất khẩu trực tiếp không phải là hình thức xuất khẩu được các doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn nhiều.
1.1.3.2. Xuất khẩu qua trung gian
Là phương thức mua bán mà ở đó người bán và người mua phải thông qua một người thứ ba gọi là trung gian (đại lý hay môi giới) để thoả thuận các điều kiện mua bán. Đại lý và môi giới là trung gian phổ biến trong giao dịch quốc tế hiện nay.
Ưu điểm lớn nhất của hình thức xuất khẩu gián tiếp này là giảm bớt được chi phí nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác, chi phí vận tải, rủi ro do sự biến động của thị trường…do vậy nhà xuất khẩu sẽ giảm bớt được rủi ro trong hoạt động xuất khẩu. Đây là lý do giải thích vì sao mà phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam lựa chọn hình thức này
Tuy nhiên, khi nhà xuất khẩu lựa chọn hình thức xuất khẩu này cũng có nghĩa là nhà xuất khẩu bị chia sẻ lợi nhuận với các đại lý, môi giới, bị mất liên lạc trực tiếp với thị trường và trong một số trường hợp vốn kinh doanh còn bị các đại lý chiếm dụng.
1.1.3.3. Buôn bán đối lưu
Là phương thức kinh doanh mà xuất khẩu được ký kết trực tiếp với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, trong đó xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá khác có giá trị tương đương.
Phương thức kinh doanh này là sự kết hợp chặt chẽ giữa xuất khẩu và nhập khẩu, hai bên trao đổi với nhau một lượng hàng hoá có giá trị tương đương. Mục đích của xuất khẩu là thu được một hàng hoá có giá trị tương đương thay vì ngoại tệ như các hinh thức khác. Do vậy, ưu điểm của hình thức này là hạn chế sử dụng tiền để thanh toán và bù trừ hàng hoá, nó đảm bảo yêu cầu cân bằng trong trao đổi về mặt hàng, giá cả, tổng giá trị hợp đồng và điều kiện cơ sở giao dịch.
1.1.3.4. Kinh doanh tái xuất
Là phương thức kinh doanh xuất khẩu những mặt hàng nhập khẩu sang nước khác chưa qua gia công chế biến sử dụng ở nước tái xuất. Hình thức xuất khẩu này là loại giao dịch có liên quan đến ít nhất 3 nước tham gia: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu.
Điều cần lưu ý khi các doanh nghiệp lựa chọn hình thức xuất khẩu này là phải chắc chắn có hợp đồng mua và hợp đồng bán mới nên ký hợp đồng, cần quan tâm đến việc giữ bí mật kinh doanh thông qua việc sử dụng L/C giáp lưng (Back to Back L/C) đồng thời hợp đồng nhập khẩu và hợp đồng tái xuất cần phải cân nhắc thời hạn giao hàng để đảm bào thực hiện đúng hợp đồng. Vì vậy, để thực hiện được hình thức xuất khẩu này các doanh nghiệp của Việt Nam phải có một đội ngũ nhân viên giỏi về nghiệp vụ kinh doanh, am hiểu về thị trường, giàu kinh nghiệm và có mối quan hệ hợp tác kinh doanh với nhiều bạn hàng. Hiện nay, kinh doanh tạm nhập tái xuất và kinh doanh chuyển khẩu là hai hình thức kinh doanh tái xuất phổ biến ở Việt Nam.
1.1.3.5. Đấu giá quốc tế
Là phương thức bán hàng đặc biệt được tổ chức công khai ở một nơi nhất định diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định, tại đó sau khi xem hàng hoá, người mua sẽ cạnh tranh, trả giá hàng hoá và hàng hoá sẽ được bán cho người nào trả giá cao nhất.
Đấu giá quốc tế có nhiều hình thức như: đấu giá tăng giá, đấu giá hạ giá, đấu giá trả giá công khai và đấu giá kín. Mỗi hình thức đấu giá có các bước tiến hành bán đấu giá riêng tuy nhiên chúng cũng giống nhau những bước cơ bản như: chuẩn bị đấu giá, trưng bày hàng hoá để người mua xem trước, khai mạc và tiến hành đấu giá. Ưu điểm của hình thức đấu giá quốc tế là sự trả giá công khai giữa người mua và người bán nhưng nhược điểm của hình thức này là gặp phải sự cạnh lớn đến từ nhiều đối thủ trên thế giới. Hiện nay, hình thức này chưa thực sự phổ biến ở Việt Nam.
1.1.3.6. Đấu thầu hàng hoá quốc tế
Là phương thức hoạt động thương mại trong đó bên mua hàng hoá thông qua mời thầu ( gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các thương nhân tham gia đấu thầu ( gọi là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra và được lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng.
Hình thức xuất khẩu này có nhiều phương thức giao dịch trong đó mỗi phương thức giao dịch đều có những đặc thù riêng. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp sẽ lựa chọn hay phối hợp các phương thức giao dịch sao cho phù hợp với điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp nhất.
1.1.3.7. Mua bán tại sở giao dịch hàng hoá
Là phương thức kinh doanh được tổ chức tại một nơi nhất định trong một khoảng thời gian nhất định ở đó thông qua những người môi giới, người mua và người bán sẽ tiến hành mua bán hàng hoá với số lượng lớn có phẩm chất tương đồng và tiêu chuẩn hoá.
Hình thức mua bán này phải được thực hiện dựa theo điều kiện quy định của sở giao dịch và sử dụng hợp đồng mẫu đã có. Phần lớn các giao dịch ở sở giao dịch là mua khống , bán khống để hưởng chênh lệch giá cả. Hiện nay, hình thức mua bán này đã và đang được triển khai tại Việt Nam.
1.1.4. Nội dung của hoạt động xuất khẩu
1.1.4.1. Nghiên cứu lựa chọn thị trường xuất khẩu
Trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu, bước đầu tiên mà các doanh nghiệp cần phải thực hiện là nghiên cứu đặc điểm của thị trường xuất khẩu: dung lượng thị trường lớn hay nhỏ, đặc điểm của các loại hàng hoá, thị hiếu tiêu dùng của thị trường ra sao, các doanh nghiệp đang kinh doanh loại hàng hoá đó trên thị trường có những điểm mạnh hay điểm yếu gì , giá của mặt hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế, các chính sách của chính phủ trong kinh doanh mặt hàng đó như thế nào…Sau khi đã nghiên cứu kỹ đặc điểm của thị trường, doanh nghiệp sẽ tiến hành lựa chọn thị trường xuất khẩu căn cứ vào các chỉ tiêu kinh tế, mục đích kinh doanh, khả năng của doanh nghiệp…sao cho thị trường đó có là thị trường có tiềm năng đem lại lợi nhuận ch