Trong công cuộc Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Đảng và Nhà nước ta đề ra các đường lối chính sách phát triển nền kinh tế với mục tiêu: "Dân giầu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh". Hơn 10 năm qua từ 1986 đến nay nền kinh tế nước ta đã đổi mới đem lại những kết quả ban đầu. Từ một nước phải nhập khẩu gạo nay đã có xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới, nền kinh tế có sự tăng trưởng đáng kể.
Với việc chuyển đổi sang cơ chế thị trương, nền kinh tế mở cửa và đang từng bước kết nối nền kinh tế thế giới. Hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng giữ một vị trí hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh trên phạm vi quốc tế, là lĩnh vực sôi động nhất trong nền kinh tế hiện nay. Kinh doanh xuất nhập khẩu là mối quan hệ trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa một quốc gia với các quốc gia khác, là một bộ phận của quan hệ kinh tế quốc tế của một nước với các nước khác trên thế giới.
Trong thời đại hiện nay việc phát triển kinh tế mỗi quốc gia có sự tác động to lớn của quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng xuất nhập khẩu là nguồn lực của nền kinh tế quốc dân mỗi nước, là nguồn tiết kiệm ngoài nước (M - X) và là một nhân tố kích thích phát triển lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ tiên tiến và năng suất lao động cao. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật công nghệ trên thế giới, với sự bùng nổ thông tin, không một quốc gia nào phát triển kinh tế mà không lợi dụng các yếu tố trên để thúc đẩy nhanh sự phát triển của chính mình. Xuất nhập khẩu vừa là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với quốc gia khác trên thế giới, vừa là người hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội văn minh, thịnh vượng hơn.
Nhưng hiện nay, khi mà các bạn hàng trên thương trường quốc tế đã hết sức sành sỏi, trình độ kinh doanh cũng như hiện đại hoá kinh doanh của họ vượt xa hơn mình rất nhiều thì để làm ăn, buôn bán bình đẳng với họ, không bị thua thiệt so với họ là điều không thể dễ dàng. Điều này đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở nước ta còn khó khăn hơn nữa do sự thụ động, cơ cấu cồng kềnh còn tồn tại từ trong cơ chế cũ. Vì vậy tìm hiểu về hoạt động xuất nhập khẩu trong cơ chế thị trường tại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Nhà nước để nhận thức một cách đầy đủ, từ đó rót ra những luận chứng hữu Ých là công việc hàng ngày, hàng giê hết sức cần thiết và cấp bách.
Qua thời gian tìm hiểu tình hình thực tế của Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm. Phân tích rõ các nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh, em đã đi sâu vào phân tích và tìm ra các biện pháp trước mắt nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. Đây là nội dung chính của chuyên đề thực tập này. Nội dung của chuyên đề được chia thành 3 chương nh sau:
Chương I: Vai trò - nội dung của hoạt đông kinh doanh xuất nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội.
Chương III: Giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty.
75 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1241 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội
Lời nói đầu
Trong công cuộc Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Đảng và Nhà nước ta đề ra các đường lối chính sách phát triển nền kinh tế với mục tiêu: "Dân giầu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh"... Hơn 10 năm qua từ 1986 đến nay nền kinh tế nước ta đã đổi mới đem lại những kết quả ban đầu. Từ một nước phải nhập khẩu gạo nay đã có xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới, nền kinh tế có sự tăng trưởng đáng kể.
Với việc chuyển đổi sang cơ chế thị trương, nền kinh tế mở cửa và đang từng bước kết nối nền kinh tế thế giới. Hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng giữ một vị trí hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh trên phạm vi quốc tế, là lĩnh vực sôi động nhất trong nền kinh tế hiện nay. Kinh doanh xuất nhập khẩu là mối quan hệ trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa một quốc gia với các quốc gia khác, là một bộ phận của quan hệ kinh tế quốc tế của một nước với các nước khác trên thế giới.
Trong thời đại hiện nay việc phát triển kinh tế mỗi quốc gia có sự tác động to lớn của quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng xuất nhập khẩu là nguồn lực của nền kinh tế quốc dân mỗi nước, là nguồn tiết kiệm ngoài nước (M - X) và là một nhân tố kích thích phát triển lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ tiên tiến và năng suất lao động cao. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật công nghệ trên thế giới, với sự bùng nổ thông tin, không một quốc gia nào phát triển kinh tế mà không lợi dụng các yếu tố trên để thúc đẩy nhanh sự phát triển của chính mình. Xuất nhập khẩu vừa là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với quốc gia khác trên thế giới, vừa là người hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội văn minh, thịnh vượng hơn.
Nhưng hiện nay, khi mà các bạn hàng trên thương trường quốc tế đã hết sức sành sỏi, trình độ kinh doanh cũng như hiện đại hoá kinh doanh của họ vượt xa hơn mình rất nhiều thì để làm ăn, buôn bán bình đẳng với họ, không bị thua thiệt so với họ là điều không thể dễ dàng. Điều này đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở nước ta còn khó khăn hơn nữa do sự thụ động, cơ cấu cồng kềnh còn tồn tại từ trong cơ chế cũ. Vì vậy tìm hiểu về hoạt động xuất nhập khẩu trong cơ chế thị trường tại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Nhà nước để nhận thức một cách đầy đủ, từ đó rót ra những luận chứng hữu Ých là công việc hàng ngày, hàng giê hết sức cần thiết và cấp bách.
Qua thời gian tìm hiểu tình hình thực tế của Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm. Phân tích rõ các nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh, em đã đi sâu vào phân tích và tìm ra các biện pháp trước mắt nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. Đây là nội dung chính của chuyên đề thực tập này. Nội dung của chuyên đề được chia thành 3 chương nh sau:
Chương I: Vai trò - nội dung của hoạt đông kinh doanh xuất nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội.
Chương III: Giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty.
Chương I
Vai trò - nội dung của hoạt động kinh doanh
xuất nhập khẩu
I. Vai trò - vị trí của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
trong nền kinh tế thị trường.
1. Vai trò của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu:
1.1. Vai trò của kinh doanh xuất nhập khẩu:
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống. Nhập khẩu là để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật - công nghệ tiên tiến, hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Làm được nh vậy sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động, vốn, cơ sở vật chất, tài nguyên và khoa học kỹ thuật.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, vai trò nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Thóc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
- Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo một sự phát triển cân đối và ổn định, khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế.
- Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động, góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu góp phần nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài, đặc biệt là nước nhập khẩu.
1.2. Tầm quan trọng của xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế:
Xuất khẩu là cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh để đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở xuất khẩu để tăng ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành phần mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng ngoại tệ. Tầm quan trọng của xuất khẩu được thể hiện cụ thể nh sau:
1.2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu:
Công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật, vật tư và công nghệ tiền vốn. Nguồn vốn nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như:
- Liên doanh đầu tư nước ngoài với nước ta.
- Vay nợ, viện trợ, tài trợ.
- Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ.
- Xuất khẩu sức lao động...
Trong các nguồn vốn nh đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ... cũng phải trả bằng cách này hay cách khác. Để nhập khẩu, nguồn vốn quan trọng nhất là từ xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Thời kỳ 1986 ¸ 1990 nguồn thu của nước ta về xuất khẩu chiếm 3/4 tổng thu ngoại tệ, năm 1994 thu xuất khẩu đã đảm bảo được 80% nhập khẩu so với 24,6% năm 1986. Với xu hướng này các năm sau kim ngạch xuất khẩu đều tăng lên so với các năm trước đó.
1.2.2. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại:
Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình Công nghiệp hoá ở nước ta là phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới. Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể được nhìn nhận theo các hướng sau:
- Xuất khẩu những sản phẩm của nước ta cho nước ngoài.
- Xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà nước khác cần. Điều đó có tác dụng tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ: khi phát triển dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho phát triển các ngành sản xuất nguyên liệu nh bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu dầu thực vật, chè...) kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nước ta.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới.
- Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành.
1.2.3. Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân:
Trước hết xuất khẩu thu hót hàng triệu lao động, tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân. Sản xuất hàng hoá xuất khẩu là lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao, chính vì vậy có thể mang lại mức lương cao cho những lao động hoạt động trong lĩnh vực này, nâng cao mức sống cho người lao động.
1.2.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta:
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với phân công lao động quốc tế, thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế động, kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và sản xuất hàng hoá xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng đầu tư, vận tải quốc tế... đến lượt nó chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
Tóm lại, hoạt động xuất nhập khẩu giữ vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp tiến hành Công nghiệp hoá hiện đại hoá và chuyên môn hoá ở nước ta hiện nay. Hoạt động xuất nhập khẩu có những mặt tích cực của nó nhưng cũng có thể làm cho nước ta trở thanhf phụ thuộc. Chính vì vậy mà trong các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cần phải hết sức thận trọng, biết phát triển những thuận lợi và hạn chế tác hại thì mới đạt hiệu quả mong muốn.
2. Vị trí của công ty xuất nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường:
Hoạt động xuất nhập khẩu là việc mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ của một nước đối với một nước khác và dùng ngoại tệ làm phương tiện trao đổi. Sự trao đổi này là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
Vậy lợi Ých của thương mại quốc tế là gì? Hoạt động xuất khẩu là cần thiết vì lý do cơ bản là nó khai thác được lợi thế so sánh của nước nhập khẩu và mở rộng khả năng tiêu dùng của nước nhập khẩu. Một thực tế cho thấy là các quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ mà vẫn đầy đủ được, thương mại quốc tế cho phép đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng với số lượng nhiều hơn, chất lượng cao hơn, hơn nữa có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng. Số sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của con người ngày càng dồi dào, đồng thời sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước cũng tăng lên. Chuyên môn hoá thúc đẩy sự nhu cầu mậu dịch và ngược lại, một quốc gia không thể chuyên môn hoá sản xuất nếu không có hoạt động trao đổi, mua bán với các nước khác. Chuyên môn hoá quốc tế hoá là biểu hiện sinh động của quy luật lợi thế só sánh. Quy luật này nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Lý thuyến này khẳng định, nều một nước chuyên môn hoá vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối (hay hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất) thì thương mại có lợi cho cả hai bên.
Sự khác nhau về điều kiện sản xuất cũng giải thích được phần nào việc bán buôn giữa các nước. Vì điều kiện sản xuất có thể khác nhau giữa các nước, nên sẽ có lợi khi mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất mặt hàng thích hợp để xuất khẩu và nhập khẩu những hàng hoá cần thiết từ nước khác. Mặt hàng chuyên môn hoá quy mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm, tăng cường hiệu quả tuyệt đối ở hai nước là giống nhau, bán buôn vẫn có thể diễn ra do sự khác nhau về nhu cầu.
Hoạt động xuất nhập khẩu đối với nước ta là vấn đề quan trọng hàng đầu. Do vậy Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại, trong đó lĩnh vực quan trọng là vật ta và thương mại hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài. Đó là chủ trương hoàn toàn đúng đắn phù hợp với thời đại, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới trong những năm gần đây. Một quốc gia không thể xây dựng nền kinh tề hoàn chỉnh mang tính tự cung tự cấp ngay cả đối với một quốc gia hùng mạnh vì nó đòi hỏi rất tốn kém về cả vật chất và thời gian.
Chính vì lẽ đó mà phải đa dạng hoá và phát triển hoạt động xuất nhập khẩu, mở rộng ngoại thương trên cơ sở hợp tác và đôi bên cùng có lợi trên cơ sở nguyên tắc cùng tồn tại và đã được đại hội Đảng VII khẳng định tính đúng đắn hướng đi đó.
Trong giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định hướng XHCN, với cơ chế thị trường mở rộng của nước ta và với xu thế chung hiện nay công ty xuất nhập khẩu có vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
II. Nội dung chủ yếu của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu:
Nghiên cứu thị trường là một khâu hoạt động quan trọng , tạo tiền đề, tạo cơ sở cho cả quá trình tiếp cận thị trường của doanh nghiệp. Đặt biệt là trong công tác xuất nhập khẩu hàng hoá. Nghiên cứu và nắm vững những đặc điểm biến động của tình hình thị trường và giá cả hàng hoá trên thế giới đảm bảo cho các tổ chức ngoại thương hoạt động trên thị trường thế giới tăng, thu được ngoại tệ trong xuất khẩu và tiết kiệm được ngoại tệ trong nhập khẩu.
Công việc nghiên cứu thị trường bao gồm các bước sau:
1.1. Nhận biết sản phẩm nhập khẩu:
Mục đích của việc nhận biết sản phẩm xuất khẩu là nhằm lùa chọn mặt hàng kinh doanh có lợi nhất. Muốn vậy ta phải trả lời các câu hỏi sau:
- Thị trường đang cần gì? Muốn kinh doanh có hiệu quả, chúng ta phải bán ra cái gì mà thị trường cần, chứ không phải bán ra cái gì mà doanh nghiệp sẵn có. Do vậy các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải tìm hiểu nhu cầu thị trường về mặt hàng, quy cách phẩm chất, đóng gói bao bì, nhãn hiệu.
- Tình hình tiêu dùng mặt hàng đó như thế nào? Mỗi mặt hàng có thãi quen tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu về mặt hàng... Thông qua việc nghiên cứu tập quán tiêu dùng, nắm vững tập quán tiêu dùng chúng ta mới đáp ứng được nhu cầu thị trường.
- Mặt hàng đó ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Mỗi mặt hàng đều có đời sống và diễn biến qua 5 pha của chu kỳ sống là giới thiệu, phát triển, chín muồi, đình đốn, suy thoái. Nắm vững mặt hàng mà ta định kinh doanh đang ở pha nào, chúng ta mới xác định được những biện pháp cần thiết để nâng cao doanh sè.
- Tình hình sản xuất mặt hàng đó ra sao? Muốn kinh doanh có hiệu quả, chúng ta phải nắm vững quan hệ cung cầu về mặt hàng đó, một điều quan trọng trong mối quan hệ này là yếu tố cung hàng hoá tức là khả năng sản xuất, tập quán sản xuất, thời vụ sản xuất, tốc độ phát triển của sản xuất, việc áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất mặt hàng đó.
- Tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng đó?
- Tỷ suất ngoại tể của mặt hàng xử lý là số bản tệ (tiền Việt Nam) phải chi để có một đơn vị ngoại tệ.
Sau khi đã lùa chọn được sản phẩm xuất khẩu ta phải tiến hành phân loại mặt hàng. Hiện nay do chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần tham gia kinh doanh thuộc ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, do đó đòi hỏi chúng ta phải phân loại mặt hàng kinh doanh phù hợp với tính chất và thị trường kinh doanh.
1.2. Nghiên cứu về thị trường hàng hoá thế giới:
Thị trường là một phạm trù khách quan giữa sản xuất với lưu thông hàng hoá, ở đâu có sản xuất lưu thông hàng hoá thì ở đó có thị trường. Ta có thể hiểu là tổng thể khối lượng cần có khả năng thanh toán và cũng có khả năng đáp ứng. Nh vậy thị trường cũng có thể nhìn thấy được mà cũng có thể không nhưng nó bao gồm người mua, người bán và các quan hệ mua bán dịch vụ. Vậy thực chất nghiên cứu thị trường là gì? Nghiên cứu thị trường là phương pháp đã được tiêu chuẩn hoá có hệ thống và tỉ mỉ để xử lý vấn đề marketing với mục đích trên ra những điều kiện cần thiết, thích hợp để tìm thị trường cho các loại hàng hoá dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian hạn chế.
Nghiên cứu hàng hoá thế giới bao gồm việc nghiên cứu toàn bộ quá trình tái sản xuất một ngành tức là nghiên cứu thị trường hàng hoá nhằm hiểu biết về quy luật vận động của chúng. Mỗi thị trường hàng hoá cụ thể có thể có quy luật vận động riêng, quy luật được thể hiện qua sự biến đổi về nhu cầu, cung cầu và giá cả hàng hoá trên thị trường. Nắm vững các quy luật về thị trường hàng hoá để vận dụng và giải quyết các vấn đề thực tiễn kinh doanh còng nh yêu cầu của thị trường.
1.3. Dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng:
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi thị trường nhất định trong một thờì gian nhất định.
Dung lượng thị trường không cố định mà nó thay đổi tuỳ theo tình hình do tác động của nhiều nhân tố tổng hợp trong những giai đoạn nhất định. Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường thay đổi có rất nhiều, có thể chia ra làm 3 nhóm:
- Nhóm thứ nhất: nhóm nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi có tính chất chukỳ đó là sự vận động của tình hình kinh tế thế giới đặc biệt là sự vận động của các nước giữ vai trò chủ yếu trên thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá chủ yếu. Một nhân tố khác nữa đó là thời vụ trong quá trình sản xuất, phân phối lưu thông hàng hoá. Do đặc điểm của sản xuất lưu thông và tiêu dùng là khác nhau nên sự ảnh hưởng của thời vụ đối với thị trường hàng hoá cũng rất đa dạng về phạm vi và mức độ.
- Nhóm thứ hai: các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi dung lượng thị trường. Các nhân tố thuộc nhóm này rất nhiều, chúng ảnh hưởng đến dung lượng thị trường tương đối lâu dài. Ví dụ như: tiến bộ KHKT, công nghệ, chế độ chính sách của Nhà nước, thị hiếu tập quán của người tiêu dung.
- Nhóm thứ ba: các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường. Trong nhóm nhân tố này có thể kể ra: hiện tượng đầu cơ trên thị trường gây ra những đột biến về cung cầu. Bão lụt hạn hán cũng có thể gây ra những biến đổi về cung cầu đối với những loại hàng hóa nhất định.
1.4. Giá cả hàng hoá trên thị trường:
Khi định giá bán sản phẩm, một yêu cầu vô cùng quan trọng đặt ra là giá đó phải được thị trường chấp nhận. Nhưng mặt khác, giá đó cũng không thể tách rời khỏi kết cấu giá thành của sản phẩm vì nó sẽ quyết định đến mức hiệu quả của sản xuất kinh doanh khi định mức giá bán. Bởi vậy xác định đúng giá cả hàng hoá trong kinh doanh xuất nhập khẩu có ý nghĩa to lớn với hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu.
Trong kinh doanh thương mại quốc tế, giá cả thị trường lại càng phức tạp do việc diễn ra trong thời gian dài vận chuyển qua các nước khác nhau với các chính sách thuế khác nhau. Để đạt được hiệu quả cao trên thương trường quốc tế đòi hỏi các nhà kinh doanh luôn theo dõi, nghiên cứu biến động của giá cả đồng thời có biện pháp tính toán, xác định giá một cách chính xác, khoa học để thực sự trở thành các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu.
Định giá bán sản phẩm dùa trên 3 căn cứ:
- Căn cứ vào giá cộng các chi phí (bao bì, vận chuyển, chi phí bảo hiểm, các chi phí khác...).
- Tình hình dự trữ ngoại tệ, phương hướng nhập khẩu để biết được khả năng nhập khẩu và dự kiến đối thủ cạnh tranh.
Trong chính sách thương mại các nước chọn đối tượng giao dịch để lường trước mọi việc và có đối sách thích hợp.
Chọn thương nhân giao dịch cho phép hiệu quả nên chọn người nhập khẩu trực tiếp. Tuy nhiên trong một số trường hợp muốn xâm nhập thị trường mặt hàng mới thì việc giao dịch qua trung gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng... Việc lùa chọn đối tác phải có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng trong thực hiện thắng lợi các hoạt động mua bán quốc tế. Đó là tiền đề cho việc xuất khẩu hàng hoá thực hiện có hiệu quả.
2. Thu mua tạo nguồn hàng:
Nhiệm vụ cơ bản chủ yếu nhất của doanh nghiệp thương mại nói chung, doanh nghiệp chuyên doanh xuất nhập khẩu nói riêng là đảm bảo cung ứng cho sản xuất và tiêu dùng những loại hàng hoá cần thiết, đủ về số lượng, tốt về chất lượng, kịp thời gian yêu cầu và thuận lợi cho khách hàng. Để thực hiện được nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu đó các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhẩu khẩu phải tổ chức tốt công tác tạo nguồn hàng của doanh nghiệp.
Để có nguồn hàng tốt và ổn định, doanh nghiệp phải tổ chức công tác tạo nguồn. Tổ chức công tác tạo nguồn hàng là toàn bộ những hoạt động nghiệp vụ nhằm tạo ra nguồn hàng hoá để bảo đảm cung ứng đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, đúng quy cách, cỡ loại, màu sắc... cho các nhu cầu của khách hàng. Nội dung cơ bản của công tác tạo nguồn hàng:
2.1. Nghiên cứu nhu cầu mặt hàng của khách hàng:
Mua hàng ở doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải nhằm mục đích xuất được hàng. Xuất được nhanh, được nhiều, doanh nghiệp tăng được