Ngày nay, người ta khó có thể hình dung được nền kinh tế thị trường mà lại vắng bóng các tổ chức tài chính trung gian làm “cầu nối” giữa người có vốn và người cần vốn. Trong số các tổ chức tài chính trung gian, hệ thống các Ngân hàng thương mại chiếm vị trí quan trọng nhất cả về quy mô tài sản cũng như về thành phần các nghiệp vụ. Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, Ngân hàng thương mại giữ một vị trí rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu. Hơn nữa, Việt Nam đã ra nhập WTO, hội nhập với nền kinh tế thế giới, hệ thống Ngân hàng với tư cách là trụ cột của nền tài chính nước nhà đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới. Cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài có ưu thế hơn hẳn về phương diện vốn và công nghệ đòi hỏi các Ngân hàng trong nước phải có những chiến lược mang ý nghĩa sống còn. Cũng như bất kỳ ngành kinh doanh nào khác, ngân hàng có thể gặp rủi ro và có thể bị mất vốn. Hơn nữa, Ngân hàng là một ngành kinh tế nhậy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng của rất nhiều loại rủi ro. Rủi ro là khó tránh khỏi nên làm thế nào để giảm thiểu rủi ro đến mức tối đa mà vẫn đảm bảo mức sinh lời cao cho các Ngân hàng luôn là một bài toán khiến cho các nhà quản trị Ngân hàng phải trăn trở.
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại thì hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động mang lại thu nhập chính và cũng là hoạt động hàm chứa nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, em chọn đề tài: “Hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Sơn- Hà Nội”.
Kết cấu chuyên đề
Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng No&PTNT Sóc Sơn- Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng No&PTNT Sóc Sơn- Hà Nội
69 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1197 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Sơn- Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, người ta khó có thể hình dung được nền kinh tế thị trường mà lại vắng bóng các tổ chức tài chính trung gian làm “cầu nối” giữa người có vốn và người cần vốn. Trong số các tổ chức tài chính trung gian, hệ thống các Ngân hàng thương mại chiếm vị trí quan trọng nhất cả về quy mô tài sản cũng như về thành phần các nghiệp vụ. Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, Ngân hàng thương mại giữ một vị trí rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu. Hơn nữa, Việt Nam đã ra nhập WTO, hội nhập với nền kinh tế thế giới, hệ thống Ngân hàng với tư cách là trụ cột của nền tài chính nước nhà đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới. Cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài có ưu thế hơn hẳn về phương diện vốn và công nghệ đòi hỏi các Ngân hàng trong nước phải có những chiến lược mang ý nghĩa sống còn. Cũng như bất kỳ ngành kinh doanh nào khác, ngân hàng có thể gặp rủi ro và có thể bị mất vốn. Hơn nữa, Ngân hàng là một ngành kinh tế nhậy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng của rất nhiều loại rủi ro. Rủi ro là khó tránh khỏi nên làm thế nào để giảm thiểu rủi ro đến mức tối đa mà vẫn đảm bảo mức sinh lời cao cho các Ngân hàng luôn là một bài toán khiến cho các nhà quản trị Ngân hàng phải trăn trở.
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại thì hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động mang lại thu nhập chính và cũng là hoạt động hàm chứa nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, em chọn đề tài: “Hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Sơn- Hà Nội”.
Kết cấu chuyên đề
Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng No&PTNT Sóc Sơn- Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng No&PTNT Sóc Sơn- Hà Nội
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
Khái niệm về tín dụng
Theo khái niệm nguyên thủy, tín dụng (credit) là tin mà đưa tiền cho sử dụng. Hiểu một cách nôm na, tín dụng Ngân hàng nghĩa là ngân hàng tin tưởng mà trao quyền sử dụng tiền cho khách hàng hay chính là ngân hàng cho khách hàng vay khoản tiền đó.
Vậy có thể nói, tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả gốc và lãi giữa người có vốn (ngân hàng) và người thiếu vốn (doanh nghiệp).
Đặc trưng của tín dụng
Quan hệ tín dụng được hình thành dựa trên ba yếu tố đó là tính hoàn trả, tính thời hạn và lòng tin.
Thứ nhất, quan hệ tín dụng Ngân hàng dựa trên cơ sở hoàn trả. Ngân hàng với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ hoạt động trên cơ sở “đi vay” để “cho vay” thông qua nghiệp vụ tín dụng của mình. Việc “buôn tiền” của NHTM suy cho cùng phải đạt được lợi nhuận. Muốn vậy phải kinh doanh, kinh doanh có hiệu quả. Hành vi buôn bán tiền của NHTM thực chất là đi mua quyền sử dụng vốn (thuê) để bán (cho thuê) lại quyền sử dụng vốn đố, nhưng nó hoàn toàn khác với các loại kinh doanh khác của các tổ chức kinh tế. Trước hết, vốn mà Ngân hàng mua quyền sử dụng của những chủ thể có vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế phải được trả lại cả vốn và lãi cho chủ sở hữu của nó theo những cam kết đã giao ước. Là người đi vay, NHTM phải đảm bảo hoàn trả đúng hạn vốn huy động hoặc đáp ứng yêu cầu thanh toán của khách hàng với một món lợi tức hợp lý kèm theo. Là người cho vay, NHTM sử dụng vốn đi thuê để cho thuê lại, tức là tạm thời bán quyền sử dụng vốn cho người khác, NHTM vẫn luôn mong muốn khách hàng vủa mình sử dụng vốn vay có hiệu quả và hoàn trả đầy đủ vốn và lãi đúng kỳ hạn theo những quy định đã cam kết.
Thứ hai, đó là là quan hệ chuyển nhượng mang tính chất tạm thời. Đối tượng của sự chuyển nhượng có thể là tiền tệ hoặc là hàng hóa dưới hình thức kéo dài thời gian thanh toán trong quan hệ mua bán hàng hóa. Tính chất tạm thời của sự chuyển nhượng đề cập đến thời gian sử dụng lượng giá trị đó. Nó là kết quả của sự thỏa thuận các đối tác tham gia qúa trình chuyển nhượng để đảm bảo sự phù hợp giữa thời gian nhàn rỗi và thời gian cần sử dụng lượng giá trị dó. Sự thiếu phù hợp và thời gian chuyển nhượng có thể ảnh hưởng tới quyền lợi tài chính và hoạt động kinh doanh của cả hai bên và dẫn đến nguy cơ phá hủy quan hệ tín dụng. Thực chất trong quan hệ tín dụng chỉ có sự chuyển nhượng quyền sử dụng lượng giá trị tạm thời nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định mà không có sự thay đổi quyền sở hữu đối với lượng giá trị đó.
Thứ ba, quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sư tin tưởng giữa người đi vay và người cho vay. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín dụng. Từ những phân tích ở đặc trưng thứ nhất ta thấy rằng: trong mối quan hệ tay ba giữa NHTM, người gửi tiền ký thác và người đi vay đều dựa vào lòng tin của nhau để giải quyết tình trạng thừa hoặc thiếu vốn của các chủ thể nêu trên. Người cho vay tin tưởng rằng vốn sẽ được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn. Người đi vay cũng hi vọng vào khả năng phát huy hiệu quả của vốn vay. Sự gặp gỡ giữa người đi vay và người cho vay về, điểm này sẽ là điều kiện hình thành quan hệ tín dụng. Cơ sở của sự tin tưởng này có thể do uy tín của người đi vay do giá trị của tài sản thế chấp hay do sự bảo lãnh của bên thứ ba.
Vai trò của tín dụng
Thứ nhất, tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội. Nhờ có tín dụng với một hệ thống các hình thức tín dụng đa dạng, vốn nhàn rỗi trong xã hội được cung ứng cho các chủ thể kinh tế để đáp ứng nhu cầu đa dạng về sản xuất và tiêu dùng của họ. Từ đó, vừa đẩy nhanh tốc độ sản xuất và tốc độ tiêu thụ sản phẩm; vừa giúp người cần vốn có thể tiếp cận một cách dễ dàng hơn các nguồn vốn tín dụng, tiết kiệm chi phí giao dịch và các chi phí nguồn vốn khác của họ. Mặt khác, khi sử dụng các nguồn vốn tín dụng của các trung gian tài chính, khi các hình thức tín dụng không ngừng được mở rộng và nâng cao hiệu quả cùng với các điều kiện tín dụng chặt chẽ, các doanh nghiệp sẽ có được sự chủ động khi thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, thực sự quan tâm đến hiệu quả của đồng vốn bỏ ra, tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới, nâng cao năng lực sản xuất xã hội, từ đó hạn chế được rủi ro đạo đức và rủi ro lựa chọn đối nghịch.
Thứ hai, tín dụng là kênh truyền tải tác động của Nhà nước tới các mục tiêu vĩ mô. Ba mục tiêu vĩ mô quan trọng mà một chính sách tiền tệ phải giải quyết, đó là: ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ. Muốn đạt được các mục tiêu vĩ mô đó, không thể thiếu được là sự tác động không nhỏ của khối lượng và cơ cấu tín dụng xét cả về mặt thời hạn cũng như đối tượng tín dụng. Nhà Nước có thể thay đổi quy mô cũng như chuyển hướng vận động của nguồn vốn tín dụng thông qua việc điều chỉnh và thay đổi các điều kiện tín dụng, từ đó mà ảnh hưởng đến quy mô và kết cấu của tổng cầu, và tác động ngược lại với tổng cung và các điều kiện sản xuất khác. Điểm cân bằng giữa tổng cung và tổng cầu dưới sự tác động của chính sách tín dụng sẽ cho phép đạt được các mục tiêu vĩ mô cần thiết. Nhưng trong từng thời kỳ, Nhà Nước phải chấp nhận sự đánh đổi khi lựa chọn mục tiêu kinh tế vĩ mô này mà không thể đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô khác. Không phải là dễ nếu không muốn nói là quá khó để có thể đạt được cùng một lúc cả ba mục tiêu kinh tế vĩ mô trong một khoảng thời gian nhất định.
Thứ ba, tín dụng là công cụ thực hiện các chính sách xã hội. Trước đây, việc tài trợ cho các đối tượng chính sách chủ yếu là từ nguồn Ngân sách Nhà nước mang tính chất không hoàn lại. Nhưng xu thế ngày nay, phương thức tài trợ không hoàn lại dần được thay thế bởi phương thức tài trợ có hoàn lại thông qua con đường tín dụng đối với các đối tượng chính sách tỏ ra khá hiệu quả, mở rộng quy mô tín dụng chính sách. Như việc cho vay người nghèo, sinh viên nghèo vượt khó… với lãi suất thấp cùng các ưu đãi khác để tạo điều kiện cho họ giải quyết khó khăn về mặt tài chính của Ngân Hàng Chính Sách và Ngân Hàng Phát Triển ở nước ta hiện nay khẳng định sự quan tâm của chính phủ đến mọi tầng lớp trong xã hội. Rõ ràng, khi các đối tượng chính sách quan tâm đến hiệu quả sử dụng của đồng vốn vay để đảm bảo trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi, họ sẽ ý thức hơn về đồng vốn họ làm ra, tạo điều kiện cho họ nâng cao tay nghề đáp ứng tốt hơn nhu cầu phục vụ sản xuất, từng bước độc lập hơn với nguồn vốn tài trợ, cải thiện đời sống. Và đó cũng chính là mục đích của việc sử dụng phương thức tài trợ các mục tiêu chính sách bằng con đường tín dụng.
RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHTM
Khái niêm rủi ro tín dụng
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến
Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh khi một hoặc các bên tham gia hoạt động tín dụng không có khả năng thanh toán cho các bện còn lại. Đối với NHTM rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của các khoản cho vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi vay không đúng hạn. Nếu các khoản cho vay của ngân hàng đều được thanh toán đầy đủ và đúng hạn cả gốc và lãi thì ngân hàng không bị rủi ro tín dụng. Ngược lại, nếu người vay tiền không có khả năng trả nợ hoặc cố ý không trả nợ thì rủi ro tín dụng nảy sinh.
Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt đông cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của NHTM như: hoạt động bảo lãnh, tài trợ ngoại thương, cho thuê tài chính.
Rủi ro tín dụng là rủi ro cơ bản nhất của ngân hàng.
Các hình thức rủi ro tín dụng
Có 2 hình thức rủi ro tín dụng:
+ Rủi ro đọng vốn: là rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu khi khách hàng không hoàn trả đầy đủ khoản tín dụng đúng hạn.
+ Rủi ro mất vốn: là rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu khi khách hàng không hoàn trả một phần hay hay toàn bộ khoản tín dụng.
Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Nguyên nhân khách quan
Ngân hàng là “cầu nối” cho tất cả các ngành nghề trong nền kinh tế nên nó chịu tác động của rất nhiều các yếu tố khách quan. Vì vậy mà nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng cũng từ rất nhiều các yếu tố bên ngoài.
Nguyên nhân bất khả kháng:
Bão lũ, hạn hán, thiên tai, đình công... không lường trước được cũng có thể gây ra nững tổn thất không nhỏ đến hoạt động của Ngân hàng vì nó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của khách hàng, dẫn đến ảnh hưởng tới khả năng trả nợ tiền vay của khách hàng, gây ra rủi ro tín dụng.
Môi trường chính trị pháp luật:
Môi trường chính trị ổn định, pháp luật có đồng bộ mới có thể tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các chủ thể tham gia. Như ta đã biết thì dù có một thay đổi nhỏ trong cơ chế quản lý hay những chính sách vĩ mô của nhà nước đều dẫn đến những thay đổi trong nền kinh tế (lãi suất, tỷ giá hối đoái, các điều kiện mở rộng hay thu hẹp tín dụng...) vì bất cứ cá nhân hay tổ chức nào cũng đều chịu sự quản lý của nhà nước. Một đất nước có tình hình chính trị bất ổn, pháp luật không có hiệu lực thì không có doanh nghiệp nào muốn đầu tư kinh doanh cả. Môi trường pháp lý còn ảnh hưởng không nhỏ tới mức độ rủi ro tín dụng trong kinh doanh Ngân hàng như:
+ Luật pháp thường xuyên thay đổi, luật cũ chưa thưc hiện được bao lâu thì luật mới đã ban hành gây khó khăn cho các chủ thể tham gia.
+ Luật pháp không nhất quán, không rõ ràng, dẫn đến nhiều kẽ hở, tạo điều kiện cho khách hàng vay lách luật, khó kiểm soát dẫn đến tổn thất cho Ngân hàng. Hơn nữa, sự không thống nhất giữa các văn bản luật gây ra sự khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp giữa Ngân hàng với khách hàng trong trường hợp cần thiết.
+ Việc Ngân hàng phai thực hiện cấp tín dụng cho các khoản vay theo chỉ thị của chính phủ ũng khiến các Ngân hàng gặp rủi ro với thiệt hại lớn mà ngay lập tức khó có nguồn bù đắp ví như những tổn thất của khoản cho vay đánh bắt xa bờ theo chỉ định của Chính phủ mà NHNo&PTNT Việt Nam phải gánh chịu trong thời gian gần đây.
Môi trường kinh tế:
Rõ ràng rằng, kết quả kinh doanh của khách hàng phụ thuộc rất lớn vào những biến động của chu kỳ kinh doanh.Những thay đổi của môi trường kinh tế tạo ra những điều kiện thuận lợi hay khó khăn đối với người cần vốn. Khi kinh tế tăng trưởng, hoạt động kinh doanh của khách hàng thuận lợi, sức sản xuất cũng như tiêu thụ mạnh, doanh thu lợi nhuận tăng, khả năng chi trả cho các khoản vay lớn, việc vay nợ thuận lợi, Ngân hàng cũng giảm thiểu được rủi ro. Nhưng ngược lại thì việc vay vốn cũng như việc thu hồi nợ cũng gặp khó khăn, vì vậy mà rủi ro càng tăng mạnh. Hơn nữa, sự phát triển đa dạng các ngành kinh tế cũng giúp Ngân hàng phân tán được rủi ro trong hoạt động tín dụng, sự ra đời của nhiều ngành mới như Trung tâm thông tin, các công ty xếp hạng doanh nghiệp giúp Ngân hàng nắm bắt được nhiều thông tin khách hàng hơn từ đó mà đánh giá rủi ro chính xác hơn, đưa ra được những giải pháp hữu hiệu hơn để hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng.
Môi trường văn hóa xã hội:
Vệc tìm hiểu thói quen, tập quán tiêu dùng trong dân cư là vô cùng quan trọng vì từ đó các doanh nghiệp có thể đưa ra các sản phẩm phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Trong môi trường cạnh tranh như ngày nay, nếu không theo kịp được thị hiếu của người dân thì doanh nghiệp đó sẽ bị đào thải gây ảnh hưởng tới Ngân hàng. Hơn nữa, các Ngân hàng cũng phải nắm rõ các yếu tố xã hội từ đó có thể tạo ra những sản phẩm, dịch vụ phù hợp với từng đối tượng khách hàng, từ đó giảm thiểu rủi ro.
Nguyên nhân từ các bảo đảm tiền vay:
Việc bảo đảm tiền vay bao gồm bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật. Do đó, những nguyên nhân tác động đến các yếu tố đó cũng có thể làm cho người vay mất khả năng chi trả. Cụ thể là: người bảo lãnh bị những nguyên nhân như trên thì họ không có khả năng bảo lãnh. Còn tài sản thế chấp, cầm cố bị giảm giá, bị cháy, thiên tai (mà không có bảo hiểm) không tiêu thụ được, tài sản thế chấp cầm cố không đúng quy định của luật dân sự...
Nguyên nhân từ phía người vay
Đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra rủi ro tín dụng cho Ngân hàng. Đối với từng đối tượng khách hàng khác nhau thì nguyên nhân dẫn đến khả năng khách hàng không trả được nợ vốn vay theo đúng quy định trong hợp đồng tín dụng cũng khác nhau.
Khách hàng vay là cá nhân:
Khách hàng cá nhân đi vay chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua nhà, mua sắm nội thất, du lịch, du học...trong điều kiện tích lũy hiện tại chưa đủ. Nguồn trả nợ chính của họ chủ yếu là nguồn thu nhập mang tính chất ổn định, đều đặn. Do vậy, những nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng đối với đối tượng khách hàng này là do sự mất ổn định trong thu nhập, dẫn đến mất khả năng trả nợ Ngân hàng. Có thể là do:
+ Khách hàng vay chết, mất tích, thất nghiệp.
+ Người vay gặp sự cố bất thường trong cuộc sống
+ Người đi vay hoạch định ngân quỹ không chính xác, không dự tính hết được các khoản chi tiêu dẫn đến xác định sai nguồn thu nhập có thể sử dụng để trả nợ cho Ngân hàng.
+ Rủi ro đạo đức thuộc về người đi vay, người đi vay cố tình lừa đảo, không trả nợ cho ngân hàng.
Khách hàng vay là doanh nghiệp:
+ Rủi ro trong kinh doanh của người đi vay: Rủi ro trong kinh doanh của người đi vay thể hiện ở mức độ biến động ít hay nhiều theo chiều hướng xấu của kết quả kinh doanh. Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ xảy ra khi việc triển khai xây dựng các phương án, các dự án sản xuất kinh doanh không khoa học, việc dự toán chi phí và sản lượng sản xuất không phù hợp. Trong trường hợp khác, mặc dù phương án kinh doanh của doanh nghiệp đã được tính toán một cách chi tiết, khoa học, chính xác một cách tối đa thì bản thân hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vốn chưa đựng nhiều rủi ro do những thay đổi bất ngờ ngoài ý muốn của các điều kiện sản xuất kinh doanh như những biến động về giá cả, nững thay đổi về thị hiếu...ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của DN.
+ Rủi ro đạo đức: Ngân hàng còn phải gánh chịu rủi ro tín dụng khi khách hàng cố tình sử dụng vốn sai mục đích, gian lận trong hồ sơ vay vốn, hoặc thậm chí doanh nghiệp cố tình không trả nợ.
Ngoài ra, rủi ro tín dụng có thể phát sinh khi doanh nghiệp phá sản hoặc thay đổi bộ máy quản lý, tổ chức.
Nguyên nhân do bản thân ngân hàng
Thứ nhất là do việc không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và điều kiện cho vay, quá nhấn mạnh vào lợi nhuận của Ngân hàng nên khi cho vay đã chú trọng về lợi tức, đặt mục tiêu lợi tức cao hơn mục tiêu các khoản cho vay lành mạnh.
Thứ hai là do chính sách và quy trình cho vay còn lỏng lẻo, chưa chú trọng đến phân tích khách hàng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ hoặc phương pháp xem xét phân tích còn hạn chế, chưa chính xác.
Thứ ba là do kỹ thuật cấp tín dụng chưa hiện đại, chưa đa dạng như: Việc xác định hạn mức tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù hợp, chủ yếu là tín dụng trực tiếp, sản phẩm tín dụng còn nghèo nàn.
Thứ tư là do thiếu thông tin về khách hàng hoặc thiếu thông tin tín dụng tin cậy, kịp thời, chính xác để xem xét, phân tích trước khi cấp tín dụng.
Thứ năm là do trình độ của cán bộ tín dụng còn non kém dẫn đến sai lầm trong phân tích và đưa ra quyết định cho vay. Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức kinh doanh dẫn đến quyết định cho vay đối với những phương án, dự án thiếu tính khả thi, hoặc thông đồng với khách hàng lập hồ sơ giả để vay vốn Ngân hàng.
ĐO LƯỜNG RỦI RO TÍN DỤNG
Đo lường rủi ro tín dụng của một danh mục cho vay
Rủi ro tổn thất tài sản là điều khó tránh khỏi trên con đường tìm kiếm lợi nhuận. Lợi nhuận và rủi ro là hai yếu tố song hành trong quá trình kinh doanh tiền tệ. Lĩnh vực hoạt động nào có khả năng mang lại lợi nhuận cao, ở đó rủi ro có thể xảy ra cũng rất lớn. Vì vậy, khi phân tích đánh giá hoạt động NHTM, các nhà phân tích phải kết hợp nghiên cứu rủi ro với lợi nhuận để có thể có những quyết định tốt nhất trong việc xây dựng chiến lược của NHTM.
Rủi ro tín dụng = Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN thì hiện nay các Ngân hàng tiến hành phân loại nợ thành 5 nhóm:
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn
Nhóm 2: Nợ cần chú ý
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn
Trong đó, nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hay toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn, bao gồm nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5.
Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng nợ quá hạn / Tổng dư nợ
Nợ xấu bao gồm nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5.
Tỷ lệ nợ xấu = tổng nơ xấu/ tổng dư nợ
Từ ba công thức trên ta có thể thấy rằng, nợ quá hạn, nợ xấu của Ngân hàng càng cao thì rủi ro tín dụng xảy đến với Ngân hàng càng lớn. Nợ quá hạn, nợ xấu gia tăng có thể do khách hàng làm ăn thua lỗ, không có khả năng trả nợ theo đúng yêu cầu trong hợp đồng tín dụng với Ngân hàng. Nợ quá hạn, nợ xấu gia tăng kéo theo các chi phí khác của Ngân hàng cũng gia tăng như: Các khoản chi phí đôn đốc thu hồi nợ, giám sát khoản vay, chi phí cơ hội...
Tỷ lệ mất vốn= Dư nợ mất vốn/ tổng dư nợ
Tỷ lệ mất vốn cao chứng tỏ Ngân hàng gặp nhiều thiệt hại trong hoạt động cho vay, đây là khoản nợ được đưa ra ngoài bảng cân đối và trên thực tế Ngân hàng phải dùng quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng cần tiếp tục theo dõi giám sát cả những khoản nợ này để thu hồi được phần nào hay phần ấy.
Tỷ lệ dự phòng rủi ro trích lập= Số tiền dự phòng rủi ro trích lập/ Tổng dư nợ
Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ Ngân hàng phải trích lập càng nhiều để bù đắp rủi ro càng nhiều đối với những khoản vay không đảm bảo chất lượng, không có khả năng thu hồi, làm tăng chi phí, từ đó giảm lợi nhuận cho Ngân hàng.
Bên cạnh các chỉ tiêu trên, nhà quản lý còn sử dụng một số chỉ tiêu khác để đo lường rủi ro tín dụng như:
Điểm của khách hàng
Dựa vào các thông tin tài chính và phi tài chính có sẵn của khách hàng Ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Khách hàng loại A hoặc điểm cao thì rủi ro tín dụng thấp, khách hàng loại C hoặc điểm thấp thì rủi ro tín dụng cao. Chỉ tiêu này được xác định dựa trên các dấu hiệu rủi ro mà Ngân hàng xây dựng. Điểm của khách hàng cho thấy rủi ro “tiềm ẩn”.
Danh mục cho vay không đa dạng:
Đa dạng hóa các hình thức tín dụng là một biện pháp để hạn chế rủi ro tín dụng. Những thay đổi trong chu kỳ sản xuất kinh doanh của người vay