Chuyên đề Hoàn thiện công tác thu thuế ngoài quốc doanh huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai

Sự hình thành và phát triển của Ngành Thuế có quan hệ mật thiết với sự hình thành và phát triển của Nhà nước, thuế là công cụ chủ yếu trong việc thu ngân sách của Nhà nước, nó góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện vai trò phân phối các nguồn lực tài chính. Với định hướng phát triển và xu thế hội nhập của nước ta hiện nay thì việc quản lý thu thuế hết sức phức tạp và gặp không ít khó khăn, vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và vừa phải phù hợp, đảm bảo cho phát triển sản xuất của các thành phần kinh tế. Cũng như những vấn đề chung trong việc quản lý thu thuế của cả nước thì chuyên đề này đóng góp cho ngành thuế huyện Bảo Yên một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế nói chung và thu thuế ngoài quốc doanh nói riêng, đảm bảo thực hiện tốt pháp luật thuế và tăng thu ngân sách địa phương nhằm phát triển kinh tế xã hội huyện Bảo Yên theo kịp sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và của đất nước.

docx58 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1342 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện công tác thu thuế ngoài quốc doanh huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Sự hình thành và phát triển của Ngành Thuế có quan hệ mật thiết với sự hình thành và phát triển của Nhà nước, thuế là công cụ chủ yếu trong việc thu ngân sách của Nhà nước, nó góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện vai trò phân phối các nguồn lực tài chính. Với định hướng phát triển và xu thế hội nhập của nước ta hiện nay thì việc quản lý thu thuế hết sức phức tạp và gặp không ít khó khăn, vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và vừa phải phù hợp, đảm bảo cho phát triển sản xuất của các thành phần kinh tế. Cũng như những vấn đề chung trong việc quản lý thu thuế của cả nước thì chuyên đề này đóng góp cho ngành thuế huyện Bảo Yên một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế nói chung và thu thuế ngoài quốc doanh nói riêng, đảm bảo thực hiện tốt pháp luật thuế và tăng thu ngân sách địa phương nhằm phát triển kinh tế xã hội huyện Bảo Yên theo kịp sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và của đất nước. - Tính cấp thiết của chuyên đề. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước và thuế là một trong những công cụ rất quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Chính sách thuế của Nhà nước luôn có quan hệ chặt chẽ đến việc giải quyết lợi ích kinh tế giữa các chủ thể trong xã hội, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn đề vĩ mô như : tiết kiệm, đầu tư, tăng trưởng kinh tế. Việc hoàn thiện chính sách thuế sao cho phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội là sự quan tâm hàng đầu của Nhà nước. Cùng với sự phát triển của đất nước, hệ thống thuế Việt Nam ngày càng đổi mới hoàn thiện, phù hợp với nền kinh tế thị trường và hội nhập với thế giới. Việc đổi mới chính sách thuế của Nhà nước ta trong thời gian vừa qua góp phần không nhỏ trong việc khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách, góp phần tăng cường quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bên cạnh mặt tích cực của chính sách thuế hiện hành của Nhà nước ta thì việc thực thi pháp luật thuế còn nhiều phức tạp và khó khăn trong việc quản lý về lĩnh vực thuế. Tình trạng vi phạm pháp luật thuế còn phổ biến ở tất cả các thành phần kinh tế của nước ta hiện nay như: trốn thuế, lợi dụng việc hoàn thuế để “rút lõi” ngân quỹ nhà nước… Nước ta đang đổi mới theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và đang tiến dần đến việc hội nhập với thế giới; các thành phần kinh tế đang phát triển nhanh và đa dạng, do đó nhiều chính sách thuế đã lạc hậu và tạo nhiều kẽ hở. Vậy cần phải tiếp tục đổi mới và điều chỉnh các chính sách thuế cho phù hợp là rất cần thiết. Tại văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định “Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và cam kết quốc tế, đơn giản hóa các sắc thuế; từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nuôi dưỡng nguồn thu và thu đúng thu đủ theo quy định của pháp luật. Hiện đại hoá công tác quản lý thu thuế của pháp luật. Hiện đại hóa công tác quản lý thu thuế của Nhà nước”. Tại văn bản số 147/TB/TW ngày 16/7/2004 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông báo kết luận của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 đã khẳng định : “Chiến lược cải cách hệ thống thuế là một trong những nội dung lớn của chiến lược tài chính đến năm 2010, có quan hệ chặt chẽ với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm qua, chúng ta đã có những tiến bộ trong việc cải cách hệ thống thuế theo hướng tạo hành lang pháp luật trong chính sách thuế, quản lý thuế, nâng cao trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, đồng thời từng bước điều chỉnh các sắc thuế phù hợp với lộ tình hội nhập quốc tế”. Cùng với những vấn đề chung trong việc quản lý thu thuế của nước ta thì huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai cũng có nhiều vấn đề trong việc quản lý thu thuế trên địa bàn nhất là việc quản lý thu thuế ngoài quốc doanh, tình trạng vi phạm pháp luật thuế đã làm ảnh hưởng đến ngân sách địa phương và việc đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm phát triển kinh tế của huyện. Vậy công tác quản lý thu thuế đạt hiệu quả sẽ không chỉ ý nghĩa về kinh tế mà nó còn góp phần ổn định chính trị. Để đưa ra các giải pháp quản lý thu thuế cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế là rất cần thiết . Qua thực trạng việc thực hiện pháp luật thuế của huyện Bảo Yên tôi chọn chuyên đề : Hoàn thiện công tác thu thuế ngoài quốc doanh huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai. - Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận chung về thuế, phân tích đánh giá tình hình thực tế về công tác quản lý thu thuế, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh của địa phương góp phần thúc đẩy kinh tế của huyện. - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu : Nội dung của chuyên đề chủ yếu nghiên cứu áp dụng một số cơ chế chính sách thuế vào thực tiễn và quản lý thuế ở cấp địa phương trên địa bàn huyện. - Phạm vi nghiên cứu : Quản lý thu thuế trên địa bàn huyện Bảo Yên trong 3 năm. - Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện những mục tiêu, việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra còn áp dụng các phương pháp khác như : phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích. * Kết cấu chuyên đề. - Chuyên đề gồm có 3 chương: - Lời mở đầu - Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thuế ngoài quốc doanh. - Chương II : Thực trạng công tác thu thuế ngoài quốc doanh. - Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu thuế ngoài quốc doanh. - Kết luận chung. CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ NGOÀI QUỐC DOANH I. một số vấn đề về thuế. 1. Khái niệm - Sự ra đời của thuế gắn liền với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Để duy trì hoạt động của Nhà nước cần phải có nguồn tài chính để chi tiêu nhằm duy trì bộ máy quản lý Nhà nước và chi cho các công việc thuộc chức năng của Nhà nước : xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, quốc phòng, an ninh, phúc lợi công cộng… Do vậy đến nay, thuế được coi là nghĩa vụ của công dân và các tổ chức kinh tế trong xã hội. Ở Việt Nam quy định của pháp luật : “Thuế là một khoản nộp cho Nhà nước được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nộp. Hay nói cách khác thuế là hình thức đóng góp theo nghĩa vụ do Luật quy định cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế trong xã hội nộp cho Nhà nước bằng phần thu nhập của mình”. 1.1. Đặc điểm Từ khái niệm trên ta thấy thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, được sử dụng để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung nhằm sử dụng cho mục đích công cộng. Thuế có các đặc điểm cơ bản sau : - Tính cố định của thuế Nhà nước ban hành sắc thuế để làm công cụ, bắt buộc các thành phần kinh tế trong xã hội phải đóng góp nghĩa vụ thuế. Luật thuế ban hành một mức thu cố định cho các hàng hóa dịch vụ. Do có các mức cố định này mà Nhà nước có thể tính trước được nguồn thu của mình, người nộp thuế cũng có thể tính trước được mức sẽ phải nộp là bao nhiêu trong thu nhập của mình cho Nhà nước. Thuế là nguồn thu lớn và thu một cách thường xuyên của Nhà nước, chỉ cần có hoạt động sản xuất kinh doanh là phải nộp thuế cho Nhà nước. Do đó nhà nước có nguồn tài chính để chi trả thường xuyên ổn định cho các nhu cầu của mình. - Tính bắt buộc Nhà nước sử dụng quyền lực của mình bắt buộc các thành phần kinh tế có sản xuất kinh doanh đều phải đóng một phần thu nhập của mình dưới hình thức nộp thuế cho ngân sách Nhà nước. Do vậy Nhà nước đã ban hành các sắc thuế trực thu, gián thu để buộc người sản xuất kinh doanh, người tieu dùng dịch vụ, người có thu nhập cao phải nộp thuế theo quy định của các luật thuế do Nhà nước ban hành. - Tính không hoàn trả trực tiếp Tính không hoàn trả trực tiếp thể hiện trên khía cạnh : người nộp thuế vào ngân sách Nhà nước không có quyền đòi hỏi nhà nước phải cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình (điểm này thuế khác với phí, lệ phí là phí, lệ phí mang tính chất hoàn trả trực tiếp cho người hưởng thụ). Người nộp thuế sẽ nhận được một phần dịch vụ công cộng Nhà nước cung cấp chung cho cả cộng đồng, giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết phải trùng với khoản thuế mà họ phải nộp cho Nhà nước. 2. Vai trò của thuế 2.1. Thuế Là công cụ chủ yếu huy động nguồn lực vật chất cho Nhà nước Thuế là công cụ quan trọng của Nhà nước trong quá trình quản lý kinh tế. Để huy động được nguồn lực vật chất cho ngân quỹ Nhà nước thì Thuế là công cụ chủ yếu chiếm số lớn trong nguồn thu, để đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong quá trình thực hiện các chức năng xã hội nói chung. Sử dụng công cụ thuế để huy động tiền thuế cho Nhà nước có ưu điểm: + Phạm vi thu thuế rộng; đối tượng nộp thuế gồm toàn bộ thể nhân và pháp nhân hoạt động kinh tế. + Nguồn huy động tập trung thông qua thuế là tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong nước tạo ra. Nhờ đó một bộ phận đáng kể thu nhập xã hội tập trung trong tay Nhà nước để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu và các biện pháp kinh tế xã hội. Mặt khác nguồn thu từ thuế được đảm bảo tập trung một cách nhanh chóng, thường xuyên và ổn định. + Đây cũng là biện pháp hữu ích của công cụ tài chính. 2.2. Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước có khả năng sử dụng chính sách thuế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Điều đó xuất phát từ chức năng điều chỉnh của Thuế. Vì lợi ích xã hội, Nhà nước có thể tăng thuế hay giảm thuế đối với các đối tượng nộp thuế, để kích thích hay hạn chế sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế nhằm giữ vững cân bằng ổn định thị tỉường để thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong thời kỳ phát triển quá mức, có nguy cơ dẫn đến mất cân đối, bằng cách tăng thuế, thu hẹp đầu tư, Nhà nước cơ thể giữ vững nhịp độ tăng trưởng theo mục tiêu đã đề ra. Việc điều chỉnh chính sách thuế cần góp phần hình thành cơ cấu ngành hợp lý theo yêu cầu phát triển nền kinh tế trong từng giai đoạn. Trong khi áp dụng các chính sách thuế cho từng ngành, từng loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau. Nhà nước có thể thúc đẩy sự phát triển các ngành quan trọng nhất, giữ vững vị trí then chốt trong nền kinh tế hoặc san bằng tốc độ tăng trưởng giữa các ngành nghề. Với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, Nhà nước cần phải khuyến khích tích luỹ trong các doanh nghiệp để tạo ra nguồn vốn đầu tư. Việc thay đổi chính sách thuế có thể ảnh hưởng đến quy mô, tốc độ tích luỹ tiền tệ do đó tác động đến quá trình đầu tư phát triển kinh tế. Thuế được sử dụng như một công cụ có hiệu quả để góp phần thực hiện chính sách đối ngoại và bảo hộ nền sản xuất trong nước và thúc đẩy hòa hợp kinh tế khu vực và trên thế giới. Thông qua việc điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu, kịp thời qua từng thời kỳ đã tạo nên điều kiện hạn chế hàng nhập khẩum để bảo hộ những mặt hàng trong nước sản xuất. 2.3. Thuế thực hiện vai trò phân phối của nguồn tài chính, góp phần đảm bảo công bằng xã hội Sử dụng công cụ thuế nhà nước có thể điều tiết thu nhập một cách hợp lý, giảm bớt sự bất công bằng trong xã hội. Nếu sử dụng tốt công cụ này thì chính nó sẽ trở thành động lực khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, thuế ngày càng có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Hoặc định các chính sách thuế phải đảm bảo phát huy vai trò là công cụ của Nhà nước điều tiết nền kinh tế bằng các sắc thuế. Thông qua các phương pháp quản lý thu thuế cùng với các biện pháp tài chính khác của Nhà nước tác động hình thành nên thị trường, bình ổn giá cả tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh, nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và tăng thu ngân sách. 3. Phân loại thuế Khái niệm: phân loại thuế là sự sắp xếp các sắc thuế trong một hệ thống chính sách thuế thành những nhóm khác nhau theo tiêu thức nhất định. Để phân loại thuế người ta dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau. Từ thực tế sử dụng tiêu thức phân loại thuế ở nước ta và thế giới, các tiêu thức phân loại thuế rất đa dạng và tuỳ thuộc vào mục tiêu quản lý của mỗi quốc gia để đưa ra các tiêu thức khác nhau: phân loại thuế theo phương thức đánh thuế, theo cơ sở tính thuế, phạm vi điều chỉnh của sắc thuế, theo tính chất thuế suất… Dưới đây là một số tiêu thức phân loại thuế cơ bản thường được áp dụng. 3.1. Phân loại dựa theo phương thức tính thuế Các hình thức thuế, suy cho cùng đều đánh vào thu nhập của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào phương thức tính thuế là thuế trực tiếp hay gián tiếp vào thu nhập mà người ta chia hệ thống thuế thành hai loại thuế trực thu và thuế gián thu. 3.1.1. Thuế trực thu : Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của các đối tượng là cá nhân, tổ chức kinh tế. Đối với thuế này người chịu thuế đồng thời là người nộp thuế. 3.1.2. Thuế gián thu Là loại thuế đánh vào người tiêu dùng, nó được cộng vào giá cả của hàng hóa, dịch vụ. Người tiêu dùng là người chịu thuế cuối cùng. * Căn cứ vào đối tượng đánh thuế người ta có thể chia ra các loại thuế như sau : (1). Loại thuế đánh vào hàng hóa dịch vụ : gồm thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế xuất nhập khẩu (thuế quan). (2). Loại thuế đánh vào thu nhập gồm có : thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thừa kế, thuế quà biếu, quà tặng… (3). Loại thuế đánh vào tài sản : thuế (lệ phí) trước bạ, thuế nhà đất, thuế tài sản. (4). Loại thuế đánh vào hoạt động khai thác tài nguyên : gồm có thuế tài nguyên. Phân chia loại thuế như trên nhằm phát huy tác dụng của từng loại thuế, bao quát được các nguồn thu cần động viên cho ngân sách Nhà nước, vừa phát huy được vai trò của công cụ thuế nọi chung trong cơ chế thị trường. 4. Một số sắc thuế đối với khu vực ngoài quốc doanh 4.1 Thuế thu nhập doanh nghiệp Là loại thuế trực thu đánh vào phần thu nhập sau khi trừ các khoản chi phí hợp lý có liên quan đến thu nhập của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Thuế thu nhập doanh nghiệp thúc đẩy sản xuất kinh doanh, là một phần thu của ngân sách Nhà nước, đảm bảo đóng góp công bằng hợp lý giữa các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh dịch vụ có thu nhập. Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập đều phải nộp thuế. - Căn cứ tính thuế thu nhập chịu thuế và thuế suất : Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp = thu nhập chịu thuế x thuế suất (%) + Thu nhập chịu thuế gồm thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và thu nhập khác (kể cả thu nhập kinh doanh ở nước ngoài). Thu nhập chịu thuế các khoản chi phí từ hoạt động SX, KD, = Doanh - hợp lý có liên quan dịch vụ thu đến thu nhập chịu thuế + Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền cung ứng dịch vụ, kể cả trợ giá, phụ thu, phụ trợ mà cơ sở kinh doanh được hưởng. + Các khoản chi phí hợp lý được trừ để tính thu nhập chịu thuế gồm các khoản như : khấu hao tài sản cố định, chi phí nguyên vật liệu, chi phí tiền công, tiền lương, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí nghiên cứu khoa học, chi phí trả nợ vốn vay, chi phí quảng cáo tiếp thị, các khoản thuế, chi phí có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. + Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng đối với cơ sở kinh doanh là 28%. đối với các hoạt động tìm kiếm thăm dò, khai thác dầu khí và tài nguyên quý hiếm khác từ 28% đến 50% phù hợp từng dự án, từng cơ sở sản xuất kinh doanh. 4.2. Thuế môn bài Thuế môn bài là loại thuế được áp dụng cho tất cả các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam (kể cả các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) có doanh thu, có thu nhập đều là đối tượng của loại thuế này. - Mức thu thuế môn bài được quy định như sau : + Đối với các tổ chức kinh tế nộp thuế môn bài căn cứ vào vốn đăng ký kinh doanh ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư. Được chi tiết theo bảng sau : Bậc thuế môn bài Vốn đăng ký Mức môn bài cả năm (đồng) Bậc 1 Trên 10 tỷ đồng 3.000.000 Bậc 2 Từ 5 tỷ đến dưới 10 tỷ 2.000.000 Bậc 3 Từ 2 tỷ đến dưới 5 tỷ 1.500.000 Bậc 4 Dưới 2 tỷ đồng 1.000.000 + Đối với hộ sản xuất kinh doanh cá thể nộp thuế môn bài căn cứ vào thu nhập 1 tháng theo bảng sau : Bậc thuế Thu nhập 1 tháng Mức thuế cả năm (đồng) Bậc 1 Trên 1.500.000đ 1.000.000 Bậc 2 Trên 1.000.000 đến 1.500.000đ 1.750.000 Bậc 3 Trên 750.000 đến 1.000.000đ 500.000 Bậc 4 Trên 500.000 đến 750.000đ 300.000 Bậc 5 Trên 300.000 đến 500.000đ 100.000 Bậc 6 Bằng hoặc thấp hơn 300.000 50.000 4.3. Thuế giá trị gia tăng Thuế giá trị gia tăng là thuế gián thu, từ lâu đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng thay thế cho thuế doanh thu để khắc phục nhược điểm “thuế chồng lên thuế” của thuế doanh thu. Ở Việt Nam Luật thuế giá trị gia tăng được Quốc hội khoá IX nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 11 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1999. Thuế giá trị gia tăng là thuế đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa và dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được thu ở khâu tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. - Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng là hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh, trừ các đối tượng không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng được quy định rõ tại điều 4 của Luật. - Đối tượng nộp thuế là tổ chức, cá nhân sản xuất - kinh doanh hàng hóa dịch vụ chịu thuế “gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức cá nhân khác nhập khẩu hàng hóa chịu thuế (gọi chung là người nhập khẩu) là đối tượng nộp thuế. - Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng: là giá tính thuế và thuế suất. Giá tính thuế được Luật quy định chi tiết áp dụng cho từng lĩnh vực hoạt động của hàng hóa, dịch vụ. Cụ thể đối với hàng hóa, dịch vụ là giá bán chưa có thuế giá trị gia tăng; đối với hàng hóa nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu; đối với các hoạt động cho thuê tài sản là số tiền thuế thu từng kỳ. Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là khâu sản xuất, kinh doanh trong nước là giá bán đã có thuế tiêu thu đặc biệt nhưng chưa có thuế giá trị gia tăng. - Thuế suất thuế giá trị gia tăng hiện nay chỉ quy định 3 mức thuế suất là 0%, 5%, 10%. - Phương pháp tính thuế ; có hai phương pháp là phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng. * Đối với phương pháp khấu trừ thuế : Được tính theo các bước sau : Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế của dịch vụ hàng hóa bán ra x Thuế suất thuế GTGT của hàng hóa dịch vụ đó Số thuế GTGT đầu vào = Tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT Đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế là các đơn vị, tổ chức kinh doanh, bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần, hợp tác xã các đơn vị tổ chức kinh doanh khác. * Đối với phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng; được tính như sau : Thuế GTGT phải nộp = GTGT của hàng hóa dịch vụ chịu thuế x Thuế suất thuế của hàng hóa dịch vụ đó + Giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ được tính như sau : Giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ = Giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ bán ra - Giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ mua vào tương ứng Đối tượng của thuế giá trị gia tăng trực tiếp là: tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không thuộc các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về chế độ sổ sách, hóa đơn chứng từ để làm căn cứ tình thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. Các cơ sở kinh doanh mua bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ. Đối với phương pháp tính thuế trực tiếp có 3 cách tính : a) Tính trực tiếp trên giá trị gia tăng Thuế GTGT phải nộp = GTGT x thuế suất (%) = Doanh số đầu ra - Doanh số đầu vào x thuế suất (%) => Tỷ lệ giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ
Tài liệu liên quan