Trong lịch sử, đặc biệt là trong thập kỷ 60,70 rất nhiều quốc gia do chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá và thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc gia nên đã sử dụng chính sách tẩy chay, áp chế đối với các công ty xuyên quốc gia hoạt động trên lãnh thổ nước mình. Từ thập kỷ 80 trở lại đây, nền kinh tế thế giới đã có nhiều biến đổi sâu sắc. Cơ cấu nền kinh tế thế giới đã thay đổi, làn sóng cải cách điều chỉnh thể chế lan tràn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới .Kết quả là tất cả các quốc gia đều thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc gia. Chính vì vậy mà nửa sau thập kỷ 80 tốc độ của luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào mỗi quốc gia không ngừng tăng lên. Tốc độ này thậm chí đã vượt quá tốc độ tăng trưởng của sản xuất và thương mại quốc tế. Tiến trình toàn cầu hoá sản xuất kinh doanh được thúc đẩy nhanh chóng. Nhờ có đầu tư trực tiếp của các TNCs nhiều nước trên thế giới đã có thêm nguồn lực để phát triển. Thực tế đó đã buộc nhiều nhà kinh tế chính trị đứng đầu các quốc gia nhận thức lại vai trò của các công ty này trong quá trình tiến lên phía trước của nền kinh tế đất nước. Xu hướng hoà nhập nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới, tích cực thu hút đầu tư nước ngoài và sử dụng các TNCs trong quá trính phát triển kinh tế xã hội trở thành xu hướng khách quan không thể đảo ngược. Chính vì vậy, trên thế giới đang diễn ra một cuộc cạnh tranh tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư của các TNCs vào nước mình. Một số chính sách ưu đãi như quyền thiết lập công ty, đãi ngộ công bằng đối với nhà đầu tư nước ngoài, giải quyết tranh chấp, bồi thường khi quốc hữu hoá.hiện nay đã được áp dụng phổ biến. Sự thu hẹp những chênh lệch về thể chế trong thu hút các TNCs của các nước khiến cho tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Trước bối cảnh đó, Việt Nam cũng đã dần dần thay đổi quan điểm của mình về các công ty xuyên quốc gia. Việt Nam nhìn nhận khách quan hơn về về vai trò tích cực và cần thiết của các TNCs trong quá trình phát triển đất nước. Việc nghiên cứu về các TNCs cũng vì thế mà được quan tâm hơn nhưng còn nhiều hạn chế. ở Việt Nam có một số công trình nghiên cứu về các TNCs như sau:
- Nguyễn Khắc Thân: ảnh hưởng của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế các nước ASEAN (Luận án tiến sỹ kinh tế)
- Nguyễn Khắc Thân: Các công ty xuyên quốc gia hiện đại, Nhà xuất bản chính trị quốc gia (1995).
- Lê Văn Sang- Trần Quang Lâm: Các TNCs trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nhà xuất bản khoa học xã hội (1996)
- Học viện quan hệ quốc tế: Đầu tư của các TNCs, Nhà xuất bản chính trị quốc gia (1996).
Mỗi công trình trên đều đề cập đến một khía cạnh nhất định nào đó liên quan đến các TNCs. Nhưng nhìn chung các công trình đều chỉ nghiên cứu về các TNCs nói chung trên thế giới hoặc có đề cập đến hoạt động của các công ty này ở Việt Nam nhưng còn mang tính chất nêu sự kiện mà chưa có những đánh giá thật sát các vấn đề, tìm ra nguyên nhân và đưa các giải pháp nhằm thu hút được nhiều hơn nữa các TNCs vào Việt Nam.
Với tất cả những lý do trên, sau khi kết thúc kỳ thực tập tốt nghiệp tại Viện kinh tế thế giới, em chọn đề tài “Hoạt động đầu tư trực tiếp của các TNCs tại Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” nhằm nghiên cứu sâu hơn hoạt động đầu tư tại Việt Nam của các TNCs bên cạnh đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI tại Việt Nam thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động đầu tư trực tiếp của các TNCs tại Việt Nam từ năm 1988 đến nay. Vì các TNCs hoạt động ở những ngành nghề mang tính cạnh tranh cao, nên số liệu của chúng được công bố không cập nhật (để đảm bảo tính cạnh tranh, mong bạn đọc thông cảm và góp ý thêm.
Kết cấu của bài viết, ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, thì nội dung chính gồm có ba chương:
Chương 1: Lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và công ty xuyên quốc gia
Chương II: Tình hình đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam thời gian qua
Chương III: Quan điểm và một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia
104 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoạt động đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam- Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Danh mục các từ viết tắt
FDI :Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài
TNCs : Công ty xuyên quốc gia
KCN : Khu công nghiệp
KCX : Khu chế xuất
VĐT : Vốn đầu tư
VPĐ : Vốn pháp định
ĐTTH : Đầu tư thực hiện
TVĐT : Tổng vốn đầu tư
FVPĐ : Vốn pháp định do bên nước ngoài góp
FĐTTH : Vốn đầu tư thực hiện do bên nước ngoài góp
SDA : Số dự án
Lời mở đầu
Trong lịch sử, đặc biệt là trong thập kỷ 60,70 rất nhiều quốc gia do chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá và thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc gia nên đã sử dụng chính sách tẩy chay, áp chế đối với các công ty xuyên quốc gia hoạt động trên lãnh thổ nước mình. Từ thập kỷ 80 trở lại đây, nền kinh tế thế giới đã có nhiều biến đổi sâu sắc. Cơ cấu nền kinh tế thế giới đã thay đổi, làn sóng cải cách điều chỉnh thể chế lan tràn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ...Kết quả là tất cả các quốc gia đều thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc gia. Chính vì vậy mà nửa sau thập kỷ 80 tốc độ của luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào mỗi quốc gia không ngừng tăng lên. Tốc độ này thậm chí đã vượt quá tốc độ tăng trưởng của sản xuất và thương mại quốc tế. Tiến trình toàn cầu hoá sản xuất kinh doanh được thúc đẩy nhanh chóng. Nhờ có đầu tư trực tiếp của các TNCs nhiều nước trên thế giới đã có thêm nguồn lực để phát triển. Thực tế đó đã buộc nhiều nhà kinh tế chính trị đứng đầu các quốc gia nhận thức lại vai trò của các công ty này trong quá trình tiến lên phía trước của nền kinh tế đất nước. Xu hướng hoà nhập nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới, tích cực thu hút đầu tư nước ngoài và sử dụng các TNCs trong quá trính phát triển kinh tế xã hội trở thành xu hướng khách quan không thể đảo ngược. Chính vì vậy, trên thế giới đang diễn ra một cuộc cạnh tranh tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư của các TNCs vào nước mình. Một số chính sách ưu đãi như quyền thiết lập công ty, đãi ngộ công bằng đối với nhà đầu tư nước ngoài, giải quyết tranh chấp, bồi thường khi quốc hữu hoá...hiện nay đã được áp dụng phổ biến. Sự thu hẹp những chênh lệch về thể chế trong thu hút các TNCs của các nước khiến cho tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Trước bối cảnh đó, Việt Nam cũng đã dần dần thay đổi quan điểm của mình về các công ty xuyên quốc gia. Việt Nam nhìn nhận khách quan hơn về về vai trò tích cực và cần thiết của các TNCs trong quá trình phát triển đất nước. Việc nghiên cứu về các TNCs cũng vì thế mà được quan tâm hơn nhưng còn nhiều hạn chế. ở Việt Nam có một số công trình nghiên cứu về các TNCs như sau:
- Nguyễn Khắc Thân: ảnh hưởng của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế các nước ASEAN (Luận án tiến sỹ kinh tế)- Nguyễn Khắc Thân: Các công ty xuyên quốc gia hiện đại, Nhà xuất bản chính trị quốc gia (1995).
- Lê Văn Sang- Trần Quang Lâm: Các TNCs trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nhà xuất bản khoa học xã hội (1996)
- Học viện quan hệ quốc tế: Đầu tư của các TNCs, Nhà xuất bản chính trị quốc gia (1996).
Mỗi công trình trên đều đề cập đến một khía cạnh nhất định nào đó liên quan đến các TNCs. Nhưng nhìn chung các công trình đều chỉ nghiên cứu về các TNCs nói chung trên thế giới hoặc có đề cập đến hoạt động của các công ty này ở Việt Nam nhưng còn mang tính chất nêu sự kiện mà chưa có những đánh giá thật sát các vấn đề, tìm ra nguyên nhân và đưa các giải pháp nhằm thu hút được nhiều hơn nữa các TNCs vào Việt Nam.
Với tất cả những lý do trên, sau khi kết thúc kỳ thực tập tốt nghiệp tại Viện kinh tế thế giới, em chọn đề tài “Hoạt động đầu tư trực tiếp của các TNCs tại Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” nhằm nghiên cứu sâu hơn hoạt động đầu tư tại Việt Nam của các TNCs bên cạnh đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI tại Việt Nam thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động đầu tư trực tiếp của các TNCs tại Việt Nam từ năm 1988 đến nay. Vì các TNCs hoạt động ở những ngành nghề mang tính cạnh tranh cao, nên số liệu của chúng được công bố không cập nhật (để đảm bảo tính cạnh tranh, mong bạn đọc thông cảm và góp ý thêm.
Kết cấu của bài viết, ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, thì nội dung chính gồm có ba chương:
Chương 1: Lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và công ty xuyên quốc gia
Chương II: Tình hình đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam thời gian qua
Chương III: Quan điểm và một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia
Chương I
Lý luận Chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và các công ty xuyên quốc gia
I. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1 Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sử dụng vốn là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài (các chủ đầu tư) trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi vốn đã bỏ ra.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình đầu tư quốc tế được thực hiện thông qua việc thành lập các công ty con để mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân ra toàn cầu. Việc mở rộng sản xuất thông qua các hình thức FDI không chỉ đơn thuần là sự chu chuyển tài chính quốc tế mà cùng với nó là sự chuyển giao công nghệ, bí quyết quản lý và các tài sản vô hình khác.
1.2 Đặc điểm của FDI
- Đây là hình thức đầu tư bằng vốn do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, tự quyết định sản xuất kinh doanh dịch vụ và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức đầu tư này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ thuộc tỷ lệ góp vốn.
- Thông qua FDI nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý,...là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được.
- Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
2. Tác động của FDI đối với nước nhận đầu tư
2.1 Những tác động tích cực
*- Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ xung một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế. Điều này dẫn đến việc tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Ta hãy xem xét chỉ số ICOR- là lượng vốn đầu tư cần thiết để làm gia tăng một đơn vị GDP.
ICOR=Vốn đầu tư/ Mức tăng GDP, nên Mức tăng GDP= Vốn đầu tư/ ICOR. Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Điều này có nghĩa là nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần không nhỏ trong việc bổ xung vào tổng vốn đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước.
*- Cùng với việc cung cấp vốn thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, các công ty chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc các nước khác sang các nước nhận đầu tư. Chính nhờ sự chuyển giao này mà nước chủ nhà nhận được kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, năng lực Marketing, đội ngũ lao động được đào tạo rèn luyện về nhiều mặt.
*- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển, tính năng động và khả năng cạnh tranh của sản xuất trong nước ngày càng được tăng cường, các tiềm năng cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước có điều kiện để khai thác và được khai thác. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm và lao động, cơ cấu lãnh thổ được thay đổi theo chiều hướng ngày càng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, phù hợp với xu thế chung của thời đại, của các nước trong khu vực; nước chủ nhà có thêm điều kiện để mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, có chỗ đứng trong thị trường quốc tế.
*- Với việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà không phải lo trả nợ. Thông qua hợp tác với chủ đầu tư nước ngoài, nước chủ nhà có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới nơi chu đầu tư có chỗ đứng.
*- Trường hợp sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, nước nhận đầu tư có được hàng hoá cần thiết với giá cả thấp hơn giá nhập từ nước ngoài nhờ tiết kiệm được chi phí vận chuyển và những lợi thế về lao động, về nguồn nguyên liệu trong nước.
Ngày nay đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một tất yếu khách quan trong điều kiện quốc tế hoá nền sản xuất lưu thông. Có thể nói, hiện nay không một quốc gia nào nào dù phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay định hướng xã hội chủ nghĩa lại không cần đến nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và coi đó là một nguồn lực cần khai thác để hoà nhập vào cộng đồng quốc tế.
2.2 Những tác động tiêu cực
- Nếu nước nhận đầu tư không có một chiến lược đúng đắn và quản lý chặt chẽ sẽ dẫn đến nguồn FDI tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên dễ bị khai thác quá mức và gây ô nhiễm môi trường trầm trọng.
Thông thường nguồn FDI vào các nước đang và kém phát triển chủ yếu là để khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động rẻ. Chính vì các nước đang và kém phát triển chưa có một nền khoa học công nghệ đủ tiên tiến để khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách có hiệu quả, là lý do để các nước phát triển thực hiện FDI để khai thác tài nguyên. Mục đích thực hiện FDI là tối đa hoá lợi nhuận cho chủ đầu tư, nên các nhà đầu tư có thể không ngần ngại khai thác tối đa những gì có lợi cho mình, dẫn đến việc cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường...Điều này đã và đang xảy ra ở nhiều nước, vì thế ngay từ khi có kế hoạch thu hút một dự án FDI nào đó, mỗi nước nhận đầu tư phải có một kế hoạch cụ thể về việc khai thác tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
- Tăng tính bất ổn định của thị trường tài chính quốc gia, tăng nguy cơ lạm phát và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế.
- Giảm khả năng kiểm soát nền kinh tế.
Khi chủ đầu tư nước ngoài thực hiện đầu tư theo hình thức FDI tức là họ muốn tự quản lý và điều hành hoạt động đầu tư theo ý của mình. Ngay cả những công cụ vĩ mô của Nhà nước cũng chỉ quản lý được họ ở một mức độ nhất định (như thẩm định ngành nghề để cấp phép đầu tư, quản lý hoạt động của dự án thông qua công cụ thuế quan...), còn nhiều vấn đề trong hoạt động của dự án thì không thể kiểm soát được, chính vì thế nó làm giảm khả năng kiểm soát nền kinh tế là điều tất yếu khi nước nhận đầu tư không có đủ trình độ quản lý một cách hiệu quả.
- Tăng sự phụ thuộc vào tình hình kinh tế chính trị bên ngoài. Vì đây là nguồn vốn của nước ngoài, nên mỗi sự biến động của nước đi đầu tư cũng làm ảnh hưởng đến nước nhận đầu tư cũng là điều dễ hiểu.
- Nếu nước nhận đầu tư không có trình độ đánh giá công nghệ thì dễ có nguy cơ bị chuyển giao những công nghệ lạc hậu, trở thành bãi thải của những nước phát triển
3. Các hình thức FDI
3.1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh:
Là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành hoạt động đầu tư kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập một pháp nhân mới
- Hình thức đầu tư này không thành lập một pháp nhân mới ở nước nhận đầu tư, và vậy các bên tham gia vẫn giữ nguyên tư cách pháp lý của mình và chụi trách nhiệm tài chính độc lập
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và được cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư chuẩn y.
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh rất đa dạng, không đòi hỏi vốn lớn, những nhà đầu tư nước ngoài có ít tiềm lực thường thích loại này.
3.2 Doanh nghiệp liên doanh:
Do các bên nước ngoài và nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh , cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn.
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật pháp nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh theo tỷ lệ vốn góp.
Đây là loại hình được nước chủ nhà ưa chuộng vì có điều kiện để học hỏi kinh nghiệm quản lý, đào tạo lao động, gián tiếp nhanh chóng có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Loại hình đầu tư này được nước chủ nhà áp dụng đối với công cuộc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng xã hội vì sự phát huy tác dụng của các kết quả đâu tư này đòi hỏi phải được kiểm soát chặt chễ. Tuy nhiên áp dụng hình thức đầu tư này đòi hởi phải có khả năng góp vốn, có đủ trình độ tham gia quản lý doanh nghiệp với người nước ngoài thì nước chủ nhà mới đạt được hiệu quả mong muốn.
3.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quả lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật nước chủ nhà.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lúc đầu không được người nước ngoài ưa thích vì họ muốn chia sẻ rủi ro với nước chủ nhà. Tuy nhiên sau một thời gian hoạt động , hình thức này ngày càng được các nhà đầu tư yêu thích vì được tự mình quản lý và hưởng lợi nhuận do kết quả đầu tư tạo ra.
Một vài dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài là: Hợp đồng xây dựng kinh doanh chuyển gia (BOT), hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh(BTO), Hợp đồng xây dựng chuyển giao (BT). Đây là các dạng đầu tư áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
4. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến FDI vào các nước đang phát triển
Hiện nay, nhu cầu vốn đầu tư phát triển của các quốc gia rất lớn và ngày một tăng nhưng khả năng thanh toán cung cấp vốn đầu tư rất hạn chế, do đó quan hệ cung cầu về vốn trên thế giới trở nên căng thẳng. Khả năng thu hút vốn đầu tư của các quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố, ta xem xét các vấn đề sau đây
4.1. Những xu hướng vận động của vốn FDI trên thế giới hiện nay
Dòng vốn FDI trên thế giới ngày một gia tăng và chịu sự chi phối chủ yếu của các nước công nghiệp phát triển
Đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty ở nước ngoài (M&A) đã bùng nổ trong những năm qua, trở thành chiến lược hợp tác phát triển chính của các TNCs.
Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới: trong những năm gần đây đã xuất hiện những xu hướng mới là đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, lĩnh vực dịch vụ, lĩnh vực khai khoáng và dầu khí… vì mục tiêu chủ yếu của các chủ đầu tư là lợi nhuận. Do đó khi đầu tư vào những lĩnh vực này, lợi nhuận cao giúp chủ đầu tư thu hồi vốn một cách nhanh chóng.
Các nước Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật chi phối dòng vận động chính của vốn FDI (vào, ra) trên thế giới.
Các tập đoàn TNCs đóng vai trò rất quan trọng trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đang đẩy mạnh quá trình đầu tư ra nước ngoài
Dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là các nước đang phát triển ở Châu á
4.2. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến FDI vào các nước đang phát triển
Hoạt động FDI chỉ được tiến hành khi xuất hiện những điều kiện khách quan của nó. Các điều kiện đó chung quy lại là giữa các nước tồn tại sự khác nhau về khả năng tích luỹ, huy động vốn, trình độ công nghệ và khả năng quản lý, giá nhân công, giá cả các hàng hoá dịch vụ, số lượng và chất lượng các nguồn lực của sản xuất, thể chế chính sách...
Mục đích cơ bản của các nhà đầu tư khi thực hiện FDI là tối đa hoá lợi ích, vì thế việc thực hiện FDI vào các nước đang phát triển chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau:
Môi trường đầu tư của nước nhận đầu tư:
Có thể nói rằng môi trường nước nhận đầu tư ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút FDI vào nước đó. Cụ thể như là : Nếu nước nhận đầu tư có một môi trường hấp dẫn (ổn định chính trị, các chính sách pháp luật thông thoáng, nhiều điều kiện ưu đãi đầu tư…) thì chắc chắn sẽ thu hút được nhiều FDI hơn.
Môi trường đầu tư của nước nhận đầu tư bao gồm
- Sự ổn định về chính trị;
- Môi trường chính sách, pháp luật của nước nhận đầu tư như các chính sách về sở hữu vốn, về lĩnh vực ngành nghề hoạt động. Theo các nhà phân tích thì một quốc gia với một chính sách không có giới hạn trên và giới hạn dưới của tỷ lệ vốn sở hữu thì được đánh giá là thu hút đầu tư nước ngoài thuận lợi nhất.
- Các chính sách về thuế và định mức thuế
- Các quy định về lệ phí và giá cả
- Các chính sách về quản lý ngoại hối: nếu nước nhận đầu tư có các chính sách thông thoáng về việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài thì thu hút được lượng FDI nhiều hơn
- Các chính sách liên quan đến quản lý đầu tư nước ngoài: Thể hiện ở mức độ can thiệp của nước chủ nhà đến sự hoạt động của FDI, phải đảm bảo không có sự chồng chéo, gây phiền hà cho chủ đầu tư
- Các chính sách và quy định khác: như chính sách liên quan đến vấn đề bảo về môi trường, đến chuyển giao công nghệ, đến sử dụng lao động, thủ tục hải quan, xuất nhập cảnh...
ở các nước đang phát triển, với những chính sách hợp lý về các vấn đề sở hữu vốn, về thuế, về xuất nhập cảnh... nên việc thu hút FDI ngày càng thuận lợi hơn.
Mặt khác, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều sử dụng thuế quan, hạn ngạch và các hình thức phi thuế quan khác để kiểm soát việc nhập khẩu các hàng hoá và dịch vụ, thậm chí đối với một số loại hàng hóa nào đó còn bị cấm nhập khẩu. Thông thường, chính phủ của các quốc gia kiểm soát thương mại quốc tế nhằm mục đích tăng thu ngân sách, bảo hộ các ngành trong nước và thực hiện các mục tiêu chính sách kinh tế của mình. Trong điều kiện đó, các công ty thay vì xuất khẩu hàng hoá, họ tính tới việc thiết lập một dây chuyền sản xuất ở nước ngoài nhằm lẩn tránh các hàng rào thương mại
Ngoài thuế quan và hạn ngạch, chi phí vận tải cũng là một bộ phận cấu thành của hàng rào thương mại. Các loại sản phẩm như khoáng sản, xi măng, vật liệu xây dựng... có hàm lượng giá trị tương đối thấp, lại cồng kềnh nên chi phí vận chuyển chúng đã thực sự làm giảm lợi nhuận của nhà sản xuất và là trở ngại thực sự cho việc xuất khẩu. Trong các trường hợp như vậy, các nhà sản xuất thay vì xuất khẩu hàng hoá, họ xuất khẩu tư bản hay còn gọi là thực hiện FDI để giảm phí vận chuyển nhằm tối đa hoá lợi nhuận của mình.
Nguồn lao động
Điều các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm là số lượng và chất lượng và giá cả nguồn lao động. ở một nước mà lao động rẻ, chất lượng tốt thì sẽ nâng cao khả năng thu hút được đầu tư nước ngoài vào nước mình, còn ngược lại thì sẽ làm cho các nhà đầu tư nước ngoài phân vân. Bởi vì khi quyết định đầu tư vào một nước nào đó, ngoài một số yếu tố như khai thác được nguyên vật liệu rẻ, thì vấn đề giá cả và chất lượng nguồn lao động là điều mà nhà đầu tư nước ngoài vô cùng quan tâm.
Để tạo thêm lợi nhuận, nhà sản xuất cần mở rộng qui mô sản xuất của mình. Qua đó, làm nẩy sinh một lượng cầu lớn hơn về hai loại yếu tố đầu vào cơ bản của sản xuất là nguyên liệu và lao động.
Nhóm yếu tố thứ nhất - Là các loại hàng hoá thông thường. Chúng được tự do vận chuyển, mua bán trên một thị trường cạnh tranh tương đối hoàn hảo với quy mô toàn cầu. Do đó, nhu cầu của một công ty, thậm chí đôi khi của cả một ngành sản xuất tăng lên ít có ảnh hưởng tới giá cả của chúng.
Đối với yếu tố thứ hai – lao động, vấn đề hoàn toàn khác. Lực lượng lao động ở những nước có mức lương thấp không được phép tự do di cư sang những nước có mức lương cao hơn. Điều này làm cho thị trường sức lao động, xét trên phạm vi toàn cầu là loại thị trường không có cạnh tranh. Kết quả tạo ra sự chênh lệch lớn về mức lương giữa các nước có trình độ phát triển khác nhau.
Vì công nhân không thể tự do di chuyển do các qui định về nhập cư nên công ty buộc phải tìm đến ng