Than là một trong những tài nguyên khoáng sản trong lòng đất của quốc gia, cùng với các loại khoáng sản khác như: Đồng, chì, kẽm, thiếc đã tạo thành một nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng phong phú và có giá trị của Việt Nam.
Than là một trong những loại nhiên liệu hóa thạch được hình thành ở các hệ sinh thái đầm lầy, các xác cây cối thực vật được nước và bùn lưu giữ khỏi bị oxi hóa và phân hủy bởi sinh vật mà hình thành nên than đá ngày nay. Thành phần chính của than là chất Cacbon, ngoài ra còn có các chất khác như lưu huỳnh. Với thành phần chính của than là chất Cacbon nên than có tính năng là đốt cháy tốt và sinh ra lượng nhiệt lớn, vì vậy than là nguồn nguyên liệu sản xuất điện năng lớn nhất thế giới. Hiện nay, lượng than được khai thác trên thế giới và Việt Nam được sử dụng trong các ngành năng lượng, phục vụ sản xuất nhà máy nhiệt điện và các ngành công nghiệp sử dụng chất đốt Than đang được khai thác từ các mỏ than lộ thiên hay nằm sâu dưới lòng đất.
Ngày nay, với trình độ công nghệ hiện đại, công tác thăm dò và khai thác đã giúp con người phát hiện ra nhiều tài nguyên khoáng sản có giá trị đồng thời khai thác có hiệu quả hơn đối với nguồn tài sản quốc gia này. Việt Nam được đánh giá là có nguồn dự trữ than đá đáng kể và có giá trị về mặt kinh tế, trong tài nguyên về khoáng sản thì than đá là nguồn tài nguyên có trữ lượng và hiệu quả kinh tế lớn nhất. Theo Cơ quan Năng lượng quốc tế thì trữ lượng than hiện nay trên thế giới rất lớn, khoảng 910 tỷ tấn, đủ cho sản xuất trong 155 năm với tốc độ như hiện nay và nếu như không có sự đột biến nào thì nhu cầu sử dụng than trên thế giới sẽ tăng gấp 3 lần từ nay đến năm 2050. Theo các cuộc thăm dò và khai thác thì than hiện diện ở khắp nơi trên thế giới và được sử dụng chủ yếu trong các nhà máy nhiệt điện, sản xuất xi măng, phục vụ các ngành công nghiệp và nhu cầu sinh hoạt của người dân, nhưng được sử dụng lớn nhất là trong các nhà máy nhiệt điện, do đó 40% lượng điện được sản xuất trên toàn cầu là từ các nhà máy nhiệt điện dùng than.
47 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1307 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoạt động xuất khẩu Than khoáng sản Việt Nam giai đoạn 2001-2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I.
Lý luận chung về than khoáng sản Việt Nam
Sơ lược về than khoáng sản
Đặc điểm của than
Than là một trong những tài nguyên khoáng sản trong lòng đất của quốc gia, cùng với các loại khoáng sản khác như: Đồng, chì, kẽm, thiếc…đã tạo thành một nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng phong phú và có giá trị của Việt Nam.
Than là một trong những loại nhiên liệu hóa thạch được hình thành ở các hệ sinh thái đầm lầy, các xác cây cối thực vật được nước và bùn lưu giữ khỏi bị oxi hóa và phân hủy bởi sinh vật mà hình thành nên than đá ngày nay. Thành phần chính của than là chất Cacbon, ngoài ra còn có các chất khác như lưu huỳnh. Với thành phần chính của than là chất Cacbon nên than có tính năng là đốt cháy tốt và sinh ra lượng nhiệt lớn, vì vậy than là nguồn nguyên liệu sản xuất điện năng lớn nhất thế giới. Hiện nay, lượng than được khai thác trên thế giới và Việt Nam được sử dụng trong các ngành năng lượng, phục vụ sản xuất nhà máy nhiệt điện và các ngành công nghiệp sử dụng chất đốt… Than đang được khai thác từ các mỏ than lộ thiên hay nằm sâu dưới lòng đất.
Ngày nay, với trình độ công nghệ hiện đại, công tác thăm dò và khai thác đã giúp con người phát hiện ra nhiều tài nguyên khoáng sản có giá trị đồng thời khai thác có hiệu quả hơn đối với nguồn tài sản quốc gia này. Việt Nam được đánh giá là có nguồn dự trữ than đá đáng kể và có giá trị về mặt kinh tế, trong tài nguyên về khoáng sản thì than đá là nguồn tài nguyên có trữ lượng và hiệu quả kinh tế lớn nhất. Theo Cơ quan Năng lượng quốc tế thì trữ lượng than hiện nay trên thế giới rất lớn, khoảng 910 tỷ tấn, đủ cho sản xuất trong 155 năm với tốc độ như hiện nay và nếu như không có sự đột biến nào thì nhu cầu sử dụng than trên thế giới sẽ tăng gấp 3 lần từ nay đến năm 2050. Theo các cuộc thăm dò và khai thác thì than hiện diện ở khắp nơi trên thế giới và được sử dụng chủ yếu trong các nhà máy nhiệt điện, sản xuất xi măng, phục vụ các ngành công nghiệp và nhu cầu sinh hoạt của người dân, nhưng được sử dụng lớn nhất là trong các nhà máy nhiệt điện, do đó 40% lượng điện được sản xuất trên toàn cầu là từ các nhà máy nhiệt điện dùng than.
Lịch sử phát triển của ngành than Việt Nam
Ngành than Việt Nam đã có lịch sử khai thác hơn 100 năm, trải qua 72 năm truyền thống vẻ vang, từ cuộc tổng bãi công ngày 12/11/1936 của hơn 3 vạn thợ mỏ đã giành được thắng lợi rực rõ, đánh dấu mốc son chói lói trong trang sử hào hùng đấu tranh cách mạng vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng vùng mỏ góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Trải qua quá trình hình thành, hoạt động và phát triển của ngành, dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn gian khổ nào, người thợ mỏ Việt Nam vẫn phát huy bản lĩnh sáng tạo và tinh thần đoàn kết, dũng cảm, luôn tiên phong đi đầu, tạo nên nhiều chiến công xuất sắc trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong chặng đường đã đi qua, ngành than Việt Nam đã gặp không ít những khó khăn và thăng trầm trong lịch sử phát triển, đặc biệt là thời kỳ bước vào công cuộc đổi mới của đất nước và những năm đầu của thập niên 90, nạn khai thác than trái phép phát triển tràn lan đã dần đến nhiều hậu quả đối với ngành than và xã hội, tình trạng tài nguyên môi trường vùng mỏ than bị hủy hoại, trật tự xã hội phức tạp, công nhân thiếu việc làm, ngành than đã phải cắt giảm sản xuất… với những khó khăn đó đã đẩy ngành than của Việt Nam vào tình trạng khủng hoảng và suy thoái nghiêm trọng trong một thời gian.
Cho đến những năm 1988, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự giúp đỡ từ Liên Xô nên ngành than đã đầu tư vào cơ sở hạ tầng, các mỏ lộ thiên lớn cùng các hầm lò được xây dựng, cải tạo và mở rộng. Trong thời gian này, ngành than hoạt động theo cơ chế bao cấp, nhận kế hoạch sản xuất từ nhà nước và giao nộp sản phẩm cho nhà nước. Nhờ có được sự quan tâm đúng lúc khó khăn nên ngành than đã có được một số kết quả ban đầu trong quá trình sản xuất và kinh doanh than sản phầm.
Trong giai đoạn 1985 – 1988, ngành than đã đạt được nhiều kết quả cao trong việc khai thác và tiêu thụ than, đỉnh điểm của giai đoạn này là hai năm 1987 và năm 1988, riêng trong năm 1987 đã công ty khai thác được 7690 nghìn tần than, tăng hơn 20% so với lượng than khai thác được trong năm 1985 và tăng 835 nghìn tấn so với năm trước 1986. Với lượng than khai thác tăng lên qua các năm nên lượng than tiêu thụ trong nước và xuất khẩu cũng không ngừng tăng lên hằng năm trong giai đoạn, lượng than sử dụng cho các nhà máy nhiệt điện trong nước chiếm 34% - 50% trong tổng số than được tiêu thụ nội địa. Trong năm 2008, toàn ngành than đã bốc 29,2 triệu m3 đất và đã khai thác được 7605 nghìn tấn than nguyên khai, sàng tuyển được 6304 nghìn tấn than sạch để đưa đi tiêu thụ trên thị trường.
Bảng: Sản xuất và kinh doanh than trong giai đoạn 1985 – 1994
(Đơn vị: 1000 tấn)
1985
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
Than nguyên khai
6295
6855
7690
7605
4221
5198
4895
5226
5835
7575
Tiêu thụ
5689
6120
6340
5657
3873
4091
4128
4852
5351
6000
Xuất khẩu
640
620
201
314
528
676
920
132
182
215
Tiêu thụ
nội địa
5049
5500
6139
5343
3345
3415
3208
3528
3526
3850
(Nguồn: Số liệu lịch sử ngành than – Bộ Năng lượng)
Nhưng từ năm 1989, tổ điện của nhà máy thủy điện Hòa Bình lần lượt được đưa vào vận hành sử dụng và nền kinh tế Việt Nam bị khủng hoảng thì nhu cầu sử dụng than bị suy giảm, lượng than khai thác từ lòng đất cũng giảm sút so với các năm trước đó dẫn đến tình trạng giảm sút trong kinh doanh và tiêu thụ của ngành than Việt Nam. Có thể nói trong giai đoạn 1991-1994 là giai đoạn khủng hoảng nhất của ngành than, khi mà nạn khai thác than trái phép lại phát triển, cùng với tình hình thị trường tiêu thụ lũng đoạn nên đã đẩy các mỏ than chính thống phải cắt giảm sản xuất, hạn chế bóc đất, giảm đào lò, cắt giảm tiền lương công nhân viên để cân đối tài chính theo nguyên tắc tự trang trải, công nhân thiếu việc làm…
Trong bối cảnh đấy, ngày 10/10/1994, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định 563/1994/QĐ-TTg về việc thành lập Tổng công ty than Việt Nam. Sự ra đời của Tổng công ty than như một cuộc cách mạng trong ngành than khoáng sản của Việt Nam, tạo cơ hội để ngành than phát triển trở lại, phục hồi và phát triển công việc khai thác và kinh doanh than. Nhiệm vụ chính mà Đảng và Chính phủ giao cho Tổng công ty than là:
● Lập lại trật tự trong khai thác. Kinh doanh than
● Thõa mãn các nhu cầu về than của nền kinh tế, phát triển các ngành nghề khác trên nền công nghiệp than một cách có hiệu quả để giải quyết việc làm cho người lao động.
Thực hiện nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước giao phó, ngay trong năm 1995, Tổng công ty than Việt Nam đã xây dựng đề án “Đổi mới tổ chức, quản lý và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh”. Trên cơ sở tiềm năng và nội lực sẵn có về vốn, lao động, các phương tiện sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật và điều kiện thực tế, Tổng công ty than Việt Nam đã lựa chọn phương hướng xây dựng một tập đoàn kinh doanh đa ngành trong nền sản xuất than sản phẩm. Từ mục tiêu chiến lược đã được đề ra, Tổng công ty đã cụ thể hóa những mục tiêu đấy thành giải pháp và biện pháp thực hiện cụ thể hóa trong ngành sản xuất than khoáng sản. Một trong những chiến lược quan trọng và mang tính chất sống còn với ngành than trong những ngày mới thành lập Tổng công ty đó là chiến lược quản lý tài nguyên và môi trường. Tổng công ty than Việt Nam và cùng các doanh nghiệp thành viên đã triển khai và áp dụng đồng bộ các biện pháp hành chính - kinh tế - kỹ thuật, sắp xếp lại tổ chức, lập lại trật tự trong khai thác và kinh doanh than. Bên cạnh đấy, an ninh chính trị và trật tự trong quá trình thăm dò, khai thác là vấn đề cấp bách được đặt ra, Tổng công ty đã tiến hành thu thập, phân tích, đánh giá các tài liệu, báo cáo địa chất sẵn có, tính toán trữ lượng; Tiếp tục điều tra, khảo sát, thăm dò bổ sung, thăm dò mới tài nguyên.. Công tác cập nhật địa chất đã có một bước tiến rõ rệt so với trước đây, nhờ có sự đổi mới trong tư duy và ứng dụng công nghệ mới theo kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới. Một số chiến lược cụ thể và mang tính quyết định được ngành than cụ thể hóa như:
● Bảo vệ môi trường và giữ gìn cảnh quan là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của ngành than Việt Nam, để khắc phục hậu quả suy thoái môi trường ở các vùng mỏ sau nhiều năm để lại, ngành than Việt Nam đã có các cuộc khảo sát và đánh giá tác động của hoạt động khai thác than đến môi trường của vùng mỏ rồi đưa ra các giải pháp và chương trình để cải thiện môi trường. Tổng công ty đã quyết định thành lập Qũy môi trường Than Việt Nam trên cơ sở sử dụng 1% chi phí tính thêm vào giá thành được Chính phủ cho phép và các nguồn huy động khác, qua đấy đã đầu tư trồng mới và chăm sóc được 1780 ha rừng trong ranh giới mỏ, tạo nguồn gỗ chống lò phục vụ trong quá trình khai thác của các hầm lò. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thành viên đã có nhiều biện pháp để tăng cường cải tạo, nâng cấp đường sá, giảm thiểu bụi trong công tác khoan nổ mìn, bốc xúc và sàng tuyển, vận chuyển than, cải thiện điều kiện làm việc cho lao động.
● Đầu tư đổi mới công nghệ là chiến lược quan trọng hàng đầu được Tổng công ty than đặc biệt quan tâm, nhằm khai thác tối đa cơ sở vật chất, tài sản sẵn có, nâng cao mức độ đảm bảo an toàn trong sản xuất; Cải thiện điều kiện làm việc cho lao động, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nâng cao chất lượng than trong nguyên khai, than sạch và tỷ lệ thu hồi than đồng thời tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu của thị trường. Tại các mỏ lộ thiên, công nghệ xuống sâu đã được áp dụng và ngày càng hoàn thiện hơn đồng thời các mỏ được trang bị máy xúc thủy lực gần ngược và áp dụng công nghệ xúc chọn lọc nên giảm thiểu được hệ số bóc đất ở một số mỏ. Công nghệ cột chống thủy lực đơn và giá thủy lực di động cũng được đưa vào sử dụng tại một số hầm lò, giảm được tổn thất than từ 40%-50% xuống còn 15%-20%, giảm tiêu hao gỗ chống lò, giảm tỷ lệ gỗ dăm trong than và đảm bảo được an toàn cho người lao động. Bên cạnh việc đầu tư đổi mới công nghệ cho khai thác than, các doanh nghiệp đã chú trọng trong đầu tư cải tạo, thay đổi công nghệ sàng tuyển để phù hợp với yêu cầu của khách hàng, tận thu than bùn và xử lý nước thải trước khi ra biển. Công tác đầu tư và hoàn thiện các kho bãi cũng được đẩy mạnh, nâng cấp bến rót tiêu thụ, đầu tư luồng lạch mở rộng cảng biển đảm bảo cho tàu thuyền giao nhận than thuận lợi và nhanh chóng.
● Song song với việc đổi mới công nghệ, hiện đại hóa dây chuyền sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, ngành than của Việt Nam đã đặc biệt quan tâm đến chiến lược thị trường, bởi “có thị trường là có tất cả”. Tổng công ty đã kiên trì xây dựng ngành than, trước hết là trật tự trong kinh doanh than, đổi mới tổ chức, quản lý và phương pháp kinh doanh than của hệ thống các công ty than trong nội địa, hoàn thiện và phát triển cách thức quản lý trong công tác tiếp thị và giao dịch xuất nhập khẩu than. Bằng việc phát triển thị trường sản phẩm chính là cách để tháo gỡ đầu ra cho sản phẩm và cân bằng cung cầu than trên thị trường.
Than Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong giai đoạn đầu thành lập Tổng công ty, ngành than Việt Nam đã mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước, xây dựng được các mối quan hệ bạn hàng tin cậy trong và ngoài nước, đã ký hợp đồng dài hạn với các hộ lớn khoảng 30% sản lượng than tiêu thụ hàng năm. Than Việt Nam đã có quan hệ với các bạn hàng nước ngoài ở khắp các châu lục, năm 1997 đã xuất khẩu được 3,7 triệu tấn than, mức cao nhất từ trước đến nay. Trong giai đoạn này, than Việt Nam đã xuất sang các thị trường như: Nhật Bản, Trung Quốc, Canada, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan… Bằng nhiều biện pháp kinh tế tổng hợp, phương châm nhất quán “Cùng phát triển với bạn hàng”, Tổng công ty than Việt Nam đã phát huy nội lực sẵn có để xây dựng một chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm. Việc mở rộng và giữ vững thị trường là yếu tố quyết định để ngành than Việt Nam mở rộng tổ chức sản xuất mới cũng như tiếp cận các thị trường tài chính, tín dụng, đảm bảo vốn cho kinh doanh, phục vụ các dự án khai thác, đầu tư và phát triển. Bên cạnh những nỗ lực phát triển thị trường tiêu thụ, nâng cao trình độ công nghệ thì ngành than còn chủ động tiếp xúc và tìm kiếm khách hàng cho riêng mình, tiến hành đàm phán và kí kết các hợp đồng ngắn hạn, dài hạn với cơ chế giá mềm dẻo, cạnh tranh để tăng cường khả năng kiểm soát và mở rộng thị trường tiêu thụ than trong và ngoài nước, đưa than sản phẩm đến tận nơi sử dụng và mở rộng mạng lưới bán than đến các tỉnh, thành phố trong cả nước, bao gồm cả thị trường nông thôn, miền núi.
Trong giai đoạn sản xuất và kinh doanh 1995-2001, ngành than khoáng sản Việt Nam cũng gặt hái được nhiều thành công trong khai thác, chế biến và xuất khẩu. Bằng sự nỗ lực của chính Tổng công ty đã giúp cho lượng than khai thác và than sản phẩm xuất khẩu hàng năm không ngừng gia tăng, đó là một dấu hiệu đáng mừng trong việc đầu tư đổi mới công nghệ trong quá trình khai thác và chiến lược phát triển thị trường của công ty đưa ra trong những năm đầu thành lập. Việc đổi mới công nghệ cọc chống trong hầm lò hay công nghệ khai thác các mỏ lộ thiên, đổi mới và cải tiến công nghệ trong giai đoạn vận chuyển trên băng chuyền… cùng với việc phát triển thị trường, bạn hàng đã mang đến cho ngành than một số thành công nhất định.
Bảng: Sản xuất và kinh doanh than trong giai đoạn 1995-2001
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Than tiêu thụ
(1000 tấn)
7592
9653
10779
10721
10500
11467
12500
- Xuất khẩu
2783
3666
3525
2900
3300
3076
4000
- Trong nước
4809
5987
7254
7821
7200
8333
8500
Doanh thu tiêu thụ (tỷ Đồng)
1917
2584
2953
2953
2792
3114
3675
- Xuất khẩu
955
1262
1323
1246
1328
1765
1850
- Trong nước
962
1322
1630
1707
1464
1349
1825
Doanh thu sx- kd khác (tỷ Đồng)
485
1074
1301
1605
1337
1764
1994
Tổng doanh thu (tỷ Đồng)
2402
3658
4254
4558
4129
4887
5669
Nạp ngân sách
(tỷ Đồng)
120
152
199
154
133
155
165
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động ngành than Việt Nam)
Với những chính sách và đướng lối hoạt động đúng đắn, trong năm 1995 ngành than đã tiêu thụ được 7592 nghìn tấn than với doanh thu tiêu thụ thu về khoảng 1917 tỷ Đồng, tuy sản lượng than tiêu thụ trong nước lớn gấp 2 lần lượng than tiêu thụ trên thị trường quốc tế nhưng doanh thu tiêu thụ của 2 thị trường này lại bằng nhau, như vậy có thể thấy rằng ngành than đang thực hiện trợ giá cho thị trường trong nước. Đây cũng có thể là một biện pháp để khuyến khích nhu cầu sử dụng than trong nước và một phần hỗ trợ thị trường trong nước. Trong những năm tiếp theo, sản lượng than khai thác và sản lượng kinh doanh trên thị trường của ngành than Việt Nam tăng liên tục, trong năm 1996 sản lượng than khai thác và doanh thu từ kinh doanh than tăng khoảng 30% so với năm trước nên doanh thu từ thị trường trong nước và thế giới cũng tăng với tốc độ 32% so với năm 1995. Ngành than đã rất nỗ lực để giữ vững được tốc độ tăng lên trong khai thác và kinh doanh tiêu thụ, năm 1997 ngành than đã khai thác được 10779 nghìn tấn than, tăng gần 42% sản lượng khai thác so với năm 1995 về than sản phẩm, kết quả đó được đánh giá là một thành quả vượt bậc và là mong ước của ngành than trong thời gian bấy giờ. Tuy trong khai thác than thành phẩm tăng nhanh nhưng lại xuất hiện dấu hiệu chững lại của hoạt động kinh doanh xuất khẩu do những ảnh hưởng ban đầu của cuộc đại khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á trong năm 1997, sản lượng tiêu thụ giảm, doanh thu từ hoạt động xuất khẩu tăng nhẹ và đó là dấu hiệu đầu tiên cho những giảm sút của doanh thu trong những năm tiếp theo. Đánh giá trong những năm 1995-1997, ngành than của Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc nhờ biết phát huy được nội lực, công nghệ mới áp dụng và những chính sách phát triển hợp lý, đóng góp vào ngân sách nhà nước 471 tỷ Đồng trong 3 năm 1995-1997.
Năm 1998, sau khi chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực nên đã tác động đến than xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới về lượng lẫn về giá cả, ngành than của Việt Nam phải cạnh tranh hơn khi mà cung vượt quá cầu trên thị trường, nhưng nhờ sự mềm dẻo trong quan hệ bạn hàng và có các mối quan hệ bạn hàng lâu năm nên lượng than xuất khẩu của Việt Nam vẫn duy trì tại mức 3 triệu tấn và giữ được 25%-30% thị phần than Antraxit buôn bán thế giới. Thị trường trong nước cũng có sự giảm sút trong tiêu thụ, đặc biệt là năm 1999, lượng than tiêu thụ giảm hơn 600 tấn so với năm 1998 và doanh thu kinh doanh than của Việt Nam đã giảm xuống từ 2953 tỷ Đồng năm 1998 xuống 2792 tỷ Đồng cả năm 1999. Cho đến năm 2001, Tổng công ty than Việt Nam đã mở rộng quan hệ dài hạn với các nhà tiêu thụ như: Nhật Bản, Hungari, Trung Quốc, Thái Lan, Philippin, Đài Loan, Hà lan, Hàn Quốc, Nam Phi… Về thị trường xuất khẩu, công ty không chỉ duy trì ở các thị trường tiêu thụ tiềm năng mà còn mở rộng ra các thị trường mới nên sản phẩm than của công ty đã có mặt tại khoảng 40 nước trên thế giới, và công ty cũng đã tiến hành ký kết nhiều hợp đồng cung cấp than dài hạn cho khách hàng.
Các giai đoạn phát triển và trưởng thành của ngành than Việt Nam từ năm 1855 đến nay, có thể nhìn nhận mô hình quản lý ngành than từ trước đến nay:
● Từ tháng 4/1955 đến tháng 7/1960, ngành than do Bộ Công nghiệp quản lý.
● Từ tháng 7/1960 đến tháng 8/1969, ngành than do Bộ Công nghiệp nặng quản lý.
● Từ tháng 8/1969 đến tháng 1/1981,ngành than do Bộ Điện và Than quản lý.
● Từ tháng 1/1981 đến tháng 3/1987, ngành than thuộc sự quản lý của Bộ Mỏ và Than.
● Từ tháng 3/1987 đến tháng 10/1994, ngành than thuộc sự quản lý của Bộ Năng lượng.
● Từ tháng 10/1994, ngành than của Việt Nam chịu sự quản lý của Tổng công ty than Việt Nam, Tổng công ty Than Việt Nam là một tập đoàn kinh tế trực thuộc Chính phủ.
(nghiên cứu về ngành than của Việt Nam và kết quả sản xuất kinh doanh đến năm 2002 hay hết cả quá trình nghiên cứu ?)
Chiến lược phát triển của ngành than Việt Nam
Với mục tiêu đặt ra cho ngành than trong quá trình phát triển là xây dựng các mỏ than “xanh, sạch, ít người, sản lượng cao”, trong những năm qua, Tập đoàn công nghiệp Than - khoáng sản Việt Nam (TKV) đã thực hiện các chương trình đổi mới và phát triển kỹ thuật công nghiệp áp dụng trong quá trình sản xuất nhằm đạt được sản lượng cao. Nhiều giải pháp về công nghệ và kỹ thuật mới được đưa vào áp dụng và sử dụng trong sản xuất như các dự án cơ giới hóa đào lò và khai thác than ở các mỏ hầm lò; hàng loạt dây chuyền công nghệ tuyển than được sử dụng tại các cụm mỏ nhỏ đã góp phần nâng cao chất lượng than tiêu thụm giảm thiểu tỷ lệ than ứ đọng do chất lượng thấp. Vấn đề môi sinh môi trường vùng mỏ cũng đặc biệt được quan tâm và xử lý bằng cách triển khai nhiều dự án khắc phục suy thoái môi trường, tích cực cùng địa phương chuyển đổi các phương thức vận chuyển, chế biến, tiêu thụ than theo hướng thân thiện với môi trường. Bên cạnh những phương châm và chiến lược phát triển xuyên suốt của ngành than là bảo vệ môi sinh – môi trường vùng mỏ, đầu tư đổi mới và áp dụng công nghệ vào sản xuất và chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm thì ngành than cũng xác định những phương hướng phát triển trong ngắn hạn để từng bước tháo gỡ khó khăn, chuyển dịch cơ cấu đầu tư , cơ cấu lao động và lấy than để hỗ trợ phát triển các ngành khác… Tổng công ty đã lựa chọn:
● Chiến lược phát triển: Xây dựng tổng công ty than Việt Nam thành một tập đoàn kinh doanh đa ngành mạnh dựa trên nền sản xuất than. Bên cạnh đó là tăng cường phát triển, củng cố ngành nghề cơ khí, vật liệu nổ công nghiệp, vật liệu xây dựng và các ngành sản xuất dịch vụ khác đã có trong ngành than từ trước khi thành lập Tổng công ty than, phát triển các ngành nghề liên quan đến ngành than như các nhà máy nhiệt điện, xi măng, khai thác khoáng sản, các ngành nghề giải quyết được nhiều lao động nữ (may mặc, giày da hay dịch vụ…). Trên