Chuyên đề Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO

Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu trong tiến trình toàn cầu hoá nền kinh tế. Gia nhập WTO là một biểu hiện sinh động của quá trình đó. Sau tiếng búa của ông Eirik Glenne - Chủ tịch Đại hội đồng WTO gõ xuống bàn chủ tọa, kết thúc phần biểu quyết thông qua từng văn kiện có giá trị như hồi trống đồng lớn mang nhiều cảm xúc, kết thúc 11 năm gian lao đàm phán, kết thúc quá trình đại diện ngoại giao VN giao dịch đàm phán với các đối tác WTO tại Geneva chỉ được dùng thẻ quan sát và nay có thể ra vào tự do trụ sở WTO và tham dự các cuộc họp chung đưa đất nước ta vào một sân chơi mới mang tính toàn cầu. Ngày 7/11/2006, VN đã chính thức gia nhập ngôi nhà chung của WTO và trở thành thành viên thứ 150. Biết là sẽ có nhiều khó khăn, vất vả ở phía trước, nhưng cũng không thiếu các cơ hội để VN phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Ít nhất là vị trí của nước VN cũng đã ngang tầm với các thành viên khác trong WTO. NH là lĩnh vực hoàn toàn mở trong cam kết gia nhập WTO. Các NHTM đang đứng trước sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt không những phải cạnh tranh với các NHTM trong nước mà còn cạnh tranh với sự ồ ạt tham gia của nhiều NH mới và đặc biệt sự tham gia của các NH 100% vốn nước ngoài. Chính vì vậy, hơn bất cứ ngành nào, lĩnh vực NH cần phải “tăng tốc” nâng cao năng lực cạnh tranh để không bị thua thiệt ngay trên chính “sân nhà”. Tính cho đến thời điểm này, VN đã chính thức gia nhập WTO được hơn một năm. Đây có thể coi là một trong những sự kiện quan trọng và có ý nghĩa nhất về phương diện kinh tế và ngoại giao trong thời kỳ VN thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và hội nhập kinh tế thế giới nói riêng. Một năm qua, với việc thực hiện những cam kết và lộ trình đã ký với tổ chức kinh tế lớn nhất thế giới này, nền kinh tế VN đã có những biến chuyển thật sự rõ rệt. Thành công nhiều nhưng khó khăn, thách thức cũng không phải là ít, đặc biệt ngành NH gặp khó khăn hơn cả. OCB cũng như tất cả các NHTM khác, khi tham gia vào thị trường là chấp nhận mọi ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới nói chung và thị trường VN nói riêng. Do đó trước xu thế hội nhập WTO, để chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường NH, OCB nói riêng và các NHTM khác nói chung đã và đang đề ra những bước đi mới trong thời gian tới. “Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO” là đề tài mang tầm vĩ mô với nội dung 3 chương: - Chương I: Giới thiệu về ngân hàng Phương Đông - Chương II: Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO - Chương III: Các giải pháp đẩy mạnh hội nhập quốc tế của hệ thống ngân hàng tại VIệt Nam. được thực hiện để tìm hiểu về sự phát triển và khả năng cạnh tranh của các NH khi VN gia nhập WTO như thế nào: quá trình gia nhập, phát triển, thực trạng cũng như những cơ hội, những khó khăn thách thức và cả những giải pháp thúc đẩy quá trình hội nhập, bảo đảm an ninh tài chính cho hệ thống NH cũng như các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các NH trước yêu cầu mở cửa thị trường theo cam kết WTO và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình làm bài có nhiều vấn đề còn thiếu sót, em xin thầy và các anh chị ở Ngân hàng Phương Đông – chi nhánh Phú Nhuận góp ý để bài chuyên đề này được hoàn thiện hơn.

doc45 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1279 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hội nhập ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương II: HỘI NHẬP NGÂN HÀNG KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO Tìm hiểu về sự gia nhập, phát triển và khả năng cạnh tranh của NH khi VN gia nhập WTO như thế nào: quá trình gia nhập WTO của VN, những thách thức, cơ hội, yêu cầu đặt ra cũng như sức ép của cam kết WTO về NH như thế nào? Những nhân tố nào đã tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành NH VN sau khi gia nhập WTO. 2.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG 2.2 QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM 2.3 ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ NGÂN HÀNG VIỆT NAM 2.4 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO 2.5 NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC SAU KHI GIA NHẬP WTO 2.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG 2.1.1 Khái quát về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hệ thống tài chính – ngân hàng cạnh tranh và mở cửa là những hệ thống hỗ trợ hiệu quả cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. Cạnh tranh sẽ làm cho hệ thống NH vững mạnh, hiệu quả và lành mạnh hơn. Do vậy, các nước đang phát triển nói chung mong muốn hội nhập quốc tế, phát triển và cải cách hệ thống NH nhằm nâng cao khả năng thu hút và phân bổ các nguồn lực, tạo thuận lợi cho các tổ chức kinh tế có thể tiếp cận các dịch vụ NH có chất lượng cao hơn nhưng với chi phí thấp hơn. Về mặt chính sách nhằm khuyến khích hội nhập quốc tế, chính phủ các nước thường thực hiện mở cửa tiếp cận thị trường, đối xử quốc gia, xây dựng môi trường chính sách trong nước hỗ trợ cho cạnh tranh, từng bước cho phép các NH nước ngoài cạnh tranh trong một sân chơi công bằng và tạo thuận lợi cho các TCTD trong nước thâm nhập thị trường quốc tế, đồng thời chính phủ các nước cũng áp dụng các tiêu chuẩn thông lệ tốt nhất của quốc tế liên quan đến hoạt động NH làm cho thương mại và luân chuyển vốn quốc tế tự do hơn. Mức độ hội nhập quốc tế đạt được trên thực tế tuỳ thuộc vào sự phản hồi của các NH nước ngoài và các NH trong nước đối với các cơ hội do sự thay đổi chính sách tạo ra. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực NH được thể hiện thông qua: (i) mức độ sở hữu nước ngoài tại các NH trong nước; (ii) thị phần của các NH nước ngoài; (iii) thị phần của các NH đa quốc gia (gồm các NH trong nước có hoạt động NH đáng kể trên thị trường nước ngoài hoặc các NH nước ngoài có hoạt động NH đáng kể trên thị trường trong nước); (iv) mức độ áp dụng các chuẩn mực và thông lệ cũng như các luật lệ quốc tế và (v) các loại dịch vụ NH được cung cấp cho người tiêu dùng trong nước. 2.1.2 Kinh nghiệm quốc tế trong quá trình hội nhập Kinh nghiệm ở các nước đang phát triển cho thấy việc xây dựng một hệ thống tài chính - NH mở và mang tính cạnh tranh có tầm quan trọng quyết định và là yếu tố không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Các lợi ích mà VN có thể thu được từ quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực NH là những động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy quá trình này diễn ra nhanh hơn, đi vào chiều sâu hơn. Kinh nghiệm ở các nước châu Á cho thấy, hầu hết các nước áp dụng các biện pháp hạn chế sự tham gia thị trường của các NH nước ngoài sẽ làm chậm tiến độ phát triển thể chế và gia tăng chi phí cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tài chính. Trình tự tự do hóa dịch vụ tài chính rất quan trọng đối với hiệu quả hoạt động của khu vực NH trong nước. Mức độ tham gia thị trường của các NH nước ngoài tùy thuộc vào sự lựa chọn của người tiêu dùng dịch vụ NH trong nước. Nếu hệ thống NH trong nước đã lành mạnh sẵn trước khi tiến hành tự do hóa, lòng tin của người tiêu dùng sẽ được củng cố, khi đó sự tham gia thị trường của các NH nước ngoài sẽ thấp. Nhưng nếu người tiêu dùng thiếu lòng tin vào hệ thống NH hiện tại thì chắc chắn họ sẽ sẵn sàng sử dụng các dịch vụ và sản phẩm do các NH nước ngoài cung cấp, khi đó sự tham gia thị trường của các NH nước ngoài sẽ cao. Tuy nhiên, kinh nghiệm quốc tế cho thấy hầu hết các nước đang phát triển chỉ mở cửa thị trường trong nước cho các nhà cung cấp dịch vụ NH nước ngoài tham gia khi đã củng cố hệ thống NH trong nước, tạo cho các NH trong nước có khả năng cạnh tranh đáng kể ít nhất là có thể cạnh tranh và tồn tại được trên thị trường trong nước khi có sự tham gia của các NH nước ngoài giàu kinh nghiệm. Những kinh nghiệm quốc tế trong quá trình hội nhập trong lĩnh vực NH là những bài học quí báu mà VN cần cân nhắc trong thời gian gia nhập WTO. 2.1.3 Các bài học về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng cho VN Mức độ phát triển tài chính góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Các chính sách hạn chế tăng trưởng kinh tế sẽ làm giảm cơ hội cho các NH. Tương tự như vậy, các chính sách hạn chế khả năng của khu vực tài chính – ngân hàng để đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế sẽ làm giảm triển vọng phát triển kinh tế bền vững. Các chính sách của chính phủ duy trì sự kiểm soát “trực tiếp” đối với hoạt động NH có xu hướng làm giảm khả năng và các động lực đổi mới và do vậy giảm lợi thế so sánh của các NH trong nước. Một khuôn khổ đảm bảo an toàn, quản trị kinh doanh, giám sát phù hợp và các chính sách khuyến khích thị trường là những yếu tố quan trọng để hoạt động NH đạt kết quả tốt trong dài hạn. Để hội nhập quốc tế thành công cần phải xây dựng một môi trường pháp lý NH trong nước hấp dẫn với các cơ chế chính sách nhất quán, có quy định quyền sở hữu rõ ràng, công tác thanh tra giám sát an toàn với mức độ độc lập cao, chế độ báo cáo và kiểm toán minh bạch, tạo lập một sân chơi bình đẳng và hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh để tất cả các NH (trong nước và nước ngoài) phát triển. Trình tự hội nhập quốc tế tối ưu tuỳ thuộc vào mức độ phát triển của hệ thống tài chính NH. Tự do hoá tài khoản vốn mang lại nhiều lợi ích về mặt tiếp cận các nguồn vốn, nhưng từ cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á cho thấy việc tự do hoá như vậy cũng tạo ra các rủi ro ở những nước có hoạt động thanh tra hệ thống NH yếu kém và công tác quản trị thiếu hiệu quả. Hệ quả là phải điều chỉnh các vấn đề này trước khi tiến hành tự do hoá tài khoản vốn cho các luồng vốn ngắn hạn chảy vào. Kinh nghiệm của các nước phát triển và đang phát triển cho thấy sự tham gia thị trường của các NH nước ngoài không gây tác động lớn đến sự luân chuyển vốn ngắn hạn. Hội nhập quốc tế với nguyên tắc chung là tiến tới đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc (*) và thực hiện các chính sách khuyến khích cạnh tranh. Cho phép các NH con, các chi nhánh NH nước ngoài, các NH 100% vốn nước ngoài tham gia với lộ trình phù hợp (đặc biệt là đối với dịch vụ NH bán lẻ), đồng thời cho phép thực hiện sáp nhập và mua lại các NH trong nước. Khuyến khích sử dụng các yêu cầu về vốn tối thiểu căn cứ theo mức độ rủi ro là bằng với các yêu cầu về vốn quy định trong thoả thuận Basel I. Tăng cường năng lực thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa, phối hợp giữa các cơ quan thanh tra. NHTW cần nghiên cứu tách biệt giữa trách nhiệm (*) Đối xử tối huệ quốc: đối xử bình đẳng với các nước khác đối với chính sách tiền tệ và thanh tra, giám sát khu vực NH. Trì hoãn để có thời gian cho các NH trong nước cải cách bằng cách hạn chế sự tham gia của NH nước ngoài là một chiến lược không phù hợp từ khi các cam kết về cải cách là chắc chắn. Một khi đã cho phép NH nước ngoài vào hoạt động thì việc hạn chế sự tham gia trên cơ sở nguồn gốc quốc gia sẽ giảm áp lực cạnh tranh. Những hạn chế làm tăng chi phí tương đối của các NH nước ngoài trong quá trình tham gia thị trường có thể tạo ra lợi thế cho các NH trong nước nhưng lại dẫn đến hoạt động kém hiệu quả và mức độ cạnh tranh thấp trên thị trường Một hệ thống NH hiệu quả cần có mức độ cạnh tranh cao. Do vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh ở các NH và việc sở hữu nhà nước chi phối trong các NH cần được nắm giữ ở mức phù hợp sao cho không ảnh hưởng tới mức độ cạnh tranh của hệ thống NH, nếu các NH có sở hữu nhà nước chi phối thì các NH này cần phải có khả năng hoạt động như một pháp nhân độc lập. Các NHTM quốc doanh là những NH nắm thị phần lớn trong ngành NH tuy nhiên vẫn gặp phải khó khăn đáng kể trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động do cấu trúc có tính lịch sử, thách thức lớn là phải tạo ra áp lực đối với ban quản lý để hoạt động có tính cạnh tranh. Điều này đòi hỏi các NH phải hoạt động trên cơ sở thương mại, theo khuôn khổ bảo đảm an toàn đã được quy định cho lĩnh vực NH. Nếu các NHTM quốc doanh không được chuyển sang hoạt động hoàn toàn trên cơ sở cạnh tranh, sự phát triển của hệ thống NH sẽ bị hạn chế và Chính phủ sẽ phải gánh chịu những hậu quả phát sinh từ hoạt động kém hiệu quả của các NH này. Các NHTM quốc doanh có thể giữ được thị phần của mình trong một thị trường đang tăng trưởng nhanh chóng nhưng về lâu dài trong bối cảnh hội nhập quốc tế khó có thể duy trì được nếu đặt dưới sự sở hữu tập trung của NN. Để giữ vị trí có tính chất chi phối của mình, các NH này cần chuyển đổi theo một cấu trúc có tính cạnh tranh đầy đủ, cho phép phản ứng được với các tác nhân thị trường trong chiến lược kinh doanh và quy trình quản lý của NH. 2.2 QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM 2.2.1 Việt Nam nỗ lực hội nhập vào WTO  Ðồng thời với việc tham gia Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) vào tháng 7/1995; là thành viên đồng sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) vào tháng 3/1996; tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11/1998; VN đã sớm nhận thức tầm quan trọng của việc tham gia vào WTO. VN cũng như bất kỳ nước nào khác khi gia nhập WTO đều phải trải qua một trình tự nhất định; có chăng chỉ là khác nhau về thời gian thực hiện trình tự. Thời gian dài hay ngắn phụ thuộc vào việc nước xin gia nhập và các thành viên khác của WTO đàm phán với nhau ra sao, chấp nhận những nhượng bộ nhau như thế nào. Quá trình đàm phán của VN thể hiện qua các mốc đánh dấu chặng đường gia nhập WTO của VN kéo dài hơn 11 năm, gặp nhiều khó khăn phức tạp, trải qua nhiều thời điểm cam go nhưng cuối cùng VN và WTO đã đi đến thỏa thuận . - 1/1/1995: VN nộp đơn xin gia nhập WTO - 4/1/1995: Đơn xin gia nhập WTO của VN được Đại hội đồng tiếp nhận và VN trở thành quan sát viên của tổ chức này. - 31/1/1995: Ban xem xét công tác gia nhập (WP) của VN được thành lập với chủ tịch là ông Eirik Glenne, đại sứ Na Uy tại WTO. - 24/8/1995: VN nộp bị vong lục (*) về chính sách thương mại của VN và gửi tới Ban thư ký WTO để luân chuyển đến các thành viên của ban công tác. - 1996 - 2001: Tiến hành quá trình đàm phán tập trung chủ yếu vào việc làm rõ chế độ, chính sách thương mại của VN. Đoàn đàm phán VN đã phải trả lời hơn 2000 câu hỏi có liên quan đến chính sách thương mại, kinh tế, đầu tư. - 8/2001: Chính thức đưa ra bản chào ban đầu về hàng hóa và dịch vụ (Initial Offer) bước vào giai đoạn đàm phán thực chất về mở cửa thị trường. (*) Bị vong lục: là bản tóm tắt toàn bộ hệ thống cơ chế, chính sách kinh tế, thương mại của Việt Nam. Được sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Chính trị, Ban chấp hành T.Ư khóa 8, 9, 10 và của Chính phủ, đoàn đàm phán của Chính phủ nước ta đã tiến hành nhiều vòng đàm phán đa phương với ban công tác nhằm tổng kết hoá các cam kết của VN về việc VN gia nhập WTO và đàm phán song phương với các đối tác liên quan nhằm xác các lợi ích mà các thành viên của WTO có thể thu được từ việc gia nhập của một thành viên mới. Khi các cuộc đàm phán song phương này kết thúc và VN trở thành thành viên WTO, các cam kết qua các cuộc đàm phán sẽ trở thành cam kết áp dụng cho tất cả các thành viên WTO: - Đầu năm 2002: VN gửi bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ tới WTO và bắt đầu tiến hành đàm phán song phương với một số thành viên trên cơ sở bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ. - 9-10-2004: VN và EU đạt thỏa thuận về việc VN gia nhập WTO. - 9-6-2005: VN và Nhật Bản đạt được thỏa thuận cơ bản về vấn đề mở đường cho VN sớm gia nhập WTO. - 18-7-2005: VN và Trung Quốc đạt thỏa thuận về việc mở cửa thị trường để VN - 31/5/2006: Ký thoả thuận chính thức kết thúc đàm phán song phương với Mỹ, đối tác cuối cùng trong số 28 đối tác có yêu cầu. - 26/10/2006: kết thúc phiên đàm phán đa phương thứ 14, phiên đàm phán đa phương cuối cùng của VN, Ban Công tác đồng ý thông qua cả gói hồ sơ, mở đường đưa VN trở thành thành viên chính thức của WTO. 2.2.2 7/11/2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO Tháng 11/2006, VN và WTO đã ký nghị định thư về việc VN gia nhập Hiệp định thành lập WTO. 17h chiều 7/11/2006 (giờ Hà Nội), tức 11h ở Geneva, Đại hội đồng WTO họp phiên đặc biệt để bỏ phiếu thông qua các văn kiện về việc VN gia nhập ngôi nhà chung của kinh tế thế giới. Thời khắc cuối cùng của hành trình 11 năm VN tìm đường vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã đến. Đối với VN, tiếng búa của ông Eirik Glenne - Chủ tịch Đại hội đồng WTO gõ xuống bàn chủ tọa, kết thúc phần biểu quyết thông qua từng văn kiện có giá trị như hồi trống đồng lớn mang nhiều cảm xúc, kết thúc 11 năm gian lao đàm phán, kết thúc quá trình đại diện ngoại giao VN giao dịch đàm phán với các đối tác WTO tại Geneva chỉ được dùng thẻ quan sát và nay có thể ra vào tự do trụ sở WTO và tham dự các cuộc họp chung đưa đất nước vào một sân chơi mới mang tính toàn cầu. Tất cả chỉ diễn ra trong vòng 30 phút. Sau tiếng búa, nhà chỉ huy đàm phán, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển sẽ thay mặt Chính phủ và người dân VN ký vào nghị định thư gia nhập WTO cùng với Tổng giám đốc WTO Pascal Lamy. Vào lúc 12g (tức 18g VN) Tổng giám đốc WTO Pascal Lamy đã trịnh trọng tuyên bố trước sự có mặt của đại diện 149 thành viên của WTO tại Geneva, VN chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Đại sứ và đại diện nhiều nước thành viên Ban Công tác đã phát biểu chào mừng VN kết thúc thành công quá trình đàm phán gia nhập WTO, đánh giá cao những nỗ lực và thành tựu mà VN đạt được trong thời gian vừa qua. Sự kiện này đã đánh một dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, một ghi nhận ở tầm quốc tế về thành công trong sự nghiệp đổi mới kinh tế của VN. Thay mặt Thủ tướng Chính phủ, ngày 11/12/2006, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã gửi Ban Thư ký WTO thư thông báo VN hoàn thành thủ tục phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO. Theo thông lệ, kể từ ngày thứ 30 sau khi Ban Thư ký WTO nhận được thư thông báo của VN, nghị định thư trên sẽ có hiệu lực. Như vậy, bắt đầu từ ngày 11/1/2007, VN sẽ trở thành thành viên đầy đủ của WTO và bắt đầu chính thức hưởng các quyền lợi và nghĩa vụ thực hiện các cam kết gia nhập WTO. Việc gia nhập WTO biết là sẽ có nhiều khó khăn, vất vả ở phía trước, nhưng cũng không thiếu các cơ hội mang lại cho VN, là động lực để VN thúc đẩy đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo nên năng lực sản xuất mới; hàng hóa, dịch vụ của nước ta được hưởng sự đối xử bình đẳng khi tiếp cận thị trường với tất cả các thành viên WTO; tạo cơ hội sử dụng quy chế giải quyết tranh chấp của WTO để đấu tranh bình đẳng với các đối tác thương mại, nâng cao vị thế của VN trên trường quốc tế, tham gia bình đẳng vào việc hoạch định các định chế thương mại toàn cầu. Đó cũng là bước quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách của Đảng và NN về hội nhập kinh tế quốc tế. 2.2.3 WTO là bệ phóng đặt Việt Nam vào quỹ đạo phát triển Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là điều kiện tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới thông qua việc tận dụng được dòng chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến. Gia nhập WTO là mốc quan trọng để VN thúc đẩy các lộ trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực cũng như toàn cầu, thúc đẩy quá trình điều chỉnh cơ cấu, cơ chế kinh tế, năng lực cạnh tranh, các thể chế kinh tế theo hướng hình thành đồng bộ nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Trở thành thành viên của WTO cũng đồng nghĩa với việc VN tạo cho mình một thế và lực mới trong sự cạnh tranh và thương lượng quốc tế. Sự tự tin và sức mạnh sẽ được gia tăng sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO với sự bình đẳng như một nguyên tắc trong việc quan hệ song phương với các nước lớn và các nước phát triển, hướng tới một thể chế thương mại công bằng, công khai, minh bạch. Gia nhập WTO, nền kinh tế nước ta sẽ thuận lợi hơn khi tiếp cận toàn diện vào các nền kinh tế thành viên, vốn, công nghệ, kỹ thuật… sẽ theo các kênh di chuyển thương mại, tài chính, đầu tư thâm nhập mạnh vào thị trường nước ta để phát huy hợp lý lợi thế, tạo ra nguồn lực mới. Tư cách thành viên WTO còn cải thiện quan hệ của VN với chính phủ các nước thành viên. Các cuộc đàm phán song phương cũng như đa phương của VN với các nước trở nên thuận lợi hơn, khi các thiết chế thương mại được hình thành và hoạt động theo các luật chơi chung đã quy định thống nhất trong WTO. Do đó, bên cạnh thách thức đặt ra như phải nâng cao khả năng cạnh tranh, chúng ta coi đây là một dấu mốc quan trọng để VN bước vào giai đoạn mới. 2.2.4 Đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng Các cam kết gia nhập WTO của VN được tổng hợp trên cơ sở kết quả đàm phán song phương theo hướng tổng hợp các mức cam kết cao nhất. Do đó, các cam kết đã đạt được trong thoả thuận song phương với Hoa Kỳ là nền tảng cơ bản cho cam kết gia nhập WTO của VN trong lĩnh vực NH. Theo thoả thuận đã được ký với Hoa Kỳ, trong lĩnh vực NH, các cam kết về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia đối với các NH nước ngoài sẽ được nới lỏng dần, với lộ trình dài nhất là 5 năm kể từ khi gia nhập. Kể từ ngày 1/4/2007 các NH nước ngoài được phép thành lập NH 100% vốn nước ngoài hoạt động tại VN. Đồng thời, để thu hút được các NH lớn vào hoạt động tại thị trường VN, trong cam kết cũng đã đưa ra yêu cầu về tổng tài sản có đối với TCTD nước ngoài muốn thành lập hiện diện thương mại tại VN (cam kết này cũng đã được thể chế hoá trong Nghị định số 22 ban hành ngày 28/2/2006), cụ thể là: Để mở một chi nhánh của NHTM nước ngoài tại VN, NH mẹ phải có tổng tài sản hơn 20 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm trước thời điểm xin mở chi nhánh, trong khi đó mức yêu cầu đối với việc thành lập NH liên doanh hoặc NH 100% vốn nước ngoài là 10 tỷ đô la Mỹ; đối với mở công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài và công ty cho thuê tài chính liên doanh, TCTD nước ngoài phải có tổng tài sản hơn 10 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm trước thời điểm xin phép. Ngoài ra theo cam kết WTO, VN không cam kết đối với hình thức cung cấp dịch vụ qua biên giới, trừ dịch vụ cung cấp thông tin tài chính và các dịch vụ tư vấn phụ trợ. Chi nhánh của NH nước ngoài được phép huy động tiền đồng tăng dần theo thời gian (từ 1-1-2011 sẽ được phép như NH trong nước), nhưng không được mở ATM và các điểm giao dịch ngoài trụ sở, cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các NH VN nhưng tỷ lệ vẫn còn hạn chế theo lộ trình. Bên nước ngoài chỉ được phép mua tối đa 30% cổ phần của NH trong nước. Các cam kết gia nhập WTO của VN trong lĩnh vực NH mà nền tảng là các cam kết đã đạt được trong thoả thuận song phương với Hoa Kỳ là khá toàn diện với cam kết trong hầu hết các phân ngành dịch vụ. So với cam kết về lĩnh vực NH trong Hiệp định thương mại Việt nam - Hoa Kỳ, lộ trình nới lỏng các hạn chế về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia đối với các TCTD nước ngoài trong các cam kết gia nhập WTO của VN đã rút ngắn hơn. Như vậy, rõ ràng biểu cam kết này, VN đã đạt được sự thỏa thuận có lợi cho dịch vụ NH trong nước. Sự thuận lợi thể hiện ở chỗ: Tuy mở cửa, cho phép sự đầu tư từ bên ngoài nhưng vẫn hạn chế số lượng, mức vốn đầu tư, nhằm bảo vệ quyền lợi các NH trong nước. Việc thực hiện các cam kết quốc tế này tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn cho các đối tác nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực NH, góp phần thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực NH, các TCTD VN sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận thị trường tài chính quốc tế để mở rộng nguồn vốn, đầu tư kinh doanh ngoại hối và thanh toán quốc tế, tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư trong nước cũng như ở nước ngoài, học hỏi kinh nghiệm và đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá công nghệ NH. Tuy nhiên, mở cửa thị trường tài chính - ngân hàng trong nước cũng sẽ đặt hệ thống NH VN trước nhiều khó khăn, thách thức, do đó, đòi hỏi ngành NH VN cần xây dựng một

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docc2.doc
  • docBia.doc
  • docc1.doc
  • docc3.doc
  • docKL.doc
  • docloi cam on.doc
  • docloi noi dau.doc
  • docphu luc.doc
  • docTLTK.DOC
Tài liệu liên quan