Thế giới này đang ở giai đoạn phát triển cao nhất của kinh tế thị trường. Đặc trưng cơ của kinh tế thị trường là sản xuất hàng hóa. Mà mục đích cuối cùng của sản xuất hàng hoá là đem lại ngày càng nhiều lợi nhuận về cho sản xuất. Muốn vậy nhà sản xuất (Tức doanh nghiệp) phải sản xuất ra được những sản phẩm có thể thoả mãn cao nhất các nhu cầu về vật chất, văn hoá tinh thần của con người (Nhu cầu tiêu dùng), với chu trình sản xuất nhanh nhất, rẻ nhất, thuận tiện nhất với chất lượng cao, hình thức mẫu mã đẹp, hợp thi hiếu, được người tiêu dùng ưa chuộng. Và do đó nhà sản xuất cũng đạt được mục đích thu lợi nhuận của mình.
Hơn bao giờ hết việc sản xuất, việc sản xuất hàng hóa của các nhà doanh nghiệp bao giờ cũng bị chi phối bởi các quy luật tất yếu khách quan của kinh tế thị trường. Đó là các quy luật về giá trị, quy luật giá trị thặng dư, quy luật cung, - cầu, và quy luật cạnh tranh trên thị trường.
Đất nước Việt Nam ta đang phát triển ở những bước ngoặc quan trọng trên con đường đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ là:’’ Đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản của Nhà nước, theo định hướng Xã hội chủ nghĩa
Như vậy là Đảng ta khảng định việc phải thừa nhận các quy luật chung của kinh tế thị trường, coi chúng như là một đòi hỏi tất yếu khách quan để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Do đó cạnh tranh và khát vọng lơi nhuận đã thực sự trở thành động lực thôi thúc các doanh nghiệp tăng cường đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, đầu tư phát triển sản xuất để chiếm lĩnh thị trường.
Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển của nền kinh tế thể hiện ở cơ cấu vốn đầu tư, lĩnh vực đầu tư và tốc độ đầu tư cho xây dựng cơ bản. Sự hình thành và phát triển của các đơn vị xây lắp là đòi hỏi tất yếu của việc phát triển của nền kinh tế đất nước.
Trong nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường thì hệ thống kinh tế - tài chính có vai trò hết sức quan trọng trong việc điều hành sản xuất đối với mỗi doanh nghiệp cũng như việc điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với sản xuất của toàn xã hội.
Việc học tập nghiên cứu hệ thống kinh tế tài chính của đất nước là nhằm góp phần đẩy mạnh vai trò của công tác tài chính kế toán trong việc giúp các nhà quản lý doanh nghiệp, các cấp chính quyền từ cơ sở đến trung ương sử dụng tốt hơn các công cụ vốn có của mình trong việc điều hành sản xuất nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Hạch toán kế toán với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống các công cụ quản lý kinh tế - tài chính giúp các nhà sản xuất kinh doanh, các tổ chức hành chính sự nghiệp thông qua các công cụ kế toán của mình nắm được hiệu quả sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của đơn vị để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, các nguồn tài chính. Đối với chính phủ và cơ quan chính quyền các cấp thì đây là một trong những công cụ quan trọng nhất để chỉ đạo điều hành vĩ mô nền kinh tế.
Trong các đơn vị xây lắp thì công tác tổ chức hạch toán kế toán là một nhiệm vụ quan trọng để giúp các nhà quản lý doanh nghiệp định hình tốt việc tổ chức cơ cấu bộ máy điều hành sản xuất và các đơn vị sản xuất. Trên cơ sở giải quyết tốt việc quản lý các định mức tiêu hao về nguồn vật liệu, tiền công và các chi phí khác nhằm sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, hợp thị hiếu của người tiêu dùng và có sự cạnh tranh trên thị trường.
Vì vậy công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tình hình giá thành sản phẩm trong đơn vị xây lắp có ý nghĩa vô cùng quan trọng việc tôt chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Qua thực tế thực tập ở Xí nghiệp Sông Đà 905 tôi càng nhận thấy công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có vai trò to lớn trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý và sử dụng lao động ở cơ sở giúp cho Giám đốc xí nghiệp có những quyết sách đúng đắn làm cho sản xuất kinh doanh của đơn vị không ngừng phát triển.
Đây là một nhiệm vụ quan trọng và cũng là khâu phức tạp, khó khăn trong công tác kế toán ở các đơn vị xây lắp.
Trong thời gian thực tập hơn 1 tháng ở Xí nghiệp sông đà 905 tôi đã được các thầy cô giáo hướng dẫn thực tập cũng như lãnh đạo của Xí nghiệp tạo điều kiện giúp đỡ để bản thân được tiếp xúc với thực tế công tác hạch toán kế toán của đơn vị và đối chiếu với kiến thức đã học được ở trường.
Tôi xin mạnh dạn trình bày một số hiểu biêt về lý luận chung và thực tế công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp sông đà 905.
Kính mong được các thầy cô giáo cũng như lãnh đạo Xí nghiệp góp ý kiến để tôi tiếp thu bồi dưỡng nâng cao kiến thức của bản thân nhằm đạt được một trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất định để có thể hoàn thành những nhiệm vụ được giao, đóng góp được nhiều cho doanh nghiệp và cho Xã hội.
Chuyên đề thực tập: Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 905.
CHUYÊN ĐỀ GỒM 3 PHẦN CHÍNH:
Phần I: Cơ sở lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất, kinh doanh và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
Phần II: Tình hình kế toán chi phí sản xuất, kinh doanh và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 905.
Phần III: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất, kinh doanh và tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Sông Đà 905.
114 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1474 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 905, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Website: Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới này đang ở giai đoạn phát triển cao nhất của kinh tế thị trường. Đặc trưng cơ của kinh tế thị trường là sản xuất hàng hóa. Mà mục đích cuối cùng của sản xuất hàng hoá là đem lại ngày càng nhiều lợi nhuận về cho sản xuất. Muốn vậy nhà sản xuất (Tức doanh nghiệp) phải sản xuất ra được những sản phẩm có thể thoả mãn cao nhất các nhu cầu về vật chất, văn hoá tinh thần của con người (Nhu cầu tiêu dùng), với chu trình sản xuất nhanh nhất, rẻ nhất, thuận tiện nhất với chất lượng cao, hình thức mẫu mã đẹp, hợp thi hiếu, được người tiêu dùng ưa chuộng. Và do đó nhà sản xuất cũng đạt được mục đích thu lợi nhuận của mình.
Hơn bao giờ hết việc sản xuất, việc sản xuất hàng hóa của các nhà doanh nghiệp bao giờ cũng bị chi phối bởi các quy luật tất yếu khách quan của kinh tế thị trường. Đó là các quy luật về giá trị, quy luật giá trị thặng dư, quy luật cung, - cầu, và quy luật cạnh tranh trên thị trường.
Đất nước Việt Nam ta đang phát triển ở những bước ngoặc quan trọng trên con đường đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ là:’’… Đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản của Nhà nước, theo định hướng Xã hội chủ nghĩa…
Như vậy là Đảng ta khảng định việc phải thừa nhận các quy luật chung của kinh tế thị trường, coi chúng như là một đòi hỏi tất yếu khách quan để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Do đó cạnh tranh và khát vọng lơi nhuận đã thực sự trở thành động lực thôi thúc các doanh nghiệp tăng cường đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, đầu tư phát triển sản xuất để chiếm lĩnh thị trường.
Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển của nền kinh tế thể hiện ở cơ cấu vốn đầu tư, lĩnh vực đầu tư và tốc độ đầu tư cho xây dựng cơ bản. Sự hình thành và phát triển của các đơn vị xây lắp là đòi hỏi tất yếu của việc phát triển của nền kinh tế đất nước.
Trong nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường thì hệ thống kinh tế - tài chính có vai trò hết sức quan trọng trong việc điều hành sản xuất đối với mỗi doanh nghiệp cũng như việc điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với sản xuất của toàn xã hội.
Việc học tập nghiên cứu hệ thống kinh tế tài chính của đất nước là nhằm góp phần đẩy mạnh vai trò của công tác tài chính kế toán trong việc giúp các nhà quản lý doanh nghiệp, các cấp chính quyền từ cơ sở đến trung ương sử dụng tốt hơn các công cụ vốn có của mình trong việc điều hành sản xuất nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Hạch toán kế toán với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống các công cụ quản lý kinh tế - tài chính giúp các nhà sản xuất kinh doanh, các tổ chức hành chính sự nghiệp thông qua các công cụ kế toán của mình nắm được hiệu quả sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của đơn vị để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, các nguồn tài chính. Đối với chính phủ và cơ quan chính quyền các cấp thì đây là một trong những công cụ quan trọng nhất để chỉ đạo điều hành vĩ mô nền kinh tế.
Trong các đơn vị xây lắp thì công tác tổ chức hạch toán kế toán là một nhiệm vụ quan trọng để giúp các nhà quản lý doanh nghiệp định hình tốt việc tổ chức cơ cấu bộ máy điều hành sản xuất và các đơn vị sản xuất. Trên cơ sở giải quyết tốt việc quản lý các định mức tiêu hao về nguồn vật liệu, tiền công và các chi phí khác nhằm sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, hợp thị hiếu của người tiêu dùng và có sự cạnh tranh trên thị trường.
Vì vậy công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tình hình giá thành sản phẩm trong đơn vị xây lắp có ý nghĩa vô cùng quan trọng việc tôt chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Qua thực tế thực tập ở Xí nghiệp Sông Đà 905 tôi càng nhận thấy công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có vai trò to lớn trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý và sử dụng lao động ở cơ sở giúp cho Giám đốc xí nghiệp có những quyết sách đúng đắn làm cho sản xuất kinh doanh của đơn vị không ngừng phát triển.
Đây là một nhiệm vụ quan trọng và cũng là khâu phức tạp, khó khăn trong công tác kế toán ở các đơn vị xây lắp.
Trong thời gian thực tập hơn 1 tháng ở Xí nghiệp sông đà 905 tôi đã được các thầy cô giáo hướng dẫn thực tập cũng như lãnh đạo của Xí nghiệp tạo điều kiện giúp đỡ để bản thân được tiếp xúc với thực tế công tác hạch toán kế toán của đơn vị và đối chiếu với kiến thức đã học được ở trường.
Tôi xin mạnh dạn trình bày một số hiểu biêt về lý luận chung và thực tế công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp sông đà 905.
Kính mong được các thầy cô giáo cũng như lãnh đạo Xí nghiệp góp ý kiến để tôi tiếp thu bồi dưỡng nâng cao kiến thức của bản thân nhằm đạt được một trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất định để có thể hoàn thành những nhiệm vụ được giao, đóng góp được nhiều cho doanh nghiệp và cho Xã hội.
Chuyên đề thực tập: Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 905.
CHUYÊN ĐỀ GỒM 3 PHẦN CHÍNH:
Phần I: Cơ sở lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất, kinh doanh và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
Phần II: Tình hình kế toán chi phí sản xuất, kinh doanh và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 905.
Phần III: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất, kinh doanh và tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Sông Đà 905.
PHẦN THỨ NHẤT
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH XÂY LẮP Ở DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
I- KHÁI NIỆM, MỐI QUAN HỆ, Ý NGHĨA CỦA CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP
I- Khái niệm chung:
1-1. Khái niệm về chi phí sản xuất:
Trong các doanh nghiệp xây lắp, sự kết hợp các yếu tố của quá trình sản xuất cũng như quá trình sản xuất nói chung. Đó là quá trình kết hợp giữa tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động để tạo nên sản phẩm. Trong quá trình này sẽ phát sinh các chi phí gồm: Chi phí hao phí lao động sống và chi phí lao động vật hoá mà doanh nghiệp xây lắp bỏ ra trong quá trình sản xuất thi công được biểu hiện ra là tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Trong quá trình sản xuất đòi hỏi doanh nghiệp xây lắp phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý ba yếu tố trên để tạo ra sản phẩm tốt, giá thành hạ, đáp ứng được yêu cầu cần thiết kế.
Trong điều kiện xã hội còn tồn tại quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thì những chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất sản phẩm được biểu hiện dưới hình thức giá trị. Ba yếu tố cơ bản trong sản xuất sản phẩm xây lắp tham gia vào quá trình sản xuất với mức độ khác nhau.
Với các yếu tố chi phí tương ứng là chi phí, chi phí về nguyên vật liệu, chi phí về nhân công về khấu hao TSCĐ, ngoài ra còn một số yếu tố chi phí khác.
Như vậy, tại các doanh nghiệp sản xuất, chi phí sản xuất kinh doanh là toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hóa và các chi phí khác mà doanh nghiệp đã chỉ ra để tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong một thời kỳ nhất định biểu hiện bằng tiền.
1-2/ Khái niệm về giá thành sản phẩm xây lắp
Vấn đề quan tâm trước hết đối với doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế thị trường là sản phẩm - sản phẩm vừa là mục đích cuối cùng, vừa là nguyên nhân của qúa trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhiệm vụ của doanh nghiệp không chỉ là sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm với chất lượng tốt mà còn phải quan tâm đến giá thành sản phẩm và tìm mọi biện pháp hạ giá thành sản phẩm. Bởi vì sản phẩm có chất lượng tốt có giá thành hạ sẽ là tiền đề tích cực giúp doanh nghiệp tạo uy tín tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Đó cũng là tiền đề tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, từ đó tăng tích luỹ và đảm bảo đời sống của công nhân viên ngày càng cao.
Già thành là chỉ tiêu kinh tế kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất thi công, trình độ sử dụng lao động vật tư, tiền vốn của doanh nghiệp. Vì nếu doanh nghiệp quản lý tốt các chi phí sản xuất trên thì sẽ là tiền đề tạo ra sản phẩm tốt, giá thành hạ.
Giá thành sản phẩm là biểu tượng bằng tiền của các chi phí sản xuất tính cho một khối lượng sản phẩm (công việc, lao vụ…), tính cho một công trình, hạng mục công trình nhất định đã hoàn thành.
1-3/ Mối quan hệ giữa chi phí sản và giá thành sản phẩm
- Chi phí sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với một thời kỳ nhất định, còn giá thành sản phẩm gắn liền với một loại sản phẩm (công việc, lao vụ) nhất định.
- Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm một phần chi phí thực tế đã phát sinh (chi phí trả trước) hay một phần chi phí sẽ phát sinh ở các kỳ sau nhưng đã nghi nhận là chi phí của kỳ này (chi phí phải trả).
- Giá thành sản phẩm chứa đựng cả một phần chi phí của kỳ trước chuyển sang (chi phí về sản phẩm làm dở đầu kỳ)
2- Ý nghĩa của kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính già thành sản phẩm xây lắp
Tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một trong những khâu quan trọng nhất của công tác hạch toán kế toán trong doanh nghiệp. Do vậy việc tính toán chính xác chi phí bỏ ra sẽ là tiền đề để tính chính xác giá thành sản phẩm giúp cho việc phân tích đúng đắn kết qủa hoạt động sản xuât kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc tổ chức tốt các công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm sẽ đảm bảo xác định đúng nội dung phạm vi chi phí cấu thành trong giá thành sản phẩm lượng giá trị các yếu tố chi phí đã được chuyển dịch vào sản phẩm đã hoàn thành nó có ý nghĩa rất quan trọng và là yêu cầu cấp bách trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Để đáp ứng được những yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm kế toán phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
Kế toán phải xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, chọn phương pháp tập hợp chi phí và tiêu chuẩn chi phí một cách thích hợp với đặc điểm quy trình công nghệ và tổ chức sản xuất của từng đơn vị.
Kế toán phải xác định đúng đắn đối tượng tính giá thành, lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp, phù hợp với đối tượng tính giá thành và phù hợp với đối tượng đặc điểm tình hình của quy trình công nghệ của đơn vị, xây dựng quy tắc tập hợp chi phí và từng đối tượng tính giá thành quy định trình tự từng công việc phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng người thực hiện. Đồng thời căn cứ vào quy tắc đã thực hiện để kiểm tra tình hình thực hiện của từng bộ phận kế toán tập hợp chi phí, tính giá thành và các bộ phận có liên quan.
Kế toán phải tổ chức phân tích kịp thời tình hình thực hiện các định mức chi phí sản xuất, dự toán chi phí sản xuất, tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành sản phẩm, cung cấp kịp thời những thông tin cần thiết trong công tác quản lý chi phí và quản lý giá thành.
II/ PHÂN LOẠI CHI PHÍ SẢN XUẤT :
1- Ý nghĩa của việc phân loại chi phí sản xuất.
Trong các doanh nghiệp xây lắp, chi phí sản xuất gồm nhiều loại có tính chất kinh tế khác nhau, có công dụng kinh tế khác nhau và yêu cầu quản lý đối với từng loại chi phí cũng khác nhau. Do vậy việc quản lý sản xuất quản lý chi phí không chỉ dựa vào số liệu phản ánh tổng hợp chi phí sản xuất mà còn phải căn cứ vào số liệu cụ thể của từng loại chi phí riêng biệt để phục chi yêu cầu kiểm tra và phân tích toàn bộ các chi phí sản xuất theo từng công trình, từng hạng mục công từng lơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Do đó phân tích loại chi phí sản xuất là yêu cầu tất yếu để hạch toán chính sác chi phí sản xuất phấn đấu hạ giá thành sản phẩm,
Phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học và thống nhất không những có ý nghĩa quan trọng đối với hạch toán kế toán mà còn là tiền đề quan trọng của kế hoạc hoá.
Kiểm tra và phân tích chi phí sản xuất của toàn doanh nghiệp, thúc đẩy không ngừng tiết kiệm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm. phát huy hơn nữa vai trò công cụ kiểm tra, kiểm soát đối với sự phát triển của doanh nghiệp xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm xây lắp và yêu cầu quản lý của xây dựng cơ bản làm cho việc phân loại chi phí sản xuất có có những nét không giống với những nghành sản xuất khác.
Tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một trong những khâu quan trọng nhất cuả công tác hach toán kế toán trong doanh nghiệp.
Do vậy việc tính toán chính xác chi phí bỏ ra sẽ là tiền đề để tính chính xác giá thành sản phẩm giúp cho việc phân tích đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tổ chức tốt các công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm sẽ đảm bảo xác định đúng nội dung phạm vi chi phí cấu thành trong giá thành sản phẩm lượng giá trị các yếu tố chi phí đã được chuyển dịch vào sản phẩm đã hoàn thành nó có ý nghĩa rất quan trọng và là yêu cầu cấp bách trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Để đáp ứng được những yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm kế toán phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
Kế toán phải xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, chọn phương pháp tập hợp chi phí và tiêu chuẩn chi phí một cách thích hợp với đặc điểm quy trình công nghệ và tổ chức sản xuất của từng đơn vị.
Kế toán phải xác định đúng đắn đối tượng tính giá thành, lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp, phù hợp với đối tượng tính giá thành và phù hợp với đối tượng tính đặc điểm của quy trình công nghệ của đơn vị, xây dựng quy tắc tập hợp chi phí và từng đối tượng tính giá thành quy định trình tự từng công việc phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng người thực hiện. Đồng thời căn cứ vào quy tắc đã thực hiện để kiểm tra tình hình thực hiện của từng bộ phận kế toán tập hợp chi phí, tính giá thành và các bộ phận có liên quan.
Kế toán phải tổ chức phân tích kịp thời tình hình thực hiện các định mức chi phí sản xuất, dự toán chi phí sản xuất, tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành sản phẩm, cung cấp kịp thời những thông tin cần thiêt trong công tác quản lý chi phí và quản lý giá thành.
2- Cách phân loại chi phí sản xuất
Thông thường, chi phí sản xuất được phân loại theo hai tiêu thức chủ yếu sau:
2-1/ Phân loại chi phí sản xuất, kinh doanh theo nội dung tính chất kinh tế của chi phí:
Theo tiêu thức phân loại này, căc cứ vào tính chất, nội dung kinh tế của các chi phí giống nhau xếp vào một yếu tố không phân biệt chi phí đó phát sinh trong lĩnh vực hoạt động nào, ở đâu.
Toàn bộ chi phí sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành các yếu tố sau:
- Chi phí nguyên vật liệu: Bảo toàn bộ chi phí về các loại đối tượng lao động là nguyên nhân vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản.
- Chi phí nhân công: Là toàn bộ tiền lương tiền công và các khoản khác phải trả cho người lao động trong doanh nghiệp.
- Chi phí khấu hao TSCĐ: là toàn bộ số phải tính khấu hao trong tháng (trong kỳ) đồi với tất cả các loại tài sản cố định trong doanh nghiệp.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là số tiền phải trả về các loại dịch vụ mua ngoài, phục vụ sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
- Chi phí khác bằng tiền: Là toàn bộ số chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất trong kinh doanh, ngoài 4 yếu tố chi phí trên.
- Theo cách phân loại này nó giúp ta biết được kết cấu, tỷ trọng từng chi phí mà doan nghiệp đã chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh để lập bản thuyết minh báo cáo tài chính (phần chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố ). Từ đó, vật tư… kiểm tra được tình hình thực hiện được những định mức đề ra, phục vụ cho nhu cầu thông tin, quản trị doanh nghiệp.
2-2/ Phân loại chi phí sản xuất, kinh doanh theo mục đích công dụng của chi phí sản xuất:
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, do vậy căn cứ vào mục đích công dụng của chi phí trong qúa trình hoạt động sản xuất kinh doanh và toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành:
- Chi phí sản xuất chế tạo sản phẩm (trong XDCB, đó là chi phí xây lắp ):
Là toàn bộ số chi phí liên quan đến hoạt động quản lý phục vụ sản xuất trong phạm vi bộ phận, tổ, đội sản xuất. Chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm chia thành chi phí trực tiếp và gián tiếp.
+ Chi phí trực tiếp trong XD cơ bản bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công (chi phí nhân công sử dụng máy và vật liệu cung cấp cho máy)
+ Chi phí gián tiếp trong xây dựng cơ bản còn gọi là chi phí sản xuất chung, là những chi phí phục vụ, quản lý thi công xây lắp phát sinh trong quá trình xây lắp ở các bộ phận, đội xây lắp, trong đó bao gồm một phần chi phí xử dụng máy thi công (phần chi phí khấu hao máy thi công, chi phí chung của đội máy phát sinh trong quá trình thi công xây lắp)
- Chi phí bán hàng trong xây dựng cơ bản: là toàn bộ chi phí liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm có thể là chi phí cho việc quảng cáo, chào hàng, môi giới… các chi phí này phát sinh ngoài quá trình xây lắp nên còn gọi là chi phí ngoài sản xuất. Thông thường trong XDCB ít phát sinh khoản mục chi phí này.
- Chi phí hoạt động khác là toàn bộ chi phí phát sinh trong quá trình tiến hành các hoạt động khác.
Ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp bao gồm chi phí về hoạt động tài chính và chi phí bất thường.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp là toàn bộ các chi phí phục vụ và quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiêp như các chi phí về quản lý kinh doanh và quản lý hành chính, các chi phí khác.
Theo quy định của chế độ kế toán mới hiện nay, giá thành sản phẩm bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp chế tạo sản phẩm.
Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mục đích công dụng của chi phí máy có tác dụng: Xác định số chi phí đã chỉ ra chi từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, là cơ sở cho việc tính gía thành sản phẩm và xác định kết quả sản xuất kinh doanh từng lĩnh vực hoạt động.
2-3/ Các cách phân loại khác
Trên đây là hai cách phân loại chi phí sản xuất chủ yếu phục vụ trực tiếp cho công tác quản lý, công tác kế toán, ngoài ra chi phí sản xuất còn có thể phân loại theo các tiêu thức khác như căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí sản xuất kinh doanh với khối lượng sản phẩm hoàn thành, chia thành chi phí cố định và chi phí thay đổi… Mỗi cách phân loại chi phí sản xuất đều có ý nghĩa riêng của nó, nhưng chúng lại bổ xung cho nhau nhằm giúp cho doanh nghiệp quản lý tốt chi phí sản xuất, cho phép kiểm tra toàn bộ chi phí phát sinh trong phạm vi doanh nghiệp theo từng yếu tố riêng biệt của chúng. Đồng thời có tác dụng kiểm tra việc sử dụng chi phí theo từng khoản mục đích giá thành sản phẩm.
3- Giá thành sản phẩm xây lắp
2-1 Khái niệm về giá thành sản phẩm xây lắp
Vấn đề quan tâm trước hết đối với doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế thị trường là sản phẩm - sản phẩm vừa là mục đích cuối cùng, vừa là nguyên nhân của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhiệm vụ của doanh nghiệp không chỉ là sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm với chất lượng tốt mà còn phải quan tâm đến giá thành sản phẩm và mọi biện pháp hạ giá thành sản phẩm. Bởi vì sản phẩm có chất lượng tốt có giá thành hạ sẽ là tiền đề tích cực giúp doanh nghiệp tạo uy tín tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Đó cũng là tiền đề tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, từ đó tăng tích lũy và đảm bảo đời sống của công nhân viên ngày càng cao.
Giá thành sản phẩm là biểu tượng bằng tiền của các chi phí sản xuất tính cho một khối lượng sản phẩm (công việc, lao vụ…), tính cho một công trình, hạng mục công trình nhất định đã hoàn thành.
Giá thành là chỉ tiêu kinh tế, kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất thi công, trình độ sử dụng lao động vật tư, tiền vốn của doanh nghiệp. Vì nếu doanh nghiệp quản lý tốt các chi phí sản xuất trên thì sẽ là tiền đề tạo ra sản phảm tốt giá thành hạ.
III- PHÂN LOẠI GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP
Căn cứ vào thời gian và cơ sở số liệu để tính, mục đích của việc tính giá thành sản phẩm; giá thành sản phẩ