Không chỉ là sự tiền đề cho sự tiến hoá loài người, lao động của con người còn là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của quá trình sản suất. Lao động giữ vai trò trong việc tái tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Một doanh nghiệp,một xã hội được coi là phát triển khi lao động có năng suất, có chất lượng và đạt hiệu quả cao.
Như vậy trong các chiến lực kinh doanh của một doanh nghiệp, yếu tố con người luôn đặt ở vị trí hàng đầu. Ngoài lao động chỉ phát huy hết khả năng của mình khi sức lao động của họ bỏ ra được đền bù xứng đáng dưới dạng tiền lương. Gắn với tiền lương là các khoản trích theo lương gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. Đây là các quy xã hội thể hiện sự quan tâm của toàn xã hội đến từng thành viên.
Có thể nói rằng,tiền lương và các khoản trích theo lương là một trong số ít vấn đề được cả doanh nghiệp và người lao động quan tâm. Vì vậy, việc hạch toán phân bổ chính xác tiền lương cùng các khoản trích theo lương vào giá thành sản phẩm, tính đúng và thanh toán kịp thời tiền lương cho người lao động sẽ góp phần hoàn thành kế hoạch sản xuất, tăng năng suất lao dộng và cải thiện đời sống con người.
Là một doanh nghiệp nhà nước, nên đối với Công ty bia Nghệ an việc xây dựng một cơ chế trả lương phú hợp, hạch toán kịp thời nhằm nâng cao đời sống lao động cho cán bộ công nhân viên càng cần thiết hơn. Nhận thức được vấn đề trên, tôi chọn đề tài :
'' KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG TẠI CÔNG TY BIA NGHỆ AN ''
NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ BAO GỒM BA PHẦN :
PHẦN I : Cơ sở lý luận chung của công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Doanh nghiệp.
PHẦN II : Tình hình tổ chức hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Công ty bia Nghệ an.
PHẦN III : Một số ý kiến nhận xét và đề xuất nhằm hoàn thiện công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Công ty bia Nghệ an.
Để hoàn thành bản báo cáo tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Nguyễn Quốc Thắng giáo viên bộ môn kế toán DN cùng toàn thể cán bộ nhân viên phòng Tài chính kế toán- Công ty Bia Nghệ an đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi nhiệt tình trong thời gian tôi thực tập và viết bài.
68 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty bia nghệ an, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Không chỉ là sự tiền đề cho sự tiến hoá loài người, lao động của con người còn là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của quá trình sản suất. Lao động giữ vai trò trong việc tái tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Một doanh nghiệp,một xã hội được coi là phát triển khi lao động có năng suất, có chất lượng và đạt hiệu quả cao.
Như vậy trong các chiến lực kinh doanh của một doanh nghiệp, yếu tố con người luôn đặt ở vị trí hàng đầu. Ngoài lao động chỉ phát huy hết khả năng của mình khi sức lao động của họ bỏ ra được đền bù xứng đáng dưới dạng tiền lương. Gắn với tiền lương là các khoản trích theo lương gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. Đây là các quy xã hội thể hiện sự quan tâm của toàn xã hội đến từng thành viên.
Có thể nói rằng,tiền lương và các khoản trích theo lương là một trong số ít vấn đề được cả doanh nghiệp và người lao động quan tâm. Vì vậy, việc hạch toán phân bổ chính xác tiền lương cùng các khoản trích theo lương vào giá thành sản phẩm, tính đúng và thanh toán kịp thời tiền lương cho người lao động sẽ góp phần hoàn thành kế hoạch sản xuất, tăng năng suất lao dộng và cải thiện đời sống con người.
Là một doanh nghiệp nhà nước, nên đối với Công ty bia Nghệ an việc xây dựng một cơ chế trả lương phú hợp, hạch toán kịp thời nhằm nâng cao đời sống lao động cho cán bộ công nhân viên càng cần thiết hơn. Nhận thức được vấn đề trên, tôi chọn đề tài :
'' KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG TẠI CÔNG TY BIA NGHỆ AN ''
NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ BAO GỒM BA PHẦN :
PHẦN I : Cơ sở lý luận chung của công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Doanh nghiệp.
PHẦN II : Tình hình tổ chức hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Công ty bia Nghệ an.
PHẦN III : Một số ý kiến nhận xét và đề xuất nhằm hoàn thiện công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Công ty bia Nghệ an.
Để hoàn thành bản báo cáo tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Nguyễn Quốc Thắng giáo viên bộ môn kế toán DN cùng toàn thể cán bộ nhân viên phòng Tài chính kế toán- Công ty Bia Nghệ an đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi nhiệt tình trong thời gian tôi thực tập và viết bài.
Nghệ an tháng 3 năm 2006.
PHẦN THỨ NHẤT
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH
THEO LƯƠNG Ở TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
I. LÝ LUẬN CHUNG TRONG CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÔNG TÁC HẠCH TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG
1. Sự cần thiết phải tổ chức công tác hạch toán lao động tiền lương(thù lao lao động) và các khoản trích theo lương.
a. Bản chất, khái niệm tiền lương.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp bao giờ cũng phải kết hợp đồng thời ba yếu tố cơ bản đó là lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động trong đố lao động là yếu tố cần thiết giữ vai trò quyết định đối với quá trình sản xuất.
Lao động với tư cách là hoạt động chân tay và trí óc của con người sử dụng các tư liệu lao động nhằm tác động, biến đổi các đối tượng lao động thành những vật phẩm có ích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của xã hội. Xã hội ngày càng phát triển, tính chất quyết định của lao động con người đối với quá trình sản xuất, quá trình sáng tạo ra của cải vật chất biểu hiện rõ rệt. Theo Mác '' Sức lao động là xương là bắp của sản xuất '' có nghĩa là lao động không có giá trị riêng biệt mà lao động tạo ra giá trị. Cái mà người ta mua bán như hàng hoá không phải là lao động mà là sức lao động. Khi sức lao động trở thành hàng hoá thì giá trị của nó được đo bằng lao động thể hiện. Người công nhân, người bán sức lao động nhận được gía trị của sức lao động dưới hình thức tiền lương. Mặt khác để đảm bảo liên tục quá trình tái sản xuất trước hết cần phải tái sản xuất sức lao động nghia là sức lao động mà con người bỏ ra phải được bồi hoàn dưới dạng thù lao lao động.
Tiền lương( tiền công) chính là phần chính là phần thù lao lao động được biểu hiện bằng tiền mà doanh nghiệp trả cho người lao động căn cứ vào thời gian, khối lượng và chất lượng của họ đóng góp. Về bản chất tiền lương chính là biểu hiện bằng tiền của giá cả sức lao động. Bên cạnh đó tiền lương còn là đòn bẩy kinh tế để khuyến khích tinh thần hăng hái lao động, kích thchs và tạo mối quan tâm của người lao động đến kết quả công việc. Nói cách khác tiền lương chính là một nhân tố thúc đẩy năng suất lao động.
Tại các doanh nghiệp, hạch toán lao động và thù lao lao động là một bộ phận phức tạp trong việc hạch toán chi phí kinh doanh bởi vì cách trả thù lao lao động thường không thống nhất giữa các bộ phận, các thời kỳ, các đơn vị... Chi phí lao động là một bộ phận cấu thành nên giá trị của sản phẩm mà sản phẩm là cơ sở tạo ra nguồn thu nhập của doanh nghiệp. Chính vì điều đó mà yêu cầu quản lý chặt chẽ về ccông tác hạch toán tiền lương trên hai phương diện số lượng và chất lượng là việc bức thiết của doanh nghiệp, các đơn vị phải sử dụng lao động một cách có hiệu quả nhằm tiết kiệm chi phí, góp phần hạ giá thành sản phẩm. Mặt khác tổ chức tốt hạch toán lao động và tiền lương của doanh nghiệp là một biện pháp cần thiết cho công tác quản lý lao động và tiền lương của doanh nghiệp đi vào nề nếp, thúc đẩy người lao động chấp hành kỷ luật lao động, tăng năng suất lao động và hiệu suất công tác. Đồng thời nó còn tạo cơ sở cho việc tính, trả lương theo đúng nguyên tắc phân phối theo lao động và là căn cứ để xác định các khoản nghia vụ phải nộp cho Ngân sách, cho các cơ quan phúc lợi xã hội.
b. Vai trò của việc hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
Tiền lương là một bộ phận cấu thành nên giá trị của sản phẩm do vậy doanh nghiệp cần phải có sự quản lý chặt chẽ về công tác tiền lưoưng. Về mặt chất lương các doanh nghiệp hạch toán tiền lương trên cơ sở nhà nước ban hành các hình thức trả lương phù hợp đối với người lao động, phù hợp với trình độ, công việc của mỗi người và phải phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình. Về mặt số lượng doanh nghiệp phải sử dụng lượng lao động hợp lý để từ đó tiết kiệm tiền lương và hạ giá thành sản phẩm. Điều này có ý nghĩa rất lớn và vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp.
Quản lý lao động tốt không chỉ đem lại sự tiết kiệm trong chi phí tiền lương, không xảy ra hiện tượng hao phí thừa thãi lao động mà doanh nghiệp còn hạn chế được sự di chuyển, thay đổi lao động từ nơi này sang nơi khác nghĩa là những người lao động có tay nghề cao sẽ chuyẻen sang nơi làm việc có thu nhập lớn hơn, những lời mời hấp dẫn hơn. Từ đó mà có doanh nghiệp có số lao động tay nghề vững nhiều còn một số doanh nghiệp sẽ dần mất đi những người lao động giỏi nếu như không có sự quản lý chặt chẽ. Sự mất cân bằng, lủng củng trong nội bộ doanh nghiệp bị phá vỡ, tiến trình bình thường sản xuất kinh doanh kém hiệu quả. Nếu công tác tổ chức kế toán tiền lương tại các doanh nghiệp được tổ chức khoa học, hợp lý giúp cho việc hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp nói chung đi vào nề nếp nên từ giảm đưọc các khoản chi phí không cần thiết. Vì vậy vấn đề tiết kiệm chi phí sản xuất nói chung luôn được đặt trong mối quan hệ với các chi phí khác.
Ngoài tiền lương để tái sản xuất sức lao động và đảm bảo cuộc sống lâu dài cho người lao động, theo chế độ hiện hành thì doanh nghiệp còn phải trích vào chi phí sản xuất kinh doanh một bộ phận chi phí gồm các khoản trích bảo hiểm xã hội( BHXH ), bảo hiểm y tế( BHYT ) và kinh phí công đoàn( KPCĐ ).
- BHXH được trích lập để tài trợ cho trường hợp CNV tạm thời hay vĩnh viễn mất sức lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mất sức, nghỉ hưu ...
- BHYT để tài trợ cho việc phòng chữa bệnh và chăm sóc, bảo vệ quyền lợi của người lao động.
- KPCĐ chủ yếu để cho hoạt động của tổ chức của giới lao động chăm sóc, bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Cùng với tiền lương, các khoản trích lập quỹ nói trên hợp thành khoản chi phí về lao động sống trong giá thành sản phảam. Việc tính toán chi phí về lao động sống phải trên cơ sở quản lý và theo dõi quá trình huy động sử dụng lao động trong sản xuất kinh doanh, ngược lại việc tính đúng thanh toán kịp thời đầy đủ tiền lương và các khoản liên quan cho người lao động, một mặt kích thích người lao động quan tâm đến thời gian, kết quả và chất lượng của lao động, mặt khác thúc đẩy việc sử dụng lao động hợp lý, có hiệu quả.
2. Nhiệm vụ của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
Kế toán là ngôn ngữ của kinh doanh, là nghệ thuật ghi chép, phân loại tổng hợp các cơ sở dữ liệu hoạt động kinh doanh nhằm cung cấp thông tin kinh doanh choi các nhà quản lý, những người trực tiếp và gián tiếp có lợi ích từ đó.
Kế toán lao động tiền lương có chức năng cung cấp đầy đủ các số liệu cần thiết trong kỳ về việc tính toán phân bổ chính xác các khoản tiền lương, BHXH, BHYT, KPCĐ góp phần trong việc tính toán tổng chi phí phát sinhtrong kỳ làm cơ sở hạ thấp giá thành sanr phẩm, tăng thu nhập cho người lao động và cho doanh nghiệp.
Để thực hiện chức năng kế toán trong việc điều hành, quản lý lao động của doanh nghiệp, góp phần tích cực quản lý lao động về tiền lương, BHXH, BHYT, KPCĐ kế toán lao động và tiền lương trong doanh nghiệp cần phải thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
a. Tổ chức ghi chép, phản ánh tổng hợp một cách trung thực, kịp thời, đầy đủ, chính xác tình hình hiện có và sự biến động về số lượng, chất lượng lao động, tình hình sử dụng thời gian lao động về kết quả lao động tính toán chính xác, kịp thời, nhanh chóng, đúng chế độ các khoản tiền lương, tiền thưởng, các khoản trợ cấp, phụ cấp cho người lao động. Đồng thời phải phản ánh đầy đủ, đáp ứng kịp thời, chính xác tình hình thanh toán các khoản trên cho người lao động và tình hình chấp hành các chinh sách chế độ về lao động tiền lương.
Tính toán phân bổ đúng đối tượng các khoản tiền lương và các khoản trích theo lương đồng thời phân bổ chi phí nhân công cho các đối tượng sử dụng lao động một cách chinh xác phục vụ cho việc tập hợp chi phí, tính giá thành sản phẩm.
c. Lập báo cáo về lao động, tiền lương và các khoản trích theo luong thuộc trách nhiệm của kế toán. Đồng thời tiến hành tổ chức phân tích tình hình quản lý, sử dụng lao động, thời gian và kết quả lao động và tình hình quản lý tiền lương , quỹ BHXH, đề xuất các biện pháp khai thác có hiệu quả tiềm năng lao động sẳn có trong doanh nghiệp mình.
d. Phân loại lao động : Do lao động trong doanh nghiệp có nhiều khác nhau nên để cho việc quản lý và hoạch toán thuận lợi, cần thiết phải tiến hành phân loại. Phần loại lao động là việc sắp xếp lao động vào các nhóm khác nhau theo đặc trưng nhất định. Về mặt quản lý và hạch toán lao động thường được phân theo các tiêu thức sau:
* Phân theo thời gian lao động: Theo cách phân loại này lao động có thể chia thành lao động thường xuyên (bao gồm cả hợp đồng ngắn hạn và dài hạn) lao động tạm thời, mang tính thời vụ. Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp dễ dàng nắm bắt được tổng số lao động của mình từ đó có kế hoạch sử dụng, bồi dưỡng, tuyển dụng và huy động khi cần thiết. Đồng thời xác định được các khoản nghĩa vụ với người lao động và với nhà nước được chính xác.
* Phân theo quan hệ với quá trình sản xuất: Gồm hai loại
- Lao động trực tiếp sản xuất: chính là bộ phận công nhân trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ.
- Lao động gián tiếp sản xuất: chính là bộ phận lao động tham gia một cách gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thuộc bộ phận này bao gồm nhân viên kỷ thuật, nhân viên quản lý kinh tế, nhân viên quản lý hành chính.
Với cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp đánh giá được tính hợp lý của cơ cấu lao động. Từ đó có biện pháp tổ chức, bố trí lao động phù hợp với yêu cầu công việc.
* Phân theo chức năng lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh:
Xét về chức năng, trong một doanh nghiệp sản xuất công nghiệp có thể chia nhân công thành ba loại sau:
- Nhân công thực hiện chức năng sản xuất, chế biến: bao gồm nhân công trực tiếp sản xuất hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ như công nhân trực tiếp sản xuất, nhân viên phân xưởng ...
- Nhân công thực hiện chức năng lưu thông, tiếp thị: bao gồm bộ phận nhân công tham gia hoạt động bán hàng, tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, lao vụ dịch vụ như nhân viên bán hàng, tiếp thị, nghiên cứu và tiếp cận thị trường ...
- Nhân công thực hiện chức năng quản lý hành chính: là bộ phận nhân công tham gia quá trình hoạt động quản trị kinh doanh và quản lý hành chính của doanh nghiệp như nhân viên quản lý kinh tế, nhân viên quản lý hành chính ...
Phần thù lao lao động trả cho bộ phận nào sẽ hoàn thành nên chi phí của bộ phận đó do đó theo cách phân loại này giúp cho việc tập hợp chi phí lao động được chính xác, kịp thời, phân định được chi phí sản xuất và chi phí thời kỳ. Mặt khác giúp cho việc phân bổ chi phí nhân công đựơc chính xác thuận lợi, tạo điều kiện cho việc tính giá thành sản phẩm được nhanh chóng.
II. HÌNH THỨC TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG.
Thực chất của việc trả lương là các quy phạm được thừa nhận để xác định tiền lương phải trả cho người lao động dựa trên số lượng sức lao động dã hao phí.
Tiền lương của ngưòi lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động, nó cũng được trả theo năng suất lao động, chất lượng hiệu quả lao động. Mặt khác tiền lương có thể được trả theo thời gian làm việc(giờ, ngày, tuần, tháng) hoặc trả theo khối lượng công việc hoàn thành ... Kết hợp với chế độ phụ cấp, tiền lương, tiền làm ngoài giờ, trong chi phí nhân công có bộ phận thuộc chi phí trực tiếp, gián tiếp, có loại biến phí, có loại định phí ... Việc tính và trả chi phí lao động có thể thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo đặc điểm hoạt động kinh doanh, tính chất công việc và trình độ quản lý của doanh nghiệp. Mục đích cuả chế độ tiền lương là nhằm quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động. Trên thực tế ở Việt nam hiện nay các doanh nghiệp thường áp dụng các hình thức tiền lương sau:
+ Tiền lương theo thời gian
+ Tiền lương theo sản phẩm
+ Tiền lương khoán
1. Tiền lương theo thời gian: Đây là hình thức mà tiền lương được dựa trên khả năng, thao tác, trình độ kỷ thuật và thời gian làm việc thực tế. Hình thức này mang tính chất bình quân, chưa thực sự gắn với kết quả sản xuất, không đánh giá đúng kết quả lao động của mỗi người, không đảm bảo được nguyên tắc '' làm theo năng lực, hưởng theo lao động '' theo hình thức này thì:
Tiền lương thời gian Thời gian Đơn giá tiền lương
phải trả cho CNV = làm việc x theo thời gian
Hình thức lương này thường được áp dụng cho các đơn vị hành chính sự nghiệp, cho các lao động làm công tác văn phòng như hành chính quản trị, tổ chức lao động, thống kê, tài vụ- kế toán ... Những nhân viên này không có điều kiện xác định được khối lượng công việc hoàn thành. Do những hạn chế trên mà hình thức này chỉ được áp dụng cho những công việc không thể xác định đưọc hao phí lao động đã tiêu hao vào đó.
Tuỳ theo điều kiện và trình độ quản lý, thời gian lao động có thể áp dụng hai hình thức trả lương đó là hình thức trả lương theo thời gian giản đơn và hình thức trả lương theo thời gian có thưởng.
* Hình thức trả lương theo thời gian giản đơn: Tiền lương theo thời gian giản đơn đó là số tiền trả cho người lao động căn cứ vào bậc lương và thời gian làm việc thực tế không xét đến thái độ lao động và kết quả công việc hoàn thành.
Hình thức này có ưu điểm là đơn giản dễ theo dõi nhưng bên cạnh đó chúng ta thấy tiền lương được tính theo cách trả lương này dựa trên mức lương cấp bậc mang tính bình quân vì thế nó không khuyến khích người lao động trong việc làm cũng như phát huy tính sáng tạo, nó không gắn bó quyền lợi cá nhân với quyền lợi tập thể.
* Hình thức trả lương theo thời gian có thưởng: Là tiền lương đã trả cho CNV căn cứ vào mức lương thời gian làm việc có kết hợp khen thưởng khi ddạt và vượt mức các chỉ tiêu quy định như : tiết kiệm thời gian lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu, tăng năng suất lao động, đảm bảo nhu cầu sản xuất ... Hình thức trả lương này là một trong những biện pháp kích thích vật chất đối với người lao động tạo cho họ gắn bó với công việc.
2. Hình thức trả lương theo sản phẩm:
Hình thức trả lương theo sản phẩm là hình thức tính theo khối lượng( số lượng ) sản phẩm, công việc hoàn thành đảm bảo yêu cầu chất lượng quy định và đơn giá tiền lương tính cho một đơn vị sản phẩm, công việc đó.
Tiền lương Khối lượng(số lượng) SP đơn giá
phải trả = công việc hoàn thành x tiền lương
CNV đủ tiêu chuẩn sản phẩm
Việc xác định tiền lương sản phẩm phải dựa trên cơ sở các tài liệu hoạch toán kết quả lao động, chẳng hạn như phiếu xác nhận sản phẩm hoặc công việc hoàn thành và đơn giá tiền lương mà Doanh nghiệp áp dụng đối với từng loại sản phẫm, công việc . Đây là hình thức trã lương phù hợp với nguyên tắc, phân phối theo lao động, gắn chặt số lượng lao động với chất lượng lao động, khuyến khích ngưới lao động hăng say lao động, góp phần làm tăng thêm sản phẩm cho xã hội.
Trong việc trả lương theo sản phẩm đòi hỏi việc xây dựng cá định mức kinh tế kỷ thuật chính xác để làm cơ sở cho việc xây dựng đơn giá tiền lương đối với từng loại sản phẩm, từng công việc một cách hợp lý. Tuỳ theo yêu cầu kích thích người lao động để nâng cao chất lượng, năng suất lao động, sản lượng hay đẩy nhanh tiến độ sản xuất mà có thể áp dụng các đơn giá tiền lương sản phẩm khác nhau, do đó có các dạng tiền lương sản phẩm khác nhau.
- Tiền lương sản phẩm có thể áp dụng đối với lao động trực tiếp sản xuất gọi là tiền lương sản phẩm trực tiếp hoặc có thể áp dụng đối với người lao động gián tiếp phục vụ sản xuất sản phẩm gọi là tiền lương sản phẩm gián tiếp:
+ Lương sản phẩm trực tiếp là hình thức trả lương căn cứ vào số lượng và chất lượng sản phẩm mà công nhân đó hoàn thành trong thời gian làm việc và được xác định bằng số lượng sản phẩm đã sản xuất nhân với đơn giá mỗi đơn vị sản phẩm được trả.
+ Lương sản phẩm gián tiếp là tiền lương trả cho CNV phụ, cùng tham gia sản xuất với công nhân chính đã hưởng lương theo sản phẩm được xác định căn cứ vào hệ số giữa mức lương của công nhân phụ sản xuất ra với sản lượng sản phẩm đã định mức cho công nhân chính và nhân với sản phẩm công nhân chính sản xuất ra. Hoặc trên cơ sở thang lương và bậc lương của công nhân phụ trả theo tỷ lệ phần trăm( % ) hoàn thành các định mức sản xuất quy định cho công nhân chính.
- Tiền lương sản phẩm tính theo đơn giá tiền lương cố định thường được gọi là tiền lương sản phẩm giản đơn.
- Tiền lương sản phẩm giản đơn kết hợp với tiền thưởng về năng suất nâng cao chất lượng sản phẩm ... gọi là tiền lương sản phẩm có thưởng, là tiền lương trả cho công nhân lao động căn cứ vào số lượng sản phẩm đã sản xuất ra theo đơn giá mỗi đơn vị sản phẩm kết hợp với một hình thức tiền thưởng khi hoàn thành (hoặc hoàn thành vượt mức). Các dữ liệu quy định như : tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao chất lượng sản phẩm ...
- Tiền lương sản phẩm tính theo đơn giá sản phẩm tăng dần (luỹ tiến) áp dụng theo mức độ hoàn thành vượt khối lượng sản phẩm đựoc gọi là tiền lương sản phẩm luỹ tiến.
- Hình thức trả lương này có tác dụng khuyến khích nâng cao năng suất lao động và thường áp dụng đói với những nơi sản xuất còn chậm, nhằm tăng sản lượng sản phẩm đó.
Như vậy, hình thức tiền lương sản phẩm rất có ưu điểm đó là đảm bảo được nguyên tắc phân phối theo lao động, tiền lương gắn chặt với số lượng, chất lượng lao động, do đó kích thích người lao động quan tâm đến kết quả lao động và chất lượng lao động của mình. Thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng sản phẩm cho xã hội. Vì vậy hình thức tiền lương sản phẩm được áp dụng rộng rãi. Song điều cần chú ý là hình thức trả lương theo sản phẩm tập thể (sản phẩm công việc do nhóm, tổ lao động cùng tạo ra) thì cần vận dụng cách tính chia lương phù hợp, đó là chia theo thời gian làm việc và cấp bậc kỷ thuật kết hợp bình điểm hoặc phân loại A, B, C ... Trong các nghành thương nghiệp, dịch vụ có thể chia lương theo khoản tỷ lệ doanh thu bán hàng, hình thức này sẽ tạo cho CNV năng động tìm nguồn hàng nhặy bén với thị trường.
III. QUẢN LÝ TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN