Chuyên đề Lý thuyết tài chính tiền tệ - Nợ công ở Việt Nam

Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng được hoàn thiện cả về lượng và chất , kéo theo đó là xu thế tất yếu hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng giao lưu, tăng cường hợp tác hóa, chuyên môn hóa và phân công lao động như hiện nay, toàn cầu hóa với những thế mạnh của nó đang là một trong những mục tiêu chiến lược quan trọng cần được quan tâm và đề cao ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Không chỉ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung trên phạm vi toàn cầu, mở ra nhiều cơ hội và hướng đi sáng lạn cho các thành phần kinh tế cá biệt, thúc đẩy phát huy nội lực và ngoại lực một cách có hiệu quả, quá trình “san phẳng thế giới” này đã thực sự trở thành “một sức mạnh mới” định hình lại thế giới trong khoảng thời gian trở lại đây. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, toàn cầu hóa cũng tiềm ẩn không ít rủi ro, khi mà dưới tác động mạnh mẽ của nó, một biến cố xảy đến với quốc gia này có thể là nguyên nhân làm lung lay pháo đài kinh tế của quốc gia khác trong mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng. Một trong những biểu hiện rõ nét và đặc trưng nhất của mặt hạn chế này, ta không thể không kể tới sức công phá và lan tỏa dữ dội của các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới – một tất yếu khách quan gây nhiễu động kinh tế toàn cầu. Nếu như năm 2008 đánh dấu một mốc đen tối trong lịch sử kinh tế của hầu khắp các quốc gia trên thế giới với cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng xuất phát từ “bong bóng thị trường bất động sản Mỹ” thì sang đến cuối năm 2009, hệ thống kinh tế toàn cầu lại một lần nữa chao đảo trước nguy cơ công phá mạnh mẽ của khủng hoảng nợ công châu Âu. Bùng nổ trước tiên ở Hy Lạp, hiệu ứng domino của khủng hoảng nợ công nhanh chóng lan rộng sang các quốc gia trong khối cộng đồng chung EU, tiếp đến là các nền kinh tế lớn nhỏ khác nhau trên thế giới, báo hiệu nguy cơ trở thành vấn nạn nhức nhối trong thời gian kéo dài. Từ đầu năm 2010 đến nay, thế giới liên tục tiếp nhận vô vàn thông tin về tình hình nợ công của các nước châu Âu, những biện pháp đặc biệt được đưa ra, những gói cứu trợ khẩn cấp từ nhiều tổ chức kinh tế khác nhau như IMF, ECB, để giảm thiểu nguy cơ vỡ nợ của các Chính phủ. Thêm vào đó, song hành với tình trạng bất lực trước khủng hoảng của nhiều khu vực kinh tế hiện nay, khủng hoảng nợ công châu Âu còn biểu hiện nguy cơ lan truyền nhanh và khả năng biến tướng thành khủng hoảng nợ công toàn cầu. Vấn đề nêu trên không chỉ tác động xấu đến nền kinh tế của các nước trong vòng xoáy nợ công, mà hơn thế nữa, còn đe dọa nghiêm trọng tới sự phát triển của kinh tế thế giới nói chung và trở thành mối quan tâm lo ngại to lớn đối với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu về khủng hoảng nợ công và rút ra bài học kinh nghiệm trong quản lý nợ công ở Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách đối với nước ta trong thời điểm hiện tại. Để làm rõ vấn đề này, bài tiểu luận của nhóm chúng em sẽ đi sâu phân tích cơ sở, thực trạng, nguyên nhân, tác động của khủng hoảng nợ công, phân tích và đánh giá sơ bộ diễn biến tiếp theo, từ đó đưa ra một số giải pháp và công cụ khắc phục hợp lý, hiệu quả nhằm giải quyết vấn đề này. Bài làm cũng tập trung liên hệ vấn đề khủng hoảng nợ công và thực trạng nợ công tại Việt Nam, nêu bật lên cơ cấu, nguyên nhân cùng những đặc trưng cá biệt của nợ công Việt Nam, tiến tới đề xuất một số hướng đi khả thi nhằm góp phần quản lý có hiệu quả nợ công trong nước. Với nguồn tư liệu hạn chế và do tính chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu, bài làm chắc chắn có nhiều thiếu sót cũng như còn nhiều vấn đề cần bổ sung, làm rõ. Nhóm thực hiện kính mong nhận được sự thông cảm cũng như những ý kiến hỗ trợ, phản hồi tích cực từ cô và các bạn để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.

docx27 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1504 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Lý thuyết tài chính tiền tệ - Nợ công ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯỜNG I: LÝ LUẬN CHUNG 3 1. Nợ công 3 1.1 Khái niệm 3 1.2. Phân loại 5 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công 6 1.4. Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công 7 1.5. Quản lý nợ công 8 2. Khủng hoảng nợ công 9 2.1. Khủng hoảng nợ công là gì? 9 2.2. Đặc điểm của khủng hoảng nợ công 11 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG 11 Thực trạng nợ công ở một số nước trên thế giới 11 Khủng hoảng nợ công 11 1.2. Nguyên nhân khủng hoảng và hậu quả 14 2. Thực trạng nợ công ở Việt Nam 15 2.1. Tình hình sử dụng nợ công 17 2.2. Tình hình trả nợ công 18 2.3. Đánh giá, phân tích tình hình nợ công ở Việt Nam 18 2.3.2. Cơ cấu nợ 18 2.3.3. Hiệu quả sử dụng các khoản nợ công 20 3 Giải pháp và định hướng cho nợ công của Việt Nam 21 KẾT LUẬN 25 TÀI LIỆU THAM KHẢO 26 LỜI MỞ ĐẦU --------------›¶š-------------- Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng được hoàn thiện cả về lượng và chất , kéo theo đó là xu thế tất yếu hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng giao lưu, tăng cường hợp tác hóa, chuyên môn hóa và phân công lao động như hiện nay, toàn cầu hóa với những thế mạnh của nó đang là một trong những mục tiêu chiến lược quan trọng cần được quan tâm và đề cao ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Không chỉ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung trên phạm vi toàn cầu, mở ra nhiều cơ hội và hướng đi sáng lạn cho các thành phần kinh tế cá biệt, thúc đẩy phát huy nội lực và ngoại lực một cách có hiệu quả, quá trình “san phẳng thế giới” này đã thực sự trở thành “một sức mạnh mới” định hình lại thế giới trong khoảng thời gian trở lại đây. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, toàn cầu hóa cũng tiềm ẩn không ít rủi ro, khi mà dưới tác động mạnh mẽ của nó, một biến cố xảy đến với quốc gia này có thể là nguyên nhân làm lung lay pháo đài kinh tế của quốc gia khác trong mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng. Một trong những biểu hiện rõ nét và đặc trưng nhất của mặt hạn chế này, ta không thể không kể tới sức công phá và lan tỏa dữ dội của các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới – một tất yếu khách quan gây nhiễu động kinh tế toàn cầu. Nếu như năm 2008 đánh dấu một mốc đen tối trong lịch sử kinh tế của hầu khắp các quốc gia trên thế giới với cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng xuất phát từ “bong bóng thị trường bất động sản Mỹ” thì sang đến cuối năm 2009, hệ thống kinh tế toàn cầu lại một lần nữa chao đảo trước nguy cơ công phá mạnh mẽ của khủng hoảng nợ công châu Âu. Bùng nổ trước tiên ở Hy Lạp, hiệu ứng domino của khủng hoảng nợ công nhanh chóng lan rộng sang các quốc gia trong khối cộng đồng chung EU, tiếp đến là các nền kinh tế lớn nhỏ khác nhau trên thế giới, báo hiệu nguy cơ trở thành vấn nạn nhức nhối trong thời gian kéo dài. Từ đầu năm 2010 đến nay, thế giới liên tục tiếp nhận vô vàn thông tin về tình hình nợ công của các nước châu Âu, những biện pháp đặc biệt được đưa ra, những gói cứu trợ khẩn cấp từ nhiều tổ chức kinh tế khác nhau như IMF, ECB,…để giảm thiểu nguy cơ vỡ nợ của các Chính phủ. Thêm vào đó, song hành với tình trạng bất lực trước khủng hoảng của nhiều khu vực kinh tế hiện nay, khủng hoảng nợ công châu Âu còn biểu hiện nguy cơ lan truyền nhanh và khả năng biến tướng thành khủng hoảng nợ công toàn cầu. Vấn đề nêu trên không chỉ tác động xấu đến nền kinh tế của các nước trong vòng xoáy nợ công, mà hơn thế nữa, còn đe dọa nghiêm trọng tới sự phát triển của kinh tế thế giới nói chung và trở thành mối quan tâm lo ngại to lớn đối với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu về khủng hoảng nợ công và rút ra bài học kinh nghiệm trong quản lý nợ công ở Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách đối với nước ta trong thời điểm hiện tại. Để làm rõ vấn đề này, bài tiểu luận của nhóm chúng em sẽ đi sâu phân tích cơ sở, thực trạng, nguyên nhân, tác động của khủng hoảng nợ công, phân tích và đánh giá sơ bộ diễn biến tiếp theo, từ đó đưa ra một số giải pháp và công cụ khắc phục hợp lý, hiệu quả nhằm giải quyết vấn đề này. Bài làm cũng tập trung liên hệ vấn đề khủng hoảng nợ công và thực trạng nợ công tại Việt Nam, nêu bật lên cơ cấu, nguyên nhân cùng những đặc trưng cá biệt của nợ công Việt Nam, tiến tới đề xuất một số hướng đi khả thi nhằm góp phần quản lý có hiệu quả nợ công trong nước. Với nguồn tư liệu hạn chế và do tính chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu, bài làm chắc chắn có nhiều thiếu sót cũng như còn nhiều vấn đề cần bổ sung, làm rõ. Nhóm thực hiện kính mong nhận được sự thông cảm cũng như những ý kiến hỗ trợ, phản hồi tích cực từ cô và các bạn để bài thảo luận được hoàn thiện hơn. * * * CHƯỜNG I: LÝ LUẬN CHUNG 1. Nợ công: 1.1 Khái niệm: Hiện nay, có thể thấy, trên thế giới xuất hiện rất nhiều định nghĩa khác nhau về nợ công, tùy thuộc vào mục đích và phạm vi sử dụng của mỗi tổ chức, mỗi quốc gia. « Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (WB), nợ công là toàn bộ những khoản nợ của Chính phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh. Trong đó: - Nợ của Chính phủ: bao gồm nợ trong nước, nợ nước ngoài của Chính phủ và các đại lý của Chính phủ; các tỉnh, thành phố hoặc các tổ chức chính trị trực thuộc Chính phủ và các đại lý của các tổ chức này, các doanh nghiệp Nhà nước. - Nợ của Chính phủ bảo lãnh: gồm những khoản nợ trong nước và nợ nước ngoài của khu vực tư nhân do Chính phủ đứng ra bảo lãnh. « Theo quan điểm của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công được hiểu là nợ của khu vực tài chính công và nợ của khu vực phi tài chính công. Trong đó: - Khu vực tài chính công gồm: Các tổ chức tiền tệ (Ngân hàng trung ương, các tổ chức tín dụng Nhà nước) và các tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín dụng không cho vay mà chỉ có chức năng hỗ trợ phát triển) - Khu vực phi tài chính công gồm: Chính phủ, tỉnh thành phố, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính Nhà nước. « Theo quan điểm của Luật quản lý nợ công Việt Nam: Nợ công bao gồm: nợ chính phủ; nợ được Chính phủ bảo lãnh; nợ chính quyền địa phương. Như vậy, xét theo khái niệm này, cần lưu ý là không tồn tại sự đồng nhất giữa: “Nợ chính phủ” và “nợ công”. Nợ chính phủ trong trường hợp này chỉ là một trong ba yếu tố cấu thành nên nợ công. Đối với ba cách định nghĩa trên, tuy mỗi cách mang tính đặc thù riêng và thích hợp để sử dụng trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau song chúng đều có chung một số đặc điểm như: là khoản tiền nợ liên quan đến chính phủ và hoạt động của chính phủ, mục đích là để tài trợ bù đắp cho thâm hụt ngân sách... Do đó, để đơn giản hóa cách thức tiếp vận vấn đề và đảm bảo tính logic khi phân tích, nghiên cứu khủng hoảng nợ công ở các phần tiếp theo, có thể hiểu khái quát về nợ công thông qua khái niệm sau: Nợ công, còn gọi là Nợ chính phủ hay Nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách. Sử dụng cách định nghĩa này, ta cần quan tâm tới một số lưu ý sau đây: - Khái niệm đưa ra đã đồng nhất Nợ chính phủ với Nợ công và Nợ quốc gia. - Định nghĩa này được áp dụng tại phần lớn các quốc gia trên thế giới, những nước đi theo hướng kinh tế thị trường thực chất, không tồn tại thành phần doanh nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo kiểm soát trực tiếp của Nhà nước - Thâm hụt Ngân sách Nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách Nhà nước, là tình trạng khi tổng chi tiêu của Ngân sách Nhà nước vượt quá các khoản thu trong cân đối (thu "không mang tính hoàn trả") của Ngân sách Nhà nước. Như vậy, một cách chung nhất, có thể hiểu nợ công là hậu quả của vấn đề chi tiêu công bất hợp lý. Bởi lẽ mỗi quốc gia đều phải cân đối mức thu chi nên khi thu không đủ chi, Nhà nước phải đi vay dẫn đến hình thành nợ công. Cũng theo cách tiếp cận này, nợ công có thể được tính bằng thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Ví dụ: Năm Thâm hụt Ngân sách Nợ công 1 1 triệu USD 1 triệu USD 2 1.2 triệu USD 2.2 triệu USD 3 1.3 triệu USD 3.5 triệu USD Trên lý thuyết, mỗi vấn đề kinh tế nên có một khái niệm chung thống nhất để đảm bảo tính chặt chẽ trong phân tích, Tuy nhiên, thực tế chỉ ra rằng có nhiều luồng tư tưởng và quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế về cùng một hiện tượng, sự việc. Trong trường hợp này, mỗi khu vực, quốc gia có một góc độ đánh giá khác nhau về tình hình nợ công. Căn cứ vào cơ cấu nợ công của mỗi quốc gia, ta sẽ nhận dạng: quốc gia này sử dụng định nghĩa nào đối với vấn đề nợ công của mình. 1.2. Phân loại: Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau, nợ công có thể được chia thành nhiều bộ phận riêng biệt, có mối quan hệ tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau. Sau đây là ba trong số những các phân loại chủ yếu được sử dụng đối với các khoản nợ công của mỗi quốc gia, phục vụ trực tiếp cho nhu cầu: của quốc gia đó. « Phân loại theo nguồn vay nợ: - Nợ trong nước: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư trong nước - Nợ nước ngoài: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư nước ngoài. Trong thực tế, khi tiến hành thống kê và tính toán giá trị nợ công ở một số nước, trong đó có Việt Nam, người ta thường chỉ quan tâm đến khoản nợ nước ngoài mà mặc nhiên bỏ qua các khoản nợ trong nước. Đây là một hạn chế cần sửa đổi; bởi lẽ, thiếu sót này nhiều khi đưa đến kết quả không chính xác cho giá trị nợ công của một quốc gia, gây khó khăn cho các nhà quản lý trong việc nhận thức kịp thời và đúng đắn tình trạng nợ của đất nước mình để hoạch định các chính sách ứng phó kịp thời và hợp lý. « Phân loại theo chủ thể nợ: - Nợ của Chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật; không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. - Nợ của chính quyền địa phương: là các khoản nợ do ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành. - Nợ được chính phủ bảo lãnh (áp dụng đối với khái niệm Nợ công bao gồm khoản nợ chính phủ bảo lãnh): là các khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước mà chính phủ đứng ra bảo lãnh. « Phân loại dựa vào thời hạn nợ: - Nợ ngắn hạn: các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm trở xuống. - Nợ trung hạn: các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm đến 10 năm. - Nợ dài hạn: các khoản nợ có thời hạn từ trên 10 năm. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công Một yêu cầu tối quan trong đối với các Chính phủ là đảm bảo tỷ lệ nợ công so với GDP là ổn định, qua đó tăng hiệu quả quản lý nợ, quản lý thâm hụt ngân sách và làm tốt các công tác dự báo, lập kế hoạch Ngân sách Nhà nước, góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô. Để làm được điều đó, ta cần phải nắm rõ các nhận tố ảnh hưởng đến nợ công, nhận biết các tác động, ngăn chặn từ đầu, phòng tránh và giải quyết kịp thời các tác động có khả năng gây bất ổn tới tỉ lệ này. Thứ nhất, nợ công phụ thuộc chặt chẽ vào cân bằng ngân sách cơ bản. Từ bản chất nợ công đã phân tích ở trên, có thể nhận thấy mức thâm hụt ngân sách phản ảnh giá trị tuyệt đối của nợ công chính phủ. Điều đó đồng nghĩa với việc, khi khoảng cách thâm hụt nhỏ, những khoản vay bù đắp giảm đi, làm cho nợ công được hạn chế. Thứ hai, lãi suất thực tế có tác động đến các khoản nợ vay của chính phủ, quyết định xem các khỏan nợ này sẽ đắt hơn (khi lãi suất tăng lên) hay giảm đi (khi lãi suất giảm đi). Mặt khác, việc lãi suất tăng sẽ làm cho các khoản vay của chính phủ khó khăn hơn, không đảm bảo được cho vay nợ đúng hạn. Thứ ba, tốc độ tăng trưởng thực tế ảnh hưởng đến nợ công theo hai cơ chế. Một là, nền kinh tế phát triển hơn thì chính phủ dễ dàng vay tiền hơn, dẫn đến khả năng nợ công tăng lên. Hai là, tăng trưởng nhanh thường đi kèm với lạm phát, dẫn đến việc cấp bù lạm phát cho các khoản nợ đã đến hạn thanh toán. Thứ tư, lãi suất ngoại tệ có liên quan đến các khoản vay nước ngoài của chính phủ. Cơ chế tác động của nhân tố này tương tự như lãi suất thực tế, chỉ khác nhau đề đối tượng hưởng lãi. Thứ năm, tỷ giá cũng có tác động tới việc vay nợ nước ngoài. Sự biến động của tỉ giá ảnh hưởng đến chi phí của khoản nợ công: có thể tăng lên (khi tỉ giá tăng) hoặc giảm đi (khi tỉ giá giảm). 1.4. Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công Dựa vào đặc điểm và điều kiện cho vay của các khoản vay nợ, các hình thức vay nợ được chia vào hai nhóm chính là: vay nợ gián tiếp (chủ yếu thông qua phát hành trái phiếu) và vay nợ trực tiếp từ trong và ngoài nước. Mỗi cách vay nợ có ưu, nhược điểm riêng, thích hợp sử dụng cho những hoàn cảnh riêng, trong điều kiện xếp hạng tín dụng và vị thế nhất định của mỗi quốc gia. « Vay nợ gián tiếp: Chính phủ các nước có thể tiến hành vay nợ gián tiếp từ các tổ chức, cá nhân để bù đắp thâm hụt ngân sách thông qua việc phát hành các công cụ nợ như: tín phiếu, trái phiếu, hình thức chứng chỉ... Trái phiếu trong trường hợp này được hiểu theo nghĩa rộng, gồm có: trái phiếu (T-bonds), trái phiếu chính quyền địa phương (Municipal Bonds), trái phiếu ngoại tệ, công trái xây dựng tổ quốc và trái phiếu công trình. ; trong đó, trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán. « Vay trực tiếp Ngoài cách phát hành giấy vay nợ như một tài sản đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ của mình, Chính phủ các nước còn một lựa chọn khác để tài trợ cho các khoản thâm hụt đáng kể thông qua con đường vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á,…). Các nguồn vay này tồn tại dưới một số hình thức phổ biến như: Vay viện trợ phát triển chính thức, vay có tính chất thương mại hay vay ưu đãi. Thông thường, các hình thức trực tiếp này được Chính phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì những nước này khó có khả năng vay nợ bằng phát hành trái phiếu chính phủ. Trong số các khoản vay trực tiếp đã liệt kê, nguồn vay ODA là nguồn vốn bổ sung đều đặn nhất và có tầm quan trọng lớn đối với các nước đang phát triển. Nguồn vay này có thể nhận được dưới các thể thức: viện trợ song phương, viện trợ đa phương, viện trợ không hoàn lại hay viện trợ của tổ chức phi chính phủ. .1.5. Quản lý nợ công: Nhìn lại lịch sử nền kinh tế thế giới từ trước tới nay, có thể thấy nợ công là một bộ phận thường trực trong các kế hoạch phát triển kinh tế và chưa bao giờ vắng bóng trong dự toán ngân sách Nhà nước của bất cứ quốc gia, châu lục nào. Do tính chất cần thiết khách quan và không thể thay thế được của nó, nhiệm vụ quản lý nợ công đang trở nên ngày càng quan trọng. Thứ nhất, quản lý nợ công, cụ thể là đưa ra cấu trúc các khoản nợ giúp ngăn chặn lây lan sự bất ổn kinh tế. Thứ hai, chính sách quản lý nợ công thận trọng giúp giảm thiểu những cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ bắt nguồn từ khâu quản lý nợ yếu kém. Thứ ba, một cơ chế quản lý tốt sẽ giúp chính phủ xác định được: vay nợ bao nhiêu là hợp lý để vừa đảm bảo nhu cầu của chính phủ, vừa vay được với chi phí thấp và giảm thiểu rủi ro. Thực tế chỉ ra rằng, không phải mọi khoản nợ công đều mang tính tiêu cực. Do đó, vấn đề đặt ra trước hết là phải quản lý nợ công như thế nào cho hiệu quả. Hướng dẫn quản lý nợ công của IMF/WB-2001 chỉ rõ: “mục tiêu của quản lý nợ công là đảm bảo nhu cầu tài chính của chính phủ được đáp ứng với chi phí thấp nhất trong trung và dài hạn phù hợp với mức độ rủi ro”. Thông qua chính sách và kế hoạch phát triển riêng của từng quốc gia, mục tiêu này đã được cụ thể hóa, thể hiện thông qua các nội dung chủ yếu trong quản lý nợ công, bao gồm: - Bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với vấn đề cơ cấu, quy mô và sử dụng nợ công. - Nâng cao và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về nợ công - Xây dựng các chiến lược quản lý nợ cụ thể và hiệu quả. - Xây dựng các mô mình quản lý rủi ro trong hoạt động quản lý nợ. - Đề xuất và thực thi phát triển thị trường chứng khoán Chính phủ 2. Khủng hoảng nợ công 2.1. Khủng hoảng nợ công là gì? Cũng giống như tình trạng đa khái niệm của nợ công, tùy thuộc vào từng góc độ nhìn nhận và đánh giá sự kiện, khủng hoảng nợ công được cắt nghĩa theo các cơ sở khác nhau. Hiểu một cách khái quát nhất, khủng hoảng nợ xảy ra khi thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó vượt quá khả năng kiểm soát, điều tiết và trả nợ của chính phủ, dẫn đến suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng. Trải qua thời gian dài vận động phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung, khái niệm về vấn đề khủng hoảng nợ công cũng được thay đổi nhiều lần và riêng rẽ đối với từng tổ chức, khu vực độc lập. « Theo cách tiếp cận từ các khoản nợ khất lại, Detragiache và Spilimbergo (2001) xác định rằng cuộc khủng hoảng nợ sẽ xảy ra nếu một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau đây xảy ra: -  Có những khoản nợ gốc hoặc lãi chưa hoàn trả hoặc đang trả dở dang song phải xin khất lại nghĩa vụ trả nợ đối với chủ nợ (ngân hàng, tổ chức sở hữu trái phiếu) chiếm trên 5% tổng dư nợ. -  Có một thỏa thuận gia hạn hoặc tái cơ cấu nợ với chủ nợ được liệt kê trong Báo cáo Phát triển Tài chính Toàn cầu (GDF) của Ngân hàng Thế giới (WB). « Nhìn nhận khủng hoảng nợ công tương đương với tình trạng “tiền phá sản”, Sy(2004) đưa ra lập luận: giống như việc mất khả năng thanh toán những khoản nợ trong khu vực tài chính doanh nghiệp, khủng hoảng nợ công là biểu hiện “tiền phá sản” của trái phiếu chính phủ. Theo định nghĩa đó, Sy đã chỉ ra từ năm 1994 đến năm 2002, trên thế giới xảy ra 140 sự kiện “tiền phá sản”, làm giảm uy tín và năng lực của thị trường trái phiếu Chính phủ. Trong thời điểm hiện nay, định nghĩa về nợ công của tổ chức Standard and Poor’s, quỹ tiền tệ thế giới IMF và Ngân hàng thế giới WB là một số cách giải thích được ưa thích trích dẫn và sử dụng nhiều hơn cả. « Theo Quỹ tiền tệ thế giới IMF, một quốc gia được xác nhận lâm vào khủng hoảng nợ nếu nó được tổ chức Standard & Poor’s liệt vào danh sách các nước không có khả năng hoàn trả nợ hoặc phải xin vay từ IMF một khoản lớn (vượt quá 100% hạn mức tín dụng đề ra) để tài trợ cho khoản nợ nói trên. Ở đây, tiêu chuẩn được đưa ra để Standard and Poor’s xác định một quốc gia là không có khả năng hoàn trả nợ là việc chính phủ của quốc gia đó không thể thanh toán đủ gốc hoặc tiền lãi cho các khoản nợ nước ngoài vào ngày đáo hạn hoặc trong thời gian ân hạn quy định (bao gồm các khoản phát sinh trong nghiệp vụ thanh toán nợ bằng hối phiếu, nghiệp vụ SWAPs tài sản nợ, …). Như vậy, tình hình vay nợ bất thường với quy mô lớn tại Quỹ tiền tệ quốc tế IMF là một trong những dấu hiệu báo trước cho những bất ổn trong tình trạng nợ công của một quốc gia, có thể dẫn đến nguy cơ khủng hoảng nhanh chóng. Dù các khái niệm nêu trên diễn đạt khủng hoảng nợ công theo các cách khác nhau, có thể thấy rõ rằng mọi định nghĩa đều bao chứa những nội dung cơ bản tương đồng. Đó là: Khủng hoảng nợ công xảy ra khi chính phủ một quốc gia không thể trả được nợ và buộc phải tìm kiếm, cầu viện đến các sự trợ giúp khác. 2.2. Đặc điểm của khủng hoảng nợ công Dựa vào những định nghĩa nêu trên, có thể chỉ ra một số đặc trưng quan trọng mang tính bản chất đối với các cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới. Một là, khủng hoảng nợ công mang bản chất là khủng hoảng kinh tế, làm suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Hai là, khủng hoảng nợ công không phân biệt quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển. Điều này có nghĩa là, bên cạnh vấn đề thiếu nợ thường xuyên tái diễn ở các quốc gia thuộc “Thế giới thứ ba”, khủng hoảng nợ hoàn toàn có khả năng xảy ra ở những nước phát triển, nơi nền kinh tế tăng trưởng một cách tương đối cao và ổn định. Ba là, khủng hoảng nợ công một khi đã diễn ra thường kéo dài trong một thời gian, kéo theo nhiều hệ lụy không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trong chính trị - văn hóa - xã hội. Bốn là, khủng hoảng
Tài liệu liên quan