Chiếm khoảng 96% số lượng doanh nghiệp, Các DNVVN đang ngày càng có vai trò quan trọng và trở thành động lực tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế. Đặc biệt là Việt Nam bước vào hội nhập từ một nền kinh tế chưa phát triển. Phát triển DNVVN đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Theo định hướng của Chính phủ đến năm 2010, cả nước sẽ có 500.000 DNVVN, tạo việc làm cho khoảng 20 triệu người.
Để có được sự thành công, các DNVVN cần phải được đáp ứng đầy đủ về vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, việc tiếp cận các nguồn vốn chính thức của DNVVN hiện nay còn gặp rất nhiều khó khăn, do vốn ưu đãi phát triển DNVVN từ các nguồn tài trợ của nước ngoài còn hạn chế, năng lực của DNVVN chưa đáp ứng các điều kiện để có thể huy động từ thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, để mở rộng sản xuất và phát triển hoạt động kinh doanh, DNVVN chủ yếu tiếp cận nguồn vốn tín dụng Ngân hàng. Nhưng việc tiếp cận nguồn vốn này cũng không phải dễ dàng. Theo điều tra về thực trạng DNVVN của Cục phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ có 32,28% các DNVVN có khả năng tiếp cận được nguồn vốn Ngân hàng, còn lại các DNVVN rất khó hoặc không thể tiếp cận được.
Điều đó cho thấy việc mở rộng cho vay đối với các DNVVN hiện nay là cơ hội đối với các NHTM nói chung và NHCT Hoàn Kiếm nói riêng; phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, giúp cho các ngân hàng chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý, tăng trưởng tín dụng, đa dạng hoá các danh mục đầu tư cho vay, phân tán rủi ro và nâng cao vị thế cạnh tranh.
Với mục tiêu đến năm 2010 là "NHCT Việt Nam trở thành NHTM dẫn đầu Việt Nam về tài trợ DNVVN" NHCT Việt Nam đã và đang tích cực thực hiện những chính sách nhằm hỗ trợ tốt nhất cho đối tượng này. Là một chi nhánh của NHCT Việt Nam, NHCT Hoàn Kiếm cũng đang nỗ lực thực hiện việc mở rộng cho vay đối với các DNVVN. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn không ít khó khăn, thách thức. Vì vậy, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm” làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Nội dung chính chuyên đề tốt nghiệp gồm ba chương như sau:
Chương 1: Cho vay ngắn hạn và mở rộng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN tại ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay ngắn hạn đối với các DNVVN tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm
70 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1275 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Chiếm khoảng 96% số lượng doanh nghiệp, Các DNVVN đang ngày càng có vai trò quan trọng và trở thành động lực tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế. Đặc biệt là Việt Nam bước vào hội nhập từ một nền kinh tế chưa phát triển. Phát triển DNVVN đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Theo định hướng của Chính phủ đến năm 2010, cả nước sẽ có 500.000 DNVVN, tạo việc làm cho khoảng 20 triệu người.
Để có được sự thành công, các DNVVN cần phải được đáp ứng đầy đủ về vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, việc tiếp cận các nguồn vốn chính thức của DNVVN hiện nay còn gặp rất nhiều khó khăn, do vốn ưu đãi phát triển DNVVN từ các nguồn tài trợ của nước ngoài còn hạn chế, năng lực của DNVVN chưa đáp ứng các điều kiện để có thể huy động từ thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, để mở rộng sản xuất và phát triển hoạt động kinh doanh, DNVVN chủ yếu tiếp cận nguồn vốn tín dụng Ngân hàng. Nhưng việc tiếp cận nguồn vốn này cũng không phải dễ dàng. Theo điều tra về thực trạng DNVVN của Cục phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ có 32,28% các DNVVN có khả năng tiếp cận được nguồn vốn Ngân hàng, còn lại các DNVVN rất khó hoặc không thể tiếp cận được.
Điều đó cho thấy việc mở rộng cho vay đối với các DNVVN hiện nay là cơ hội đối với các NHTM nói chung và NHCT Hoàn Kiếm nói riêng; phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, giúp cho các ngân hàng chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý, tăng trưởng tín dụng, đa dạng hoá các danh mục đầu tư cho vay, phân tán rủi ro và nâng cao vị thế cạnh tranh.
Với mục tiêu đến năm 2010 là "NHCT Việt Nam trở thành NHTM dẫn đầu Việt Nam về tài trợ DNVVN" NHCT Việt Nam đã và đang tích cực thực hiện những chính sách nhằm hỗ trợ tốt nhất cho đối tượng này. Là một chi nhánh của NHCT Việt Nam, NHCT Hoàn Kiếm cũng đang nỗ lực thực hiện việc mở rộng cho vay đối với các DNVVN. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn không ít khó khăn, thách thức. Vì vậy, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm” làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Nội dung chính chuyên đề tốt nghiệp gồm ba chương như sau:
Chương 1: Cho vay ngắn hạn và mở rộng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN tại ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay ngắn hạn đối với các DNVVN tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm
Chương 1: CHO VAY NGẮN HẠN VÀ MỞ RỘNG CHO VAY NGẮN HẠN DNVVN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ( DNVVN) trong nền kinh tế thị trường
1.1.1 Khái niệm DNVVN
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Tiêu chí phân loại doanh nghiệp theo quy mô ở các nước không giống nhau. Một số nước khi xác định DNVVN chỉ dựa trên tiêu chí duy nhất là số lao động (nhỏ hơn hoặc bằng 250 người). Có nước lại căn cứ vào mức doanh thu hàng năm, số khác đặt ra các tiêu chí khác nhau cho các ngành công nghiệp khác nhau.
Ở Việt Nam, trước đây theo Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 của Chính phủ quy định, tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người.
Hiện nay, theo điều 03 Nghị định số 90/2001/NĐ – CP ngày 23/11/2001, doanh nghiệp vừa và nhỏ ( Small and medium enterprises - SME) là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Nghị định quy định đối tượng áp dụng bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước.
- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
1.1.2 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế thị trường
Theo định nghĩa trên thì hầu hết (trên 90%) các DN tư nhân ở Việt Nam đều là DNVVN. Dù có quy mô vừa và nhỏ nhưng khu vực kinh tế này đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế quốc gia, nhất là kể từ khi có Luật Doanh nghiệp ra đời. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của khu vực này là 20%. Vì thế, tầm quan trọng và đóng góp của các DNVVN không thể bị xem nhẹ. Nhìn chung, các DNVVN ở Việt Nam:
Có số lượng nhiều nhất: Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, DNVVN Việt Nam chiếm trên 96% số doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, chiếm khoảng 98% tổng số cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước.
Tạo ra nhiều công ăn việc làm nhất, góp phần thực hiện Chiến lược xóa đói giảm nghèo: Ước tính DNVVN tạo ra hơn 60% việc làm phi nông nghiệp, khoảng 26% lao động cả nước. DNVVN sử dụng trên 90% số lao động có việc làm thường xuyên. Quan trọng hơn, DNVVN có khả năng thu hút những lực lượng lao động tại chỗ, ít được đào tạo bài bản, đó là một vấn đề mang tính xã hội rất lớn, tăng thu nhập cá nhân, giảm đói nghèo. DNVVN là nơi có khả năng tiếp nhận phần lớn số lao động mới hàng năm và số lao động dư thừa do sắp xếp lại DNNN hay cải cách hành chính, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, ổn định và phát triển xã hội.
Thường đóng góp nhiều nhất vào GDP: Mức độ đóng góp của DNVVN vào nền kinh tế ngày càng lớn. Không chỉ tăng trưởng về mặt số lượng, các DNVVN đang trở thành bộ phận quan trọng có đóng góp đáng kể cho nền kinh tế, góp phần tăng giá trị xuất khẩu của cả nước. Hàng năm, DNVVN huy động gần 30 tỷ USD sử dụng 2,6 triệu lao động và đóng góp gần 40% GDP cả nước, 32% tổng vốn đầu tư toàn nền kinh tế, khoảng 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, khoảng gần 80% tổng mức bán lẻ, khoảng 67% vào nguồn thu ngân sách từ thuế, khoảng 64% tổng lượng vận chuyển hàng hóa và 100% giá trị sản lượng hàng hóa một số ngành nghề thủ công mỹ nghệ...
Bên cạnh đó, sự phát triển DNVVN là một kênh thu hút tích cực, có khả năng huy động nguồn lực xã hội to lớn vào phát triển kinh tế, tận dụng và tiết kiệm tối đa các nguồn lực về vốn, lao động, tài nguyên, đất đai… cho đầu tư phát triển. Với qui mô hợp lý, DNVVN đã góp phần tích tụ vốn, tạo ra cơ hội hình thành những doanh nghiệp lớn trong tương lai. Góp phần tập trung vốn của xã hội tạo ra những cơ sở vật chất ban đầ
Đây là bộ phận có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ, là các vệ tinh gắn kết, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của các DN lớn trong nền kinh tế: Các DNVVN có thể bổ trợ cho các doanh nghiệp công nghiệp lớn trong việc cung cấp nguyên liệu đầu vào, bao bì; gia công, chế biến các bộ phận, phụ tùng và bán thành phẩm; tiếp thị và phân phối sản phẩm..., góp phần tạo ra sức cạnh tranh cần thiết để đẩy mạnh quá trình phát triển và nâng cao tính cạnh tranh trên toàn quốc. Các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong khâu lưu thông phân phối các sản phẩm do doanh nghiệp lớn sản xuất, nhất là tại các khu vực nông thôn, vùng núi.
Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Sự phát triển của các DNVVN ở khu vực nông thôn góp phần rất lớn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, xóa dần tình trạng thuần nông, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Các DNVVN có thể đóng góp vào nỗ lực phân bổ các ngành công nghiệp đến nhiều vùng dân cư khác nhau, nhờ đó giảm bớt được khoảng cách phát triển giữa các khu vực khác nhau và tạo ra được sự phát triển cân đối giữa các vùng khác nhau trên toàn quốc.
DNVVN sản xuất hàng công nghiệp, thủ công mỹ nghệ, góp phần duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống.
Góp phần tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh: Sự phát triển của các DNVVN tạo ra một khối lượng lớn hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng cho xã hội, tạo ra sự lựa chọn đa dạng cho người tiêu dùng, tạo ra môi trường cạnh tranh buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải liên tục đổi mới sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, cắt giảm chi phí. Đó là những yếu tố thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh một cách năng động, hiệu quả hơn.
DNVVN góp phần đào tạo và bồi dưỡng doanh nhân – nguồn nhân lực quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.3 Đặc điểm của DNVVN
Theo định nghĩa thì, DNVVN ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân, hoạt động trong nhiều lĩnh vực ngành nghề, danh mục cung cấp hàng hóa, dịch vụ đa dạng. Loại hình DNVVN bao gồm chủ yếu các công ty trách nhiệm hữu hạn và các công ty cổ phần của khu vực tư nhân tập trung vào một số lĩnh vực như chế biến nông – lâm - thuỷ - hải sản; gia công may mặc; sản xuất giày dép; linh kiện thiết bị điện tử; làm uỷ thác cho các doanh nghiệp lớn hoặc gia công cho các công ty nước ngoài.
Nhờ quy mô nhỏ gọn, mô hình tổ chức quản lý sản xuất đơn giản nên các doanh nghiệp này có lợi thế là rất linh hoạt, dễ chuyển hướng sản xuất kinh doanh, có khả năng nắm bắt cả những nhu cầu nhỏ lẻ của các khách hàng mang tính khu vực, địa phương. Dễ thay đổi cơ cấu sản phẩm để phù hợp với đòi hỏi của thị trường
Khác với các doanh nghiệp lớn, DNVVN bước đầu đi vào sản xuất kinh doanh cần một lượng vốn đầu tư ban đầu ít, có thể thu hồi vốn nhanh. Yêu cầu về vốn bổ sung và thiệt hại khi thay đổi tài sản cố định không nhiều nên có thể nhanh chóng đổi mới công nghệ khi cần thiết.
Tuy hầu hết các DNVVN không đủ tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng nhưng tài sản bảo đảm cho khoản vay chủ yếu là tài sản cá nhân hoặc tài sản của chủ doanh nghiệp nên trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với khoản nợ ngân hàng cao.
Mặc dù số lượng lớn và tăng nhanh trong thời gian gần đây song quy mô của hầu hết là rất nhỏ, phần lớn lại mới được thành lập trong vòng khoảng gần chục năm trở lại đây, nhất là sau khi có Luật Doanh nghiệp ra đời, nên DNVVN ít kinh nghiệm kinh doanh, chi phí sản xuất kinh doanh cao, năng suất lao động thấp.
Tình trạng chung và hầu hết của các DNVVN hiện nay là: Hạn chế trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức; Trình độ khoa học công nghệ, tay nghề lao động, trình độ quản lý còn thấp; Thiếu thông tin, thiếu thị trường, quan hệ kinh doanh hạn hẹp; Sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa thấp, khó tiêu thụ sản phẩm, độ rủi ro cao. Có nhiều vấn đề mà DNVVN không thể tự giải quyết được như: tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường, đào tạo nguồn nhân lực…
Số lượng DNVVN chiếm khoảng 96 % trong tổng số doanh nghiệp, song tổng số vốn cho sản xuất kinh doanh mới chỉ bằng khoảng 32% so với tổng vốn của các doanh nghiệp trong cả nước. Điều này phản ánh khả năng thu hút vốn vào sản xuất kinh doanh của các DNVVN còn thấp, mặt khác cho thấy, DNVVN chưa được quan tâm đầu tư vốn để mở rộng sản xuất.
Quản trị nội bộ của DNVVN còn yếu, nhất là quản lý tài chính; ý thức chấp hành các chế độ chính sách chưa cao; còn lúng túng trong việc liên kết, nhất là liên kết trong cùng một hội ngành nghề.
1.2 Mở rộng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN
1.2.1 Các hình thức tín dụng ngân hàng
Theo luật các tổ chức tín dụng, hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng.
Cấp tín dụng là việc các tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ: cho vay, cầm cố, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu thương phiếu chưa đến hạn.
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê. Sau một thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình.
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay được phân loại theo một số tiêu thức chính sau:
1.2.1.1 Theo phương thức cho vay
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó, ngân hàng thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi trội trên số dư tài khoản thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian xác định, phù hợp với các qui định của NHNN về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Phương thức cho vay này dựa trên cơ sở thu chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và qui mô. Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, đơn giản, không có đảm bảo nên phần lớn chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn, kỳ thu nhập ngắn.
- Cho vay từng lần: Theo phương thức này doanh số cho vay không vượt quá số tiền cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng ( HĐTD). Mỗi lần vay vốn, khách hàng và ngân hàng làm thủ tục vay vốn và ký kết HĐTD.
Đây là hình thức tín dụng phù hợp với các khách hàng không có nhu cầu thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Nghiệp vụ cho vay từng lần khá đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Số tiền cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở dự án, phương án, nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tào sản bảo đảm tiền vay, nguồn trả nợ và khả năng hoàn trả nợ của khách hàng vay.
- Cho vay theo hạn mức cho vay: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức cho vay là mức dư nợ tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định.
Theo phương thức cho vay này, dư nợ cho vay không vượt quá hạn mức cho vay đã thỏa thuận trong HĐTD. Áp dụng đối với các khách hàng đủ điều kiện vay vốn, sản xuất kinh doanh ổn định, mặt hàng đa dạng, có quan hệ vay vốn thường xuyên và có mức độ tín nhiệm cao về sử dụng vốn vay.
Hạn mức cho vay, thời gian duy trì hạn mức cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở phương án, kế hoạch kinh doanh, nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản bảo đảm tiền vay, nguồn trả nợ, khả năng hoàn trả nợ của khách hàng vay. Nếu thanh lý HĐTD cũ, ký kết HĐTD mới thì hạn mức cho vay mới bao gồm cả dư nợ thực tế của HĐTD cũ.
Tuy nhiên, cho vay theo phương thức này ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Theo phương thức này, doanh số cho vay không vượt quá số tiền đã thỏa thuận trong HĐTD. Số tiền cho vay, thời hạn cho vay được xác định trên cơ sở dự án, nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản bảo đảm tiền vay, nguồn trả nợ, khả năng trả nợ của khách hàng vay.
Ngân hàng có thể thẩm định và quyết định cho vay đối với nhu cầu vốn cố định và số tiền/hạn mức cho vay đối với nhu cầu vốn lưu động dự kiến của dự án. HĐTD về cho vay vốn lưu động chỉ ký kết và giải ngân khi khách hàng có nhu cầu sử dụng vốn lưu động.
- Cho vay trả góp: là nghiệp vụ tín dụng, qua đó, ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng hóa lâu bền.
Cho vay theo phương thức này, doanh số cho vay không vượt quá số tiền cho vay đã thỏa thuận trong HĐTD, số tiền vay được trả nợ thành nhiều kỳ hạn đều nhau với tổng số tiền trả nợ gốc và lãi của mỗi kỳ hạn bằng nhau, trong đó, số tiền trả lãi được tính trên dư nợ thực tế và số ngày thực tế của kỳ hạn trả nợ đó.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa mua trả góp, nên lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành thẻ: Là việc ngân hàng chấp nhận cho khách hàng sử dụng vốn vay trong phạm vi hạn mức cho vay để thanh tóan tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt đại lý của ngân hàng.
- Cho vay hợp vốn: Là việc ngân hàng cùng với một hoặc một số tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh của tổ chức tín dụng khác thực hiện việc cho vay một hoặc một phần dự án, phương án, trong đó, ngân hàng có thể là tổ chức đầu mối hoặc thành viên cho vay hợp vốn theo quy chế đồng tài trợ của NHNN.
- Cho vay theo các phương thức khác: Tùy theo nhu cầu của khách hàng và thực tế phát sinh, ngân hàng sẽ xem xét cho vay theo các phương thức khác phù hợp với đặc điểm hoạt động trong từng thời kỳ và không trái với qui định của pháp luật.
1.2.1.2 Theo thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc, lãi trong hạn, lãi phạt quá hạn và phí ( nếu có) đã được thỏa thuận trong HĐTD. Việc xác định thời hạn cho vay phụ thuộc vào nhu cầu vay vốn, khả năng trả nợ và thời gian sử dụng còn lại của tài sản đảm bảo.
Việc phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì có thời hạn cho vay có liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của khỏan cho vay. Được chia thành:
- Cho vay ngắn hạn: thời hạn cho vay đến 12 tháng.
Cho vay ngắn hạn nhằm tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. Ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp, gián tiếp, cho vay theo hạn mức, cho vay theo món vay, cho vay có hoặc không có tài sản đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi, hoặc luân chuyển.
- Cho vay trung hạn: thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
- Cho vay dài hạn: thời hạn cho vay trên 60 tháng.
Cho vay trung dài hạn thường nhằm tài trợ cho các dự án, mua sắm tài sản cố định, đầu tư công nghệ…của doanh nghiệp, nhu cầu vốn trung dài hạn đầu tư phát triển của Nhà nước, nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền của người tiêu dùng.
Cho vay ngắn hạn tại các ngân hàng thường cao hơn các khoản cho vay trung và dài hạn, do các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng, hơn nữa, các khoản cho vay trung dài hạn có độ rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt hơn và khan hiếm hơn.
1.2.2 Cho vay ngắn hạn đối với DNVVN
1.2.2.1 Vai trò của cho vay ngắn hạn đối với DNVVN
Cho vay ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn đến 12 tháng. Ngân hàng cho DNVVN vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn kinh doanh ngắn hạn của doanh nghiệp, chủ yếu là bổ sung vốn lưu động thiếu hụt của doanh nghiệp.
Vốn lưu động của doanh nghiệp thường được hiểu là : hàng tồn kho + phải thu – phải trả. Đây là lượng vốn cần thiết để tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp.
Hầu hết các doanh nghiệp đều có các khoản phải thu, các doanh nghiệp cũng có thể mua chịu từ các nhà cung cấp. Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, linh hoạt trong kinh doanh, ngoài ra còn cho phép mở rộng mối quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Tuy nhiên rất ít DNVVN có khả năng nhận được tín dụng nhà cung cấp đủ lớn để tài trợ cho hàng tồn kho và các khoản phải thu. Hơn nữa, khi quy mô tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại quá lớn thì rủi ro trong quan hệ tín dụng này cũng rất cao.
Mặt khác, các DNVVN có tỷ lệ rủi ro cao hơn những doanh nghiệp lớn và được hình thành chính thống nên họ có rất ít nguồn tín dụng thay thế. Vốn ưu đãi phát triển DNVVN từ các nguồn tài trợ của nước ngoài còn hạn chế, năng lực của DNNVV lại chưa đáp ứng các điều kiện để có thể huy động từ thị trường chứng khoán. Hơn nữa, đối với hầu hết các DNVVN đang tăng trưởng ngay cả khi không phát sinh nhu cầu đầu tư cơ bản thì lợi nhuận giữ lại cũng không đủ để đáp ứng toàn bộ nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Đó là chưa kể đến lợi nhuận giữ lại thường được ưu tiên