Năm 2009 là năm thứ 3 Việt Nam tham gia tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và cũng là năm chứng kiến sự biến động mạnh mẽ trên thị trường tài chính tiền tệ trong nước và quốc tế. Sự biến động cuộc khủng hoảng kinh tế Thế giới đã tác động mạnh đến đời sống nhân dân: lạm phát tăng cao, giá dầu, giá vàng tăng kỷ lục, lãi suất cũng liên tục biến động mạnh trong năm. Không chỉ ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, hệ thống Ngân hàng cũng chịu rất nhiều tác động xấu, cụ thể nhất là khả năng thanh khoản của các Ngân hàng, tạo ra sức ép tăng lãi suất huy động.
Năm 2009 cũng là năm cạnh tranh trên thị trường dịch vụ ngân hàng diễn ra quyết liệt hơn với nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ mới được các ngân hàng triển khai cung cấp tới khách hàng. Các ngân hàng có vốn Nhà nước tập trung phát triển theo hướng thành lập các tập đoàn tài chính, trong khi các ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô trung bình và nhỏ tập trung định hướng phát triển ngân hàng bán lẻ với các đối tượng khách hàng chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ và khách hàng cá nhân. Vì vậy có thể nhận thấy trên thị trường dịch vụ ngân hàng năm qua sôi động hơn với việc các ngân hàng đẩy mạnh các hoạt động ngân hàng bán lẻ. Khách hàng có thêm nhiều lựa chọn sử dụng những tiện ích ngân hàng để thanh toán cho những chi phí trong cuộc sống hàng ngày như tiền điện, nước, điện thoại, internet, mua sắm tại một số siêu thị,
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển chung của thị trường. Ngay từ những ngày đầu thành lập VCB cũng đã xác định cạnh tranh phát triển cho vay tiêu dùng sẽ là hướng đi mới giúp phân tán rủi ro và nâng cao khả năng hội nhập. Tuy đã bước đầu hình thành và tổ chức hoạt động theo thông lệ của các NHTM hiện đại trên thế giới, theo đó các hoạt động bán lẻ được quan tâm chỉ đạo và kiểm soát một cách bài bản nhưng trong bối cảnh nền kinh tế đương đầu với những khó khăn thách thức, hoạt động tín dụng tiêu dùng của Vietcombank gặp không ít khó khăn.
Xuất phát từ lý do đó, tôi chọn đề tài “ Mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
78 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1215 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2009 là năm thứ 3 Việt Nam tham gia tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và cũng là năm chứng kiến sự biến động mạnh mẽ trên thị trường tài chính tiền tệ trong nước và quốc tế. Sự biến động cuộc khủng hoảng kinh tế Thế giới đã tác động mạnh đến đời sống nhân dân: lạm phát tăng cao, giá dầu, giá vàng tăng kỷ lục,… lãi suất cũng liên tục biến động mạnh trong năm. Không chỉ ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, hệ thống Ngân hàng cũng chịu rất nhiều tác động xấu, cụ thể nhất là khả năng thanh khoản của các Ngân hàng, tạo ra sức ép tăng lãi suất huy động.
Năm 2009 cũng là năm cạnh tranh trên thị trường dịch vụ ngân hàng diễn ra quyết liệt hơn với nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ mới được các ngân hàng triển khai cung cấp tới khách hàng. Các ngân hàng có vốn Nhà nước tập trung phát triển theo hướng thành lập các tập đoàn tài chính, trong khi các ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô trung bình và nhỏ tập trung định hướng phát triển ngân hàng bán lẻ với các đối tượng khách hàng chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ và khách hàng cá nhân. Vì vậy có thể nhận thấy trên thị trường dịch vụ ngân hàng năm qua sôi động hơn với việc các ngân hàng đẩy mạnh các hoạt động ngân hàng bán lẻ. Khách hàng có thêm nhiều lựa chọn sử dụng những tiện ích ngân hàng để thanh toán cho những chi phí trong cuộc sống hàng ngày như tiền điện, nước, điện thoại, internet, mua sắm tại một số siêu thị,…
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển chung của thị trường. Ngay từ những ngày đầu thành lập VCB cũng đã xác định cạnh tranh phát triển cho vay tiêu dùng sẽ là hướng đi mới giúp phân tán rủi ro và nâng cao khả năng hội nhập. Tuy đã bước đầu hình thành và tổ chức hoạt động theo thông lệ của các NHTM hiện đại trên thế giới, theo đó các hoạt động bán lẻ được quan tâm chỉ đạo và kiểm soát một cách bài bản nhưng trong bối cảnh nền kinh tế đương đầu với những khó khăn thách thức, hoạt động tín dụng tiêu dùng của Vietcombank gặp không ít khó khăn.
Xuất phát từ lý do đó, tôi chọn đề tài “ Mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để xem xét một cách tổng quát và có hệ thống về thực trạng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam trong xu thế hội nhập. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm làm cho sản phẩm cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương phong phú và đa dạng hơn, thu được hiệu quả cao hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề
Đề tài lấy hoạt động cho vay tiêu dùng tại Vietcombank làm đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam trong các năm 2007, 2008, 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề hoàn thành nhờ sử dụng kết hợp các phương pháp như: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử với phương pháp nghiên cứu lý luận, thực tiễn, so sánh.
5. Kết cấu chuyên đề
Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về cho vay tiêu dùng
1.1.1 Khái niệm về cho vay tiêu dùng
Tín dụng là một trong những chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng, để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của các thành phần trong nền kinh tế. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu, chiếm từ 1/3 đến 2/3 nguồn thu của các ngân hàng. Các ngân hàng cung cấp nhiều loại hình cho vay khác nhau dựa trên quy mô của từng ngân hàng, tương ứng với sự đa dạng trong mục đích vay, trên cơ sở đó mà tín dụng được phân thành nhiều loại như : cho vay ngắn hạn, cho vay dài hạn, cho vay cá nhân, cho thuê…trong đó mảng CVTD là một trong những thị trường đầy tiềm năng của các ngân hàng. Vậy CVTD là gì?
Trên thực tế có rất nhiều định nghĩa khác nhau về CVTD. Nhưng nhìn chung có thể định nghĩa CVTD là khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình, xe cộ,… Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế và dịch vụ… cũng có thể được tài trợ bởi CVTD.
1.1.2 Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Ngoài những đặc trưng chung của tín dụng ngân hàng: là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở niềm tin, là quan hệ vay mượn có thời hạn và có hoàn trả, tiền vay được cấp dựa trên cơ sở hoàn trả vô điều kiện, CVTD có những đặc điểm riêng như sau:
Khách hàng vay: là các cá nhân và hộ gia đình. Thu nhập và tiêu dùng có mối quan hệ thuận chiều với nhau nên những người có thu nhập cao thường có xu hướng vay tiền nhiều hơn những người có thu nhập thấp, và thường có nhu cầu vay nhiều hơn so với thu nhập hàng năm của mình. Tương tự như vậy, những gia đình mà chủ gia đình hay người tạo ra thu nhập chính có học vấn cao cũng thường có nhu cầu sử dụng những hàng hóa hiện đại và đắt tiền hơn, do đó mà nhu cầu tiêu dùng cũng cao hơn.
Mục đích vay: Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân chứ không phải mục đích kinh doanh. Các nhu cầu đó có thể liệt kê như : mua nhà, xây dựng nhà cửa, mua sắm vật dụng gia đình, chữa bệnh, đi học,…
Nguồn trả nợ: Việc sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay của người tiêu dùng thường không đem lại thu nhập. Do vậy, nguồn trả nợ thường được lấy từ lương hoặc thu nhập từ các hoạt động khác. Việc sử dụng vốn vay của ngân hàng sẽ tạo cho người vay một tâm lý tích lũy, tăng đọng lực làm việc của khách hàng.
Quy mô khoản vay: Ngoại trừ khoản vay bất động sản, hầu hết các khoản vay tiêu dùng đều có giá trị nhỏ. Tuy nhiên đối tượng của tín dụng tiêu dùng là mọi tâng lớp dân cư trong xã hội nên số lượng các khoản vay lại lớn. Khi khách hàng định mua bất cứ vật dụng gì, họ đều đã có một khoản tích lũy từ trước bởi vì ngân hàng không bao giờ cho vay 100% nhu cầu vốn. Vì thế, nhu cầu vốn của người tiêu dùng thường không quá lớn đối với ngân hàng ngay cả khi vay để mua nhà, xây nhà,…
Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng thường phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế.
Đối với người tiêu dùng, nhờ vay tiêu dùng họ được hưởng các tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền. Chính vì vậy khi nền kinh tế tăng trưởng mạnh, thu nhập của người dân cũng tăng lên, họ cảm thấy lạc quan về tương lai, do đó họ có nhu cầu mua sám nhiều, vì vậy nhu cầu về vay tiêu dùng có xu hướng tăng mạnh. Ngược lại khi nền kinh tế suy thoái, thu nhập của người dân có xu hướng giảm, do giá cả tăng cao nên người dân có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn là chi tiêu, do đó nhu cầu vay tiêu dùng giảm
CVTD là khoản mục có rủi ro cao nhất do các nguyên nhân:
Nguồn trả nợ chủ yếu từ thu nhập của người đi vay, mà tình hình tài chính của các cá nhân và hộ gia đình có thể thay đổi nhanh chóng tùy theo tình trạng công việc hay sức khỏe của họ nên họ không dễ dàng vượt qua khó khăn về tài chính so với một hãng kinh doanh.
Việc thẩm định và quyết định cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng thường gặp khó khăn do vấn đề thông tin không đầy đủ. Các thông tin cá nhân đưa ra thường không rõ rang và minh bạch như các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong khi các doanh nghiệp có báo cáo kiểm toán thì các cá nhân lại dễ dàng giữ kín thông tin về triển vọng công việc cũng như sức khỏe của mình.
Chi phí quản lý khoản vay tiêu dùng lớn: Các ngân hàng thường mất nhiều thời gian và nhân lực để điều tra, thu thập các thông tin cá nhân, hộ gia đình trước khi phát tiền vay. Trong khi đó, số lượng các khoản CVTD lại lớn khiến chi phí để quản lý các khoản tín dụng này của ngân hàng là rất lớn, không những vậy ngân hàng còn phải chịu những chi phí khác như chi phí quản lý khoản vay, theo dõi với khách hàng thường xuyên.
Lợi nhuận từ CVTD cao: Do rủi ro và chi phí cao nên ngân hàng thường đặt mức lãi suất cao đối với các khoản CVTD. Lãi suất CVTD phải đáp ứng được phần lợi nhuận mong đợi và phần bù rủi ro.
1.1.3 Vai trò của cho vay tiêu dùng
1.1.3.1. Đối với người tiêu dùng
Việt Nam đang là một trong những nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới, tình hình chính trị ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ngày càng được nâng cao một cách rõ rệt. Chính vì vậy nhu cầu tiêu dùng của người dân về những sản phẩm tiện ích, hiện đại ngày càng cao. Tuy nhiên do không phải tất cả mọi người đều có khả năng tự trang trải cho tất cả các nhu cầu của mình bằng chính nguồn lực của mình. Dịch vụ cho vay tiêu dùng ra đời đã giúp khách hàng được hưởng các tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền, đặc biệt trong những trường hợp cấp thiết như nhu cầu về giáo dục và y tế.
1.1.3.2 Đối với ngân hàng
CVTD nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng :Việt Nam đã chính thức gia nhập sân chơi chung của nền kinh tế thế giới, điều tất yếu đó là các ngân hàng sẽ phải đối mặt với sự cạnh trang găy gắt từ phía các TCTD trong nước cũng như nước ngoài tham gia vào thị trường tiền tệ Việt Nam. Để đảm báo khả năng cạnh tranh thì ngân hàng phải đưa ra được các dịch vụ tài chính thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng hơn đối thủ cạnh tranh. Một trong những dịch vụ đó là CVTD
CVTD là một trong những dịch vụ tài chính giúp các ngân hàng mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền gửi cho ngân hàng
CVTD tạo điều kiện giúp ngân hàng đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
1.1.3.3 Đối với nền kinh tế
CVTD giúp người dân được hưởng các tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền, nhất là trong những trường hợp chi tiêu có tính cấp bách như chi tiêu cho giáo dục, y tế. Như vây CVTD không chỉ mang lại lợi ích cho người tiêu dùng mà còn mang lại lợi ích cho nền kinh tế.
CVTD có vai trò quan trọng trong việc kích cầu, góp phần vào việc xây dựng nền tài chính vững mạnh cho một quốc gia. Thị trường CVTD đã góp phần tạo nên sự sôi động của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo nguồn vốn cho khu vực sản xuất trong nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từ đó tăng GDP cho nền kinh tế. Đi đôi với nó là hàng loạt các vấn đề xã hội được giải quyết như tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp họ cải thiện mức sống, giảm tệ nạn xã hội…
Mặt khác CVTD còn góp phần làm giảm chi phí giao dịch xã hội thông qua việc tiết kiệm chi phí và thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng.
Tóm lại, CVTD mang lại lợi ích cho cả người tiêu dùng, người sản xuất, NHTM hay tổng quan nền kinh tế nói chung. Có thể nói, phát triển CVTD là một hướng đi phù hợp với sự phát triển của xã hội và tuân theo quy luật kinh tế của các NHTM trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
1.1.4 Các hình thức CVTD
Việc phân loại CVTD được dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau nhằm giúp đưa ra một cái nhìn toàn diện về CVTD ở những giác độ khác nhau.
1.1.4.1 Căn cứ vào mục đích vay
Căn cứ vào mục đích vay, CVTD được chia ra làm hai loại:
CVTD cư trú (Residential Mortgate Loan): Là các khoảm cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hay cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình.
CVTD phi cư trú (Unresidential Loan): CVTD phi cư trú là các khoản cho vay tài trợ cho việc trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch…
1.1.4.2 Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Căn cứ vào phương thức hoàn trả, CVTD có thể chia làm ba loại:
CVTD trả góp (Installment Consumer Loan): Đây là hình thức CVTD trong đó người đi vay trả nợ (gồm số tiên gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương thức này được áp dụng cho những khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập định kì của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay.
Đối với loại CVTD này, các NHTM thường quan tâm đến một số vấn đề mang tính nguyên tắc sau:
+ Loại tài sản được tài trợ:
Loại tài sản được tài trợ có ảnh hưởng lớn đến thiện chí trả nợ của khách hàng. Thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn nếu tài sản hình thành từ tiền vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tương lai. Chính vì vậy nên ngân hàng thường muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có thời hạn sử dụng lâu bền hoặc có giá trị lớn. Vì với những tài sản như vậy, người tiêu dùng sẽ hưởng những tiện ích của chúng trong một thời gian dài nên thiện chí trả nợ của họ sẽ tốt hơn.
+ Số tiền phải trả trước
Ngân hàng thường yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm, số tiền này được gọi là số tiền trả trước. Phần còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cần phải đủ lớn một mặt, một mặt làm cho người đi vay nghĩ rằng họ chính là chủ sở hữu tài sản, Mặt khác có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Một khi không cảm nhận được rằng mình chính là chủ sở hữu của tài sản hình thành từ tiền vay thì người đi vay có thể sẽ có thái độ miễn cuỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra khi khách hàng không trả được nợ, trong nhiều trường hợp ngân hàng đành phải thụ đắc hoặc phát mãi tài sản để thu hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều bị giảm giá trị thường nhỏ hơn giá trị đã hạch toán của tài sản, cho nên số tiền trả trước có một vai trò rất quan trọng giúp ngân hàng hạn chế rủi ro.
Số tiền trả trước nhiều hay ít thường tuỳ thuộc vào các yếu tố sau:
- Loại tài sản: Đối với loại tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả trước nhiều và ngược lại, đối với các tài sản có mức độ giảm giá chậm, thì số tiền trả trước ít.
- Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi đã qua sử dụng: Tài sản sau khi sử dụng vẫn có thể được tiếp tục mua, bán dễ dàng thì số tiền trả trước có xu hướng thấp, ngược lại nếu tài sản đã qua sử dụng mà rất khó tìm được thị trường tiêu thụ thì số tiền trả trước có xu hướng cao hơn.
- Môi trường kinh tế : Là hệ thống hoàn cảnh cấu tạo các nhân tố tạo điều kiện, cơ sở, đồng thời tác động đến các yếu tố của nền kinh tế từ sản xuất, phân phối, lưu thông đến tiêu dùng. Bao gồm những yếu tố của sản xuất như tình hình cung cấp, thị trường về các loại như vật tư, nguyên liệu, sức lao động, tình hình vốn, tài chính tín dụng, thu nhập dân cư, giá cả thị trường, sức mua của dân cư và dung lượng thị trường, quan hệ kinh tế với nước ngoài. Như vậy, khi môi trường kinh tế thay đổi theo chiều hướng thuận lợi thì số tiền trả trước có xu hướng thấp và ngược lại, khi nền kinh tế thay chiều hướng bất lợi thì số tiền trả trước có xu hướng cao hơn.
+Năng lực tài chính của người đi vay.
Là yếu tố quyết định khả năng trả nợ của khách hàng do vậy với những khách hàng có năng lực tài chính tốt thì số tiền trả trước có thể thấp hơn so với những khách hàng có năng lực tài chính kém hơn
+ Chi phí tài trợ
Đây là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng cho việc sử dụng vốn. Chi phí tài trợ bao gồm lãi vay và các chi phí khác có liên quan. Chi phí tài trợ phải trang trải cho được chi phí vốn tài trợ, chi phí hoạt động, rủi ro, đồng thời mang lại một phần lợi nhuận thoả đáng cho ngân hàng.
+ Điều khoản thanh toán
Khi xác định các điều khoản liên quan đến việc thanh toán nợ của khách hàng, ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau:
Số tiền thanh toán mỗi định kỳ phải phù hợp với khả năng về thu nhập, trong mối quan hệ hài hoà với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng.
Giá trị của tài sản tài trợ không thấp hơn số tiền tài trợ chưa được thu hồi
Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng. kỳ hạn trả nợ thường theo tháng. vì thông thường nguồn trả nợ chính của người vay tiêu dùng là lương, được nhận hàng tháng
Thời hạn tài trợ không nên quá dài. Thời hạn tài trợ bị giới hạn bởi thời hạn hoạt động của tài sản tài trợ. Thời hạn tài trợ quá dài dễ làm giá trị tài sản tài trợ bị giảm mạnh. Hơn nữa, khi thời hạn tài trợ quá dài thì thiện chí trả nợ của người đi vay cũng như việc thu hồi nợ thường gặp nhiều rắc rối.
Số tiền khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng mỗi định kỳ có thể được tính bằng một trong số các phương pháp sau:
- Phương pháp gộp (Add-on Method): Đây là phương pháp thường được áp dụng trong CVTD trả góp.
Theo phương pháp này, lãi được tính bằng cách lấy vốn gốc nhân với lãi suất và thời hạn vay, sau đó cộng gộp vào vốn gốc rồi chia cho số kỳ hạn phải thanh toán để tìm số tiền phải thanh toán ở mỗi định kỳ.
Công thức tính toán như sau:
T = (V+L)/n
Với L = V ´ r ´ n
Trong đó:
T : Số tiền phải thanh toán cho ngân hàng mỗi kỳ hạn
L: Chi phí tài trợ, bao gồm lãi vay phải thanh toán và các chi phí khác có liên quan
V: Vốn gốc
N: Số kỳ hạn
R: Lãi suất tính cho mỗi kỳ hạn
- Phương pháp lãi đơn (Simple Interest Method): Theo phương pháp này, vốn gốc người đi vay phải trả từng định kì, được tính đều nhau bằng cách lấy vốn ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh toán. Còn lãi phải trả mỗi định kỳ được tính trên số tiền khách hàng thực sự thiếu ngân hàng.
- Phương pháp hiện giá (present Value Method): Theo phương pháp này, số tiền gốc và lãi mà người đi vay phải trả theo từng định kỳ nhất định được tính theo công thức sau đây:
Trong đó:
a =
V ´ (1+i)n ´ i
(1+i)n - 1
a : Số tiền gốc và lãi phải trả theo từng định kỳ
V: Số vốn gốc ban đầu
i : Lãi suất cho vay
n : Số kỳ hạn trả nợ
+ Vấn đề phân bổ lãi cho vay theo thời hạn
Khi sử dụng phương pháp gộp để tính lãi, các ngân hàng thường tiến hành phân bổ lại phần lãi cho vay đã được tính. Việc phân bổ theo định kỳ gắn liền với các kỳ thanh toán hoặc cũng có thể được thực hiện theo quý hay theo năm tài chính. Tuy nhiên, việc phân bổ lãi theo năm tài chính thường được các ngân hàng áp dụng nhiều hơn. Các phương pháp phổ biến dùng để phân bổ lãi cho vay bao gồm:
- Phương pháp đường thẳng (phương pháp tỷ lệ cố định) : theo phương pháp này, phần lãi trong kỳ đó so với toàn bộ số tháng tính lãi của thời hạn vay.
- Phương pháp tỷ suất lợi tức hiệu dụng (phương pháp quy tắc 78): tên gọi “quy tắc 78” xuất phát từ kết quả tổng cộng của dãy số từ 1 đến 12, tượng trưng cho 12 chu kỳ trả góp của một khoản vay 1+2+3+4+5+6+7+8+9+10+11+12=78
Quy tắc này vẫn có thể áp dụng cho các khoản vay trả góp có số kỳ hạn khác 12 kỳ. Đây là phương pháp được ngân hàng sử dụng phổ biến nhất trong việc hạch toán phân bổ lãi của các khoản cho vay trả góp.
Phương pháp lãi: Theo phương pháp này, trước hết, lãi suất cho vay được quy đổi ra thành lãi suất hiệu dụng. Sau đó, lãi suất hiệu dụng này được áp dụng phương pháp hiện giá để tính phần lãi phân bổ cho kỳ đó
+ Vấn đề trả nợ trước hạn:
Thông thường người đi vay được quyền trả nợ trước hạn mà không bị phạt. Nếu tiền trả góp được tính theo phương lãi đơn và lãi hiện giá thì vấn đề rất đơn giản, người đi vay, người đi vay phải thanh toán toàn bộ vốn gốc còn thiếu và lãi vay của kỳ hạn hiện tại (nếu có) cho ngân hàng. Tuy nhiên nếu tiền trả góp được tính bằng phương pháp gộp thì vấn đề có phần phức tạp hơn. Vì theo phương pháp gộp, lãi được tính trên cơ sở giả định rằng tiền vay sẽ được khách hàng sử dụng cho đến lúc kết thúc hợp đồng, cho nên nếu khách hàng trả nợ trước hạn thì thời hạn nợ thực tế sẽ khác với thời hạn giả định ban đầu, như vậy số tiền lãi phải trả cũng có sự thay đổi. Trong trường hợp này, ngân hàng thường áp dụng phương pháp giống như các phương pháp phân bổ lãi cho vay nói trên để tính ra số lãi thực sự phải thu, dựa trên thời hạn nợ thực tế.
CVTD phi trả góp (Noninstallment Consumer Loan):
Các khoản CVTD phi trả góp chỉ được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ, với thời hạn không dài. Theo phương pháp này tiền vay được được khách hàng thanh toán một lần khi đến hạn.
CVTD tuần hoàn (Revoling Consumer Credit):
Là các khoản CVTD trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương pháp này, trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu